SUỐI REO RỪNG TRÚC

H.T THÍCH NHẬT QUANG

ĐOẠN 11

 

Học đ̣i chư Phật,

Cho được viên thành;

Xướng khúc vô sinh,

An thiền tiêu sá (sái).

Chú thích:

- Tiêu sái: Tự do tự tại.

Giảng:

Học đ̣i chư Phật, cho được viên thành, chúng ta học theo Phật, tu theo Phật, th́ phải tu học cho đến nơi đến chốn. Ở đây nói học cho được viên thành, chữ “viên” là tṛn đầy, chữ “thành” là thành tựu. Chúng ta đă có tâm nguyện học theo con đường Phật đạo th́ phải nỗ lực làm sao để được thành Phật

Chư Tổ thường nhắc nhở chúng ta mỗi niệm tu hành, mỗi lần được chiêm ngưỡng dung nghi của chư Phật, Bồ-tát đều là những phút giây ta phát huy sự tu hành của ḿnh. Phát huy một cách tṛn trịa, tích cực. Nh́n thấy dung nhan của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chúng ta liền nhớ lại gương hạnh của Ngài và áp dụng hành tŕ theo pháp Ngài đă dạy, tức là tu hành để được giác ngộ giải thoát, chớ không mong chi khác.

Chúng ta có thể tu hành trong điều kiện không cần học vị cao, nhưng không có nghĩa là không học Phật pháp. Bởi v́ với người không khéo, học vị cao sẽ làm chướng ngại đường tu. Chúng ta suy nghĩ nhiều, vận dụng tri thức nhiều, do vậy đánh mất cái thấy chân thật. Cuối cùng ta ngược xuôi theo những suy nghĩ, toan tính, mà không quên mất việc tu hành. Các Thiền sư nói: “Mặc cho ông giảng tới trời mưa hoa, đá gật đầu, cũng không dính dáng ǵ hết”. Cho nên việc tu đ̣i hỏi công phu nơi mỗi chúng ta. Điều này huynh đệ đă có thể nghiệm từ lâu nay rồi.

Chúng ta đă có thể nghiệm công phu, hằng ngày bám sát trực tiếp với vấn đề đó. Huynh đệ nào trực nhận thẳng như vậy tức là có công phu. Cái nhận này không phải từ các giác quan, cũng không ĺa giác quan mà có. Chỉ ai thực tập mới thông cảm đến được. Người trực nhận khác hơn người chỉ mắt thấy tai nghe, rồi bị kéo lôi ngược xuôi dong ruổi theo âm thinh sắc tướng. Chúng ta nhớ các thiền sư khi có người tới hỏi đạo, các Ngài biểu “uống trà đi”, hoặc nói “cây bách trước sân” v.v… chúng ta không thể nào vận dụng tri thức sờ mó được việc đó. Chỉ có trực nhận mới ngộ được thôi. Điều này không phải chuyện đơn giản, song cũng không phải không thể thực hiện được.

Ví dụ mỗi chiều huynh đệ nghe tiếng đại hồng chung của Thiền viện, qua âm thanh tiếng hồng chung biểu hiện cái ǵ, tôi tin đă có vị nhận ra. Hoặc trong âm thanh của tiếng trống với những lời hô to, nhắc nhở chúng ta từng giai đoạn sự đổi thay nhanh chóng gấp rút. Mạng sống ngắn ngủi, thời gian qua nhanh, đại chúng phải siêng năng tu hành. Nhất định trong huynh đệ chúng ta, từ những vị đă ở Thiền viên mười năm, mười mấy năm, hoặc năm ba năm, luôn cả những vị tịnh nhân cư sĩ. Nghe lời đó các vị ít nhiều cũng nhận ra hoặc lư hoặc sự, chớ không như người đời chưa biết ǵ về Phật pháp.

Người đời nghe tiếng trống, họ phân biệt tiếng trống này hay, tiếng trống này dở, người hô trống hay hoặc dở, chớ không nhận ra ư ǵ trong đó. Chúng ta vừa nghe nhịp trống là biết tiếng trống báo động vô thường, mọi thứ đổi thay nhanh chóng, mạnh sống của ḿnh cũng thay đổi nhanh chóng, cần phải gấp siêng năng tinh tấn tu hành, chớ có buông lung. Nhận được như vậy, các vị đă giải ngộ hoặc tiểu ngộ rồi. Theo đó giữ công phu tu hành, phát triển tiểu ngộ thành đại ngộ, triệt ngộ. Rơ ràng có tu là có ngộ đạo, chớ đâu phải ù ĺ, ù ù cạc cạc hoài. Mỗi một thời thiền, mỗi một ngày sống trong Thiền viện, mỗi một ngày qua nh́n tất cả hiện tượng trước mắt, chúng ta biết rơ ràng sự kiện như vậy là công phu có tiến.

Hàng ngày chúng ta tiếp cận bao nhiêu sự việc đổi thay, nhưng vẫn cứ thờ ơ qua ngày. Nếu chịu tỉnh, chúng ta sáng suốt nhận ra thực tướng các cảnh duyên th́ sẽ ngộ đạo liền. Đó là những cơ hội cho chúng ta ngộ đạo liên tục từng ngày. Chung quanh ḿnh c̣n nhiều sự kiện khác nữa cũng là những nhân duyên để ta ngộ đạo. Ví dụ ngoài nhà khách, thầy Trưởng Tri khách nhờ một vị cư sĩ trồng lại cây hoa đang tươi tốt, nhưng vị đó làm không đúng nguyên tắc, nên hồi sáng nó tươi tốt, tới chiều héo queo, sáng mai gục luôn. Cây hoa cách đó không lâu c̣n xinh đẹp mà bây giờ phải giao cho mấy vị kéo rác đi đổ, nhanh như thế. Vậy mà không ai ngộ đạo!

Có những vị tu hành lâu mà vẫn c̣n ngờ “Không biết ḿnh tu như vậy có đúng không?” Sở dĩ ngờ như thế là tại v́ trong sinh hoạt hàng ngày thiếu tỉnh sáng. Cho nên đối với Phật lư có nghe, có học, nhưng thiếu phần thực nghiệm. Do vậy nên c̣n nghi ngờ pháp, nghi ngờ tất cả những ǵ chung quanh ḿnh. Thực ra, khi chúng ta tỉnh táo sáng suốt, quyết tâm hành tŕ pháp của Phật th́ khả năng giác ngộ là điều không quá tầm tay.

Ở đây Tổ dạy người tu hành th́ phải tu tới nơi tới chốn, phải có cái nhận sâu sắc. Nói cho dễ hiểu là ngộ đạo, chớ không phải học trên ngôn ngữ, văn từ. Huynh đệ muốn có học vị cao nên lao theo việc học măi thành ra quên tu. Nếu vị nào lớn tuổi, từ lúc bắt đầu học cho tới có bằng tiến sĩ, thạc sĩ… chắc các tế bào học bị teo cơ hết, Tới giai đoạn đó cơ chế tổ chức tâm sinh lư của quí vị không c̣n như lúc thanh xuân, muốn tu cũng tu không nổi. Cho nên lúc nào cũng nỗ lực tu hành là người khôn ngoan nhất. Chúng ta sử dụng thân này như một phương tiện để thành tựu đạo nghiệp, không hành hạ nó cũng không dễ dui chiều theo nó. Sáng suốt sử dụng thân trong giai đoạn cần thiết là người biết tu, khéo tu.

Các vị tịnh nhân cư sĩ c̣n trẻ, cố gắng hạ quyết tâm tu hành, học hiểu hành tŕ cho tốt. Những phần giải ngộ, tiểu ngộ là bông hoa chớm nở cống hiến cho công phu ngày một thêm sâu. Từ đó chúng ta sẽ thăng hoa, tiến nhanh trên đường tu hành. Khi đă chọn con đường đạo rồi, chúng ta nhất định đi con đường đó, chớ không đi đường khác, cũng không thối lui. Quá tŕnh tiến đạo đi từ giải ngộ, tiểu ngộ đến đại ngộ và giác ngộ triệt để, nếu không quyết chí th́ không thể thực hành trọn vẹn viên măn.

Trong đoạn này Tổ dạy chúng ta đă phát nguyện tu hành th́ phải được viên thành, không để dở dở ương ương chẳng tới đâu hết. Muốn xướng được khúc vô sanh, muốn an thiền tiêu sái th́ phải tu cho sáng đạo, ngộ đạo. Chỉ thế thôi.

 

 

 

]

 

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM