SUỐI REO RỪNG TRÚC H.T THÍCH NHẬT QUANG |
||
ĐOẠN 19 Thiền tông chỉ thị, Mục kích đạo tồn; Không cốc truyền thanh, Âm hưởng ứng dã. Chú thích: - Chỉ thị: Chỉ
dạy. - Mục kích đạo
tồn: đạo ở trước mắt. - Không cốc: Hang trống. Giảng: Nói Thiền
tông chỉ thị tức là cách chỉ dạy của thiền
tông, chỉ ngay sự việc trước mắt, không
khuất lấp chút nào hết gọi là trực chỉ.
Thường trong nhà thiền nói cái thấy của Thiền
sư là cái thấy trực chỉ, không kẹt bất cứ
một hiện tượng nào qua cái thấy hiện tiền.
Đó là điểm đăïc biệt của nhà thiền.
Tổ dạy thiền tông chỉ dạy đạo ở
ngay trước mắt chứ không có đâu xa hết. Vậy
Đạo là gì? Là tâm. Tâm là gì? Cái biết. Tất cả
chúng ta đều có cái biết, khi nói đến cái biết
là chúng ta nhận ra được ngay. Người lớn
kẻ nhỏ, người học rộng, người học
ít, ai cũng đầy đủ cái biết hiện tiền.
Như ta nhìn lên trần nhà thấy cây quạt đang xoay,
mọi người đều thấy thế, không ai không
thấy. Cái hay thấy ấy bình đẳng nơi tất
cả chúng ta, không phân biệt tuổi tác hay giàu nghèo,
đẹp xấu… Cái biết đó không xen lẫn, không bị
động bởi các cảnh duyên, nó chính là cái biết của
tâm. Mỗi người đều sẵn có cái biết,
thường dùng nó mà lại không chịu nhận nó, mới
lạ chứ! Có một điều chúng ta quen cho cái hiểu
biết phân biệt theo hiện tượng bên ngoài là tâm
mình nên bị nó dẫn đi, thành ra quên mất cái biết
chân thật. Lấy lại
ví dụ ở trên, như ta thấy cây quạt đang
quay, nếu chỉ biết chừng ấy thì đâu có việc
gì, nhưng thường chúng ta không dừng ở ngang
đó, mà vận dụng đến ý thức phân biệt
xem cây quạt này hiệu gì của nước nào sản
xuất, ai cúng dường, nó quay chậm quá, nhanh quá v.v…
Trăm ngàn vấn đề được đặt ra
làm ta mất hết thì giờ, bị cuốn hút trong những
vấn đề rối rắm đó, do vậy mất
đi sự tỉnh táo sáng suốt. Cứ như thế
con người lao lự cả đời, không ích lợi
gì hết. Tất cả mọi sự kiện đều
được hình thành từ cái mớ vọng tưởng
rối bòng bong, thiên hạ chết ngộp trong đó,
không một phút giây yên tĩnh nên rồi đâm ngán cuộc
đời. Người
lớn suy nghĩ nhiều quá, vọng tưởng nhiều
quá thành ra sống khổ. Chớ như mấy em bé có lo sợ
toan tính chi đâu, nhờ vậy nó hồn nhiên vô tư. Có
lần tôi đọc một câu chuyện thật cảm
động. Vào buổi chiều gần tuyến
đường xe lửa, có một em bé ra đường
rầy chơi. Em chơi rất hồn nhiên. Khi còi báo
động toa tàu sắp chạy qua, em vẫn hồn
nhiên ngồi đó, xung quanh không có một người nào.
Ngay sau đó vài người lớn phát hiện ra em
đang ngồi trên đường rầy, họ la hoảng
lên mà không dám chạy tới cứu. Bỗng… khi ấy một
em bé khác lăn người ra ôm đứa nhỏ rồi
lăn nhanh vào lề, thì đoàn tàu vừa chạy tới. Câu chuyện
làm cho người đọc rất xúc động. Em lớn
hơn cứu em bé nhỏ, bởi cả hai đều vô
tư nên cả hai đều không lo lắng sợ hãi. Và
chính vì thế các em mới vượt qua cái chết một
cách hồn nhiên vô tư. Thật tuyệt vời! Em bé nhỏ
không biết tại sao mình bị ôm kéo vào lề, hình
như em cũng không cần biết chuyện đó. Con
tàu là gì, em ngồi chỗ ấy nguy hiểm ra sao… em không
biết nên hoàn toàn bình yên. Sự việc như vậy, em là người trong cuộc,
là nhân vật độc nhất đứng trước
khoảnh khắc sống chết vào buổi chiều hôm ấy,
nhưng đầu óc ngây thơ, rỗng rang, trong sáng nên
em chẳng sợ chết. Còn em bé lớn hơn cũng
chưa đủ suy nghĩ, chưa đủ kiến thức,
chưa có địa vị gì trong cuộc đời. Em
lao ra ôm em bé một cách tự nhiên, cũng không nghĩ mình
cứu ai. Và chính vì thế em đã trở thành một anh
hùng bé nhỏ. Huynh đệ
chúng ta càng có tuổi, càng tự chứng minh mình có kiến
thức, có học Phật, có hiểu biết về cuộc
đời thì càng hốt hoảng, càng sợ sệt, càng
mất mình. Bao nhiêu người lớn đứng nhìn tử
thần sắp đến chụp em bé, họ la lối,
sợ hãi cho nó nhưng chẳng ai dám nhảy ra cứu em
bé, vì họ quá hiểu biết! Khi phân biệt nhiều
quá thì cái hiểu biết của mình bị bóp méo mất rồi,
nó làm cho ta hoàn toàn biến chất. Chính kiến thức
đầy tràn làm hỏng đi sự tự chủ, trí
tuệ sáng suốt và sức mạnh phi thường của
mình. Bởi vì càng suy nghĩ, chúng ta càng bị bản ngã
vây bủa, càng lệ thuộc vào nó và cuối cùng thi hành
theo lệnh của nó sai khiến, phải bảo vệ bản
ngã. Bảo vệ bản ngã càng nhiều thì càng sợ chết,
sợ đau, sợ mất mát… nên sự hy sinh anh dũng,
cái hồn nhiên trong sáng như của em bé mất hẳn
trong chúng ta rồi. Nếu có thì những cái gọi là anh
hùng ấy chẳng qua do bản ngã thúc đẩy mà thôi,
chớ không phải vô tư như một em bé. Có khi ta
càng lớn thì bản ngã cũng len lỏi phát triển
theo, nó tăng tiến phát triển đến mức có cả
một mạng lưới bao bọc xung quanh để bảo
vệ mình. Người tu làm sao gầy dựng được
sức sống hồn nhiên là điều rất quí giá. Ta
cứ bị cái ngã nó dụ dẫn, thêu dệt như vầy như khác nên mình không còn trong
sáng ở chỗ thấy nghe chân thật ban đầu. Tu
như thế thì dù học Phật, biểu dương hạnh
Phật, nhưng vẫn không đạt được lợi
ích gì. Người tu thiền là người khéo vận dụng
trí tuệ của chính mình. Thực chất của việc
tu hành là phát huy trí tuệ, phát huy theo chiều phản quan
để xé nát bản ngã. Thiếu trí tuệ chúng ta sẽ
mờ mịt, quờ quạng khi đối diện với
những sự kiện chung quanh, do đó không phút giây nào
ta được bình yên. Đạo
là gì? Là không xen tạp, là tự tại. Tâm là gì? Là cái biết.
Nhưng chúng ta có sống đạo chưa hay còn đang
quay cuồng với muôn ngàn lớp vọng tưởng? Từ
ngày tới đêm, hết đêm sang ngày, chúng ta bị lao
lự, quay cuồng bởi những thứ xung quanh, làm
sao giải thoát được. Theo tinh thần
thiền tông, đạo chỉ thẳng trước mắt.
Cho nên thiền sư nói cây gậy là cây gậy, cần
dùng thì dùng, không cần thì thôi. Ăn cơm, mặc áo, ngủ
nghỉ, sự việc bình thường trước mắt,
không có cái khác. Bởi sống được như vậy nên các Thiền sư mới dám
nói thiền là ăn cơm, là uống nước, bình
thường giản dị như thế. Song những
con người bình thường đó, ít ai làm được
vì chúng ta bị buộc ràng nhiều thứ quá. Ở
đây Sơ Tổ Trúc Lâm nhắc cho chúng ta thiền là cuộc
sống bình thường. Nề nếp sống của
Thiền sư là phát huy cái biết, sống được
với tâm chân thật của mình. Tâm đó không có xen lẫn
thứ khác nên không dao động, không hỗn tạp. Ý thứ
hai, ở đây Tổ nói âm hưởng từ hang trống
dội lại, nó không suy nghĩ, không bắt chước
ai. Âm hưởng tức tiếng vang từ trong hang trống
dội lại. Tổ dạy âm hưởng đó không suy
nghĩ, không dấy niệm phân biệt gì hết. Tiếng
động thế nào thì nó vang thế ấy, chớ không
suy nghĩ chi. Cũng vậy, tâm chúng ta phản ứng lại
những sự việc đưa tới giống như
tiếng vang ở hang sâu, không cần suy gẫm phân biệt
gì cả. Đó là cái chân thật hiện tiền. Ở trên
Ngài nói tâm không có xen tạp, không có dao động, ở
đây Ngài nói tâm là cái chân thật, như sự giao hưởng
chân thật của âm thanh. Nó không là cái gì khác, không suy nghĩ
phân biệt gì gì, theo hình thanh thế nào thì phát ra âm hưởng
thế ấy. Nói rõ hơn, đoạn này Tổ dạy
chỉ thị của thiền tông hiện tiền ở
trước mắt thấy nghe rõ ràng mà không suy nghĩ
phân biệt, không có gì lạ cả. Vấn
đề là làm sao chúng ta sống được với
cái không phân biệt, cái hiện tiền, cái trước mắt
hồn nhiên của mình? Như một đứa bé nhìn sự
vật một cách hồn nhiên, không phân biệt gì hết,
cho tới cái chết sắp đến mà không sợ sệt,
vẫn bình thường. Tới cái phút giây người ta
giật nó ra khỏi chỗ chết nó cũng bình thường.
Đó chính là chủ ý của nhà thiền. Muốn sống
được như thế, chúng ta phải mạnh dạn
phủi rủ tất cả những gì khoác bên ngoài, những
gì lâu nay bu bám quanh mình. Thiền là cái hiện tiền
trước mắt, không so sánh, không suy nghĩ. Biết rõ
tính chất của thiền như thế, tại sao chúng
ta cứ đắn đo lao lự, mà không nhanh chóng buông
xuống hết. Cho nên các thiền sư ngộ đạo
từ những sự việc trước mắt, không có
cái khác. Các Ngài cũng khẳng định đạo không
ngoài mọi hiện tượng động dụng chung
quanh ta mà có. Cho nên các ngài được tự tại ngay
trong cuộc đời này. Học
đoạn này, chúng ta càng phấn chấn hơn bởi
vì sự giác ngộ ở ngay trong lòng cuộc sống này,
chớ không có đâu xa. Chỉ cần chúng ta tự nhắc
nhở mình tỉnh giác, phản quan trở lại thì sẽ
không bị cảnh duyên dối gạt dẫn đi. Nhận
lấy cái thấy biết chân thật ngay nơi mình, không
phải là việc quá tầm tay mà chỉ vì chúng ta chưa
quen thôi. Cho nên khắc tỉnh, khắc nhớ là một
phương pháp hữu dụng để anh em nắm
được kho báu nhà mình. Cần phải bảo nhậm
lấy. Chớ để lầm qua mất! |