SUỐI REO RỪNG TRÚC

H.T THÍCH NHẬT QUANG

ĐOẠN 14

 

Đem ḿnh náu tới,

Cảnh vắng ngàn kia;

Giốc chí tu hành,

Giấy sồi vó vá.

Chú thích:

- Sồi: Gai hay vải thô.

 - Vó vá: Chắp vá.

Giảng:

Đoạn này Tổ dạy người tu đem thân ẩn nơi cảnh rừng núi vắng vẻ yên tĩnh, giốc chí tu hành, dùng chỉ gai thô kết làm đồ mặc, không sử dụng y phục thế gian. Những vị tu hành ngày xưa kể cả nhà vua chỉ dùng những vải thô, xấu tầm thường như giấy, hoặc gai thô. Như vạây để làm ǵ? Để cuộc sống không mất thời gian nhỏ nào cho việc ăn mặc, tiếp xúc, dồn tâm tư vào một việc chuyên nhất là tu hành mà thôi. Một khi các ngài nhận được yếu chỉ của đạo rồi th́ dành hết thời gian cho việc bảo vệ và phát huy đạo lư ấy. Phát huy những tiểu ngộ đến chỗ triệt ngộ, do đó các ngài không để mắc mứu hoặc bị trói buộc bởi duyên trần.

Bây giờ nh́n lại xem, có phải chúng ta bị mất quá nhiều thời gian bởi việc ăn mặc, ngủ nghỉ, tiếp cận. Tổ Quy Sơn nói việc thọ nhận càng nhiều th́ mắc mứu càng nặng. Huynh đệ nào có phước duyên được cúng kính nhiều, thọ nhận nhiều, th́ lời Tổ Quy Sơn nhắc nhở là rất cần thiết. Bởi nhận cúng kính càng nhiều th́ càng bị ràng buộc, càng hệ luỵ, khó vượt thoát để tiến thân. Do đó thanh quy của Thiền viện do Ḥa thượng chế định có lợi rất lớn cho đời sống tu hành của huynh đệ chúng ta. Từ giai đoạn tập sự sang giai đoạn trở thành một thiền tăng, suốt quá tŕnh tu học không cho việc tạp xen vào, tất cả tứ sự cơm áo thuốc thang đều có người lo, thiền tăng chỉ chuyên tâm tu hành. Nếu huynh đệ nào sống đúng theo tinh thần của thanh quy sẽ có đời sống an nhàn không bận rộn, không vướng mắc duyên trần.

Chúng ta mới tu đạo lực non kém nên vào chỗ ồn liền bị mất ḿnh, chưa thể có sức tự chủ được do đó cần phải tránh duyên, trưởng dưỡng đạo tâm. Sự sắp đặt của Ḥa thượng đối với Tăng Ni các thiền viện là sự sắp đặt phát xuất từ kinh nghiệm tu hành của Ngài. Đă từng làm tăng trải qua những giai đoạn học đạo, tu tập, hóa đạo v.v… Ḥa thượng biết rơ điểm ưu điểm khuyết trong cách sinh hoạt của một tu sĩ. Từ đó Ngài rút ra một định hướng cho đường lối chủ trương tu thiền của Ngài sau này. Chúng ta vâng theo sự chỉ dạy, sắp xếp của Ngài là tránh được nhiều mặt khuyết mà trước kia quư Ngài đă gặp phải. Cho nên đây là một phúc duyên lớn mà chư huynh đệ cần phải trân trọng khi được tu học nơi Thiền viện.

Huynh đệ sống trong Thiền viện an ổn tu hành, trên có quư Thầy lănh đạo lo lắng mọi điều. Đây là một hy sinh lớn cho huynh đệ, chỉ mong đại chúng yên tâm tu hành. Vậy mà anh em không nỗ lực tu, đôi lúc có vài người bày chuyện quảy gói đi, thật dở ơi là dở. Phải dành thời gian lo tu cho xong việc của ḿnh, sao lại để những vọng tưởng điên đảo chi phối kéo lôi mất đi tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề? Chúng ta chỉ nên giữ một tâm niệm duy nhất trong ḷng, đó là giốc chí tu hành, bớt phương tiện bên ngoài chừng nào hay chừng đó. Đừng đ̣i hỏi, đừng lệ thuộc vào chúng sẽ rước lụy vào thân đấy. Huynh đệ theo phước, theo duyên của ḿnh mà sống tu cho tốt.

Ví dụ trong giai đoạn này, chúng ta nương nơi phước của Ḥa thượng, Phật tử biết chư tăng ở đây đông nên gửi gạo cúng. Nhờ thế huynh đệ chúng ta có đủ cơm ngày ba bữa. Nhưng tới lúc nào người ta ít cúng, ḿnh phải ăn bớt đi một bữa, ta cũng vui. Vui đạo quên nghèo. Trong ḷng không lo lắng chuyện đói no, chỉ giữ công phu thôi. Tôi tin nếu chúng ta vững vàng như vậy, Phật pháp sẽ không cô phụ người có chí đâu!

Ngày xưa có những vị Tổ ẩn sâu trong rừng núi, ăn lá cây uống nước suối, lấy lá khô chằm lại để che thân. Nghe có ai t́m đến đảnh lễ các ngài rút vô rừng sâu hơn nữa. Trốn như vạây để làm ǵ? Để xong việc của ḿnh, chứ không phải sợ ai. Việc ḿnh chưa xong mà không chịu lo th́ biết chừng nào mới xong? Bây giờ chuyện tu hành là của ḿnh, ta không tu th́ ai tu thế cho đây? Không phải 140 huynh đệ ở đây, có một thầy tu thành Phật là 139 thầy kia thành theo. Không có chuyện đó. Một thầy thành Phật th́ chỉ thầy ấy là Phật thôi, c̣n 139 vị kia nếu tạo nghiệp luân hồi th́ vẫn cứ lăn lóc trong luân hồi sanh tử. Lăn lóc cho tới bao giờ u đầu sẩy trán hết chịu nổi, quanh trở lại tu chí tâm chí cốt mới thành Phật.

Tổ dạy những điều hết sức b́nh thường như biết tránh duyên, biết dừng tạo nghiệp, quyết tâm tu cho tới nơi tới chốn, sống bằng tinh thần tỉnh giác, không để hệ lụy bởi đời sống vật dục ở thế gian. Tuy lời dạy b́nh thường nhưng mọi người khó vượt qua được, nên nó trở thành phi thường, chứ không phải Phật pháp quá cao xa ở trên trời trên mây ǵ.

Muốn giốc chí tu hành th́ chúng ta phải đầy đủ ư chí, đầy đủ dũng lực, gan dạ phi thường mới hoàn thành việc tu, chứ không thể làm lừng khừng lấy lệ. Nói đến ư chí chắc rằng chúng ta không ai thiếu ư chí. Bởi có ư chí huynh đệ mới phát tâm tu, chịu cực chịu khó, chịu sự huấn dục dạy dỗ của các bậc thầy. Song có điều, có ư chí nhưng chưa giốc chí. Có ư chí nhưng ư chí ấy chưa mạnh mẽ thẳng tiến nên chưa thành tựu được việc lớn. Chúng ta vẫn c̣n lơ đễnh, xem thường công phu hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây… chưa biết quí tiếc thời gian và cũng chưa dồn hết mọi nỗ lực vào việc tu hành.

Chư huynh đệ nên nhớ việc ǵ đến với ta đó là quả, không phải nhân đâu. Người học Phật nên tinh nhiệm điều này. Ví dụ căn bệnh nào đó tới với chúng ta, không phải bây giờ nó mới tới, mà từ lâu nó đă nhiễm và ủ bệnh trong thân thể ta rồi. Đến khi nó quật ra thành bệnh trạng khiến ḿnh đau đớn khổ sở là quả đă tới rồi. Khi quả tới chúng ta mới chạy than, t́m cách chữa trị th́ đă muộn mất. Đa số bệnh nhân đều như vậy.

Trở lại cuộc đời tu hành của chúng ta cũng thế. Những chủng tử nhiễm nhơ từ lúc c̣n nho nhỏ, ta không hề để ư. Bởi không để ư nên nó loang nhiễm to dần rồi đậm cứng, kéo dây mơ rễ má đầy hết, tới lúc ḿnh than trời th́ sắp chết rồi, cứu đâu kịp nữa. Như một vị tịnh nhân khi mới vào tâïp sự, hoàn cảnh sống trong Thiền viện chưa thích hợp: thức khuya dậy sớm, ăn uống đạm bạc, làm việc nặng nhọc… gặp những điều bất như ư nhiều hơn những điều như ư. Thế là quí vị nhớ lại hồi xưa ḿnh ăn uống, ngủ nghỉ, đi chơi… tự do thoải mái, bây giờ việc ǵ cũng khép ḿnh vào nội quy thật g̣ bó, tù túng. Trong tâm khởi lên niệm phiền năo bực bội và nó được ghi vào trong tàng thức.

Nếu quí vị không biết tu chỉnh, niệm phiền năo ấy mỗi ngày mỗi đậm hơn. Hôm qua nó được ghi dưới gốc Bồ-đề trong lúc huynh đệ ngồi bàn tán chơi. Bữa nay nó ghi đậm hơn trong công việc thầy kêu làm bất thường. Và nó sẽ ghi đậm hơn nữa vào buổi khuya ḿnh bị kêu thức dậy quá sớm. A, nó cứ đậm thêm đậm thêm như vy chừng nửa tháng th́ lên tới phương trượng: “Thưa thầy, hôm trước con xin ở tập tu một tháng nhưng bữa nay, ở nhà có việc này việc kia nên con xin về.” Tới lúc này ông thầy chỉ có nước gật đầu thôi, chứ làm ǵ được bây giờ. Thật ra giây phút từ giă “con xin về” đó là hậu quả sau cùng từ một niệm ban đầu thiếu tỉnh giác đó thôi.

Ở đây, tôi muốn nói đến việc khởi niệm rất quan trọng đối với người tu thiền. Nếu chúng ta không tỉnh, không buông bỏ niệm mà để cho nó dẫn đi, nó thao túng th́ nhất định nó sẽ đẩy cả sinh mệnh của ḿnh xuống vực thẳm. Có những vị muốn bỏ chùa đi quách cho rồi nhưng không bỏ được, không biết đi đâu? Làm ǵ? Liệu ra ngoài có yên không?... Bao nhiêu nghĩ suy làm họ chùn bước, tiến th́ không tiến được mà lùi th́ cũng không xong. Sống trong t́nh trạng thượng bất chí, hạ bất đáo. Lơ lửng. Triết Đông phương nói “Con người đứng giữa ngă tư bị xé mé này bị xâu mé kia.” Nói rất hay. Chúng ta có khi không khéo bị vướng trong cảnh ấy, nên gương mặt lúc nào cũng nhăn nhó, ăn cơm không ngon, tu hành không vui, học giáo lư chẳng thấy ǵ, làm việc càng nản dữ… Đă thế th́ cứ ngồi đó mà đợi hậu quả tới. Hậu quả này tới hậu quả khác, đó là những hậu quả thông thường trong đời này, chưa kể nhiều hậu quả từ nhân quá khứ ập tới. Hai, ba hậu quả tới chồng chập nên rất dễ xách gói ra đi lắm.

Người đời cũng vậy. Nhiều khi buồn nản quá, không biết làm ǵ, vô quán nhậu. Họ viện lư do này lư do nọ, nhưng thật ra chính yếu là do không làm chủ, nên bị niệm bất giác lôi kéo vào con đường xấu. Như đang ở nhà, buồn bực sao không biết tự nhiên xách xe chạy khan. Chạy đi đâu? Không biết chạy đi đâu, cuối cùng lầm lũi vô những chỗ tối tăm. Hồi vô mặt c̣n trắng trẻo xinh đẹp, tới chừng đi ra th́ đen thủi đen thui, rồi cứ thế lầm lũi mà đi trong cuộc đời dị thế. Cho nên người ta gọi là rơi vào hố thẳm của cuộc đời.

Nhà thiền gọi hành giả là những chiến sĩ đối chiến với chính ḿnh. Lúc nào cũng phải tỉnh sáng, dũng mănh kiên cường, gan dạ phi thường mới vượt qua được chính ḿnh, trở về đất thật b́nh yên. Anh em thử nghiệm lại xem hằng ngày chúng ta đối diện với trăm ngàn thứ hậu quả, nhân ḿnh gây hồi nào không biết mà bây giờ nó trổ rộ. Nhiều anh em đang sống chung b́nh thường, nói chuyện với nhau một hồi, anh này nổi sân với anh kia:

- Anh vô lư! Bữa nay tôi có làm ǵ anh đâu mà nổi sân với tôi ?

Nhưng thực sự không phải bữa nay, mà hôm qua hôm kia ǵ đó:

- Tôi nghe anh nói bực lắm nhưng tôi không nói! Bữa nay anh xạo xạo lại nữa tôi mới nổi nóng. Tôi nực lên rồi nghe, anh nói hồi nữa là tôi thoi đấy.

Vậy đó, không phải chuyện mới đâu, mà nguyên nhân đă có từ trước. Như câu chuyện của ngài Xá Lợi Phất, một vị đại đệ tử của đức Thế Tôn. Ngài là cánh tay đắc lực nhất thay đức Phật giải quyết tất cả công việc trong đại tăng, chỉ sơ hở một tí thôi mà sanh chuyện. Ngày măn hạ, chư Tăng các nơi về kính lễ, mừng thọ đức Thế Tôn rất đông. Chư Tăng ngồi khít nhau, trong đó có mấy vị tân Tỳ-kheo chưa đắc quả. Ngài Xá Lợi Phất đại diện đức Thế Tôn nói vài lời ủy lạo chư Tăng. Thăm hỏi rồi chúc mừng cho huynh đệ qua mùa an cư được lợi lạc. Lúc bước xuống Ngài sơ ư đạp lên chéo y của một vị Tỳ-kheo, ông ấy nổi sân, trong bụng thầm nghĩ: “Xá Lợi Phất ỷ là đại đệ tử của Phật nên dẫm lên y ta…” Từ đó sanh sự làm ầm lên với đức Phật và đại chúng về việc ngài đă đạp lên y của thầy. Đức Phật biết rơ do tâm đố kỵ mà Tỳ-kheo này đă làm như thế, Thế Tôn quở trách và chỉ rơ phiền năo đang ngự trị hoành hành trong tâm thầy ấy. Do chưa dứt lậu hoặc nên thầy đă không làm chủ được niệm khởi, tạo nghiệp nhân xấu, Phật dạy thầy phải nên sám hối và nỗ lực tu hành mới có thể thoát khỏi quả xấu.

Hồi xưa c̣n như vy, chúng ta ngày nay có biết bao lỗi lầm, sơ suất trong cuộc sống. Cho nên tâm buông xả, tâm tu hành yếu một chút th́ sẽ gây nhân bất thiện. Nhân đă tạo th́ quả sẽ đến nếu ḿnh không lo tu tập chuyển hóa sớm. Vừa rồi tôi có nhận một lá thư của vị Phật tử đă hơn bảy mươi tuổi. Trong thư ông kể có đứa con trai, hồi nhỏ hay trốn học đi chơi. Nói hoài không được có lần ông đánh tới năm chục roi. Nhờ trận đ̣n đó nó không dám đi chơi nữa, học xong chứng chỉ lớp chín rồi thi vào trường công nhân trung cấp. Sau khi học hành thi cử, nó đi làm b́nh thường.

Thời gian gần đây nó thương một cô và muốn đem cô đó về nhà. Ở nhà không chịu, nó có thái độ gần giống như hành hạ mẹ nó, c̣n đối với ông nó nói: - Ông chết rồi tôi sẽ chẻ cái ḥm, chẻ cái đầu của ông ra để trả thù hồi đó ông đánh tôi năm chục roi ! Trời đất ơi, con cái vậy đó. Ông viết thư hỏi ư kiến tôi và xin chỉ dạy cách thức tu hành. Tôi gởi một số sách cho ông bảo “cụ ráng đọc rồi theo đó áp dụng tu, thanh thản phần nào hay phần ấy”, chứ thằng con như thế, tôi cũng không biết tụng kinh ǵ để tiêu hết cái tội đ̣i chẻ ḥm, chẻ đầu cha nó!

Thật ra trong quá khứ cũng có nguyên nhân sao đó ḿnh không biết, chứ đời này do cái nhân năm chục roi mà người cha trở thành kẻ thù của đứa con. Cho nên huynh đệ phải cẩn thận, làm việc ǵ phải hiểu rơ luật nhân quả, chớ có khinh suất mà chuốt khổ chuốt nạn, tu không được. Chư huynh đệ ráng học theo điều Ḥa thượng đă dạy làm chủ được các dấy niệm, buông tất cả vọng tưởng, đừng để nó dẫn đi vào con đường khổ đau. Muốn được tự tại giải thoát, ngay bây giờ chúng ta phải làm chủ được ḿnh, đủ tỉnh lực buông các dấy niệm. Như vạây mới gọi là giốc chí tu hành theo như lời Tổ Trúc Lâm dạy.

Chúng ta tu thấy vui là khi nào tỉnh táo, tin sâu nhân quả, nên nhớ không có ǵ thoát khỏi ngoài luật nhân quả. Nếu chúng ta chưa dứt sạch phiền năo, chưa hoàn toàn giác ngộ th́ luôn luôn chịu sự điều động chi phối của luật nhân quả. Do không tỉnh sáng, chúng ta gây không biết bao nhiêu nhân xấu, bây giờ trổ quả khổ lại trù trừ không ưng trả. Như vậy đâu có được. Như hồi đó ḿnh vay bà cụ hàng xóm năm ngàn, bây giờ bà đ̣i bốn ngàn ḿnh vui trả mà c̣n nhắc: - Cụ ơi, cụ đ̣i bao nhiêu đó chưa đủ, c̣n một ngàn nữa mới đủ năm ngàn cho cụ. Như vậy hay biết mấy! Nhưng thường đâu ai chịu thế, mượn cả trăm ngàn người ta đ̣i mới hai ba ngàn là nổi sùng lên căi vă này nọ. Như thế trả không biết chừng nào mới hết nợ.

Khi gặp cảnh bất như ư, chúng ta cần phải hiểu đây là quả ḿnh đă gây tạo từ trước. Không biết nhân hồi đó thế nào, ḿnh vay bao nhiêu mà trách người ta đ̣i quá đáng? Nói người quá đáng là chúng ta đă lấn lướt trong đó rồi, biết ḿnh đă nợ bao nhiêu mà trách người. Hiểu như vậy mới không gây tạo thêm nhân khổ đau, nếu không nợ cứ chất chồng măi chẳng biết bao giờ giải quyết cho xong. Cứ bên đây nói câu hơi nặng th́ bên kia trả lại câu hơi gắt, như thế diễn biến th́ thật là nguy vô cùng.

Cho nên người tu phải sáng suốt gan dạ chấp nhận trả quả, vui vẻ trả th́ sẽ hết. Giả dụ như đời này sức khỏe kém, mạng sống ngắn ngủi, ḿnh cũng nguyện “Nếu con c̣n nợ nần với ai xin cho được tiếp tục trả ở đời sau. Và con nguyện, không vay nhân với bất cứ ai nữa, để được an vui giải thoát”. Chúng ta cứ nguyện như thế, hành như thế th́ đủ lực lượng sống giữa cuộc đời này. Nếu thấm nhuần đạo lư Phật dạy ta sẽ thấy cuộc đời của ḿnh có chuyển hóa, những cái dở trở thành tốt. Mỗi chúng ta chiêm nghiệm, xét nét thật kỹ tâm ḿnh như thế nào để biết mà tu, mà chuyển hóa. Có như vy mới tiến được.

 

 

 

]

 

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM