SUỐI REO RỪNG TRÚC

H.T THÍCH NHẬT QUANG

ĐOẠN 20

 

Phô người học đạo,

Vô số nhiều thay;

Trúc hóa nên rồng,

Một hai là họa.

Giảng:

Phô là so sánh, họa là họa may. Đoạn này nói người học đạo tuy nhiều nhưng người xong việc th́ ít. Như trúc hóa rồng, một hai là họa tức người đạt đạo th́ chỉ một, hai người thôi. Tại sao? Như chúng ta đă biết đạo không phải cái ǵ xa xôi, mà ngay trong sự sống, ngay trong đời thường, các sự việc trước mắt, với người có trí nh́n việc ǵ ra việc ấy không xen tạp, không dao động, gọi là đạt đạo. Nhưng v́ chúng ta quen phân biệt loạn tưởng lăng xăng nên dù nói học đạo, hành đạo mà vẫn không đạt đạo. Tổ nói dù người học đạo hành đạo nhiều bao nhiêu, nhưng chưa có trí tuệ, tâm vẫn c̣n nhiều vọng tưởng xen tạp th́ vẫn không có tác dụng.

Ở đây Ngài ví dụ gậy trúc hóa thành rồng, là một điều rất hiếm. Gậy trúc th́ nhiều, nhưng gậy trúc của những bậc tự tại, tâm sáng sut rồi th́ các Ngài sử dụng nó với một uy lực hùng dũng đặc biệt như rồng vậy. Tại sao gậy trúc hóa rồng lại hiếm? Tại v́ chúng ta lướng vướng nhiều bên ngoài, không nh́n trở lại ḿnh để nhận ra tánh giác chân thật. Như trong kinh Lăng Nghiêm, sau bảy lần Phật hỏi về tâm, Ngài A Nan trả lời đều không đúng. Cho tới cuối cùng Phật dùng phương tiện vận dụng cái thấy, cái nghe, bấy giờ A Nan và đại chúng mới nhận ra. Sau khi nhận được rồi, các vị phát đại nguyện độ hết chúng sanh mới thành Phật và cầu Phật hộ tŕ để thực hiện được bản nguyện to lớn đó. Đồng thời thỉnh Phật chỉ dạy phương pháp nào để chúng sanh đừng bị luân hồi sanh tử, trôi giạt trong ba cơi nữa.

Bấy giờ Phật chỉ cội gốc luân hồi sanh tử cũng từ sáu căn mà ra, cội gốc giải thoát Niết-bàn cũng từ sáu căn mà ra. Khi Phật nói lời này các cơi nước trong mười phương chấn động, tất cả chư Như lai đều chứng minh lời đó là sự thật. Trong nhà thiền chư Tổ cũng nói khi sáu căn không dính sáu trần, đó là tự tại giải thoát. Các ngài không nói thiền nói đạo ǵ hết, chỉ bảo sáu căn tiếp xúc với sáu trần không chạy theo, không vướng mắc, đó là Đạo. Ở đây Phật nói sáu căn là gốc để được giải thoát, sáu căn cũng là gốc để bị luân hồi sanh tử. Khi sáu căn dính sáu trần th́ mầm luân hồi sanh tử nẩy sanh, khi sáu căn không dính mắc sáu trần th́ gốc giải thoát phát sanh. Ư Sơ Tổ Trúc Lâm dạy cũng na ná như vy.

Chúng ta cầm gậy trúc th́ chỉ là cái que trúc vô dụng, đốt thành tro than chứ không có tác dụng ǵ hết. Trong khi Thiền sư đă tự tại rồi th́ gậy trúc biến thành thần dụng không thể nghĩ lường, lợi ích lớn lao vô cùng. Chúng ta thấy ngay nơi thân này khi c̣n mê con người bị vướng mắc bởi t́nh cảm, ái niệm, bởi các duyên bên ngoài. Nhưng khi được chỉ bày đạo lư và nhận ra tâm ḿnh bất động rồi th́ thân này là nhân duyên to lớn để ta phát nguyện độ sanh rồi ḿnh mới thành Phật. Rơ ràng cũng từ thân này, tâm này mà khi mê khác, lúc ngộ khác.

Sự học đạo, hành đạo của chúng ta cũng như vy. Ngay đây bây giờ nếu chúng ta nhận ra tâm tánh của ḿnh, hằng sống được như thế, là người không bị động chuyển bởi những hiện tượng bên ngoài, sống được với tâm bất động. Đó là người tự tại giải thoát. Đây là chỗ trực chỉ nhà thiền muốn chỉ dạy. C̣n nếu ḿnh cứ loay hoay vướng mắc th́ thôi, cứ làm thiền sinh hoài. Thật ra, tu thiền trực chỉ không phải quá khó khăn, có điều ḿnh nhận được th́ nhận, nhận không được th́ thôi, chớ không bàn luận lôi thôi ǵ hết.

Như Tôn giả A Nan là bậc đa văn số một, tất cả lời dạy của đức Thế Tôn, Ngài không bỏ sót một từ nào. Trong kinh nói trí nhớ của Ngài giống như nước từ b́nh này rót qua b́nh kia, không rơi giọt nào. Con người thông minh đăïc biệt như thế, mà phải đợi sau khi Thế Tôn nhập diệt rồi, Tôn giả Ca Diếp giúp Ngài vượt qua cái đa văn của ḿnh mới giác ngộ viên măn. Vừa có một niệm không yên th́ h́nh danh sắc tướng trong tâm nhận ch́m ḿnh, chứ có ai khác, nhưng với người làm chủ rồi th́ h́nh danh sắc tướng có nghĩa ǵ đâu.

Người chưa nhận ra, chưa sống được với ông chủ th́ c̣n ham cái này ham cái kia, nếu nhận ra rồi không cần ai bảo bỏ ḿnh cũng tự bỏ tất cả những thứ giả dối ấy. Vậy nên thời gian sống trong thiền viện, học Phật pháp chúng ta cần phải chiêm nghiệm, phải hành tŕ để thấy rơ cái chân thật của ḿnh. Nó là những cái b́nh thường thôi, như ăn, mặc, ngủ, nghỉ, không việc ǵ khác. Tại v́ ḿnh không b́nh thường nên dính mắc thành ra rắc rối, chớ thật sự cái đó rất giản dị.

Chư tăng có điều kiện để phát huy tâm chân thật, không xen tạp, không dao động của ḿnh. Đây là thời điểm tốt nhất để chúng ta thực sự sống, thực sự phát huy trọn vẹn tâm thật đó. Có những huynh đệ đă phát huy được, sống được chút chút với tâm ấy, bây giờ làm sao cương quyết bảo nhậm nó để đi tới thực sự sống trọn vẹn với nó. Nếu chễnh măng thời gian trôi qua không t́m lại được, khi việc đến đối đầu không được, dù có ân hận cũng chẳng lợi ích ǵ!

Câu chuyện của Tôn giả A Nan để lại cho chúng ta một bài học lớn lao. Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, không bao lâu ngài Ca Diếp triệu tập Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I. Các vị trưởng lăo được mời đến dự Đại hội đều đă chứng Thánh, trừ ngài A Nan là c̣n ở trong học vị. Mà lời phó chúc của đức Thế Tôn: A Nan là người phải thọ tŕ, ǵn giữ Tạng Kinh rộng truyền lưu bố cho đời sau, không để dứt mất. Cái đau của ngài chính ở chỗ này, kinh điển th́ ghi nhớ không sót một lời mà Thánh vị lại chưa xong.

Bấy giờ ngài Ca Diếp bày ra phương tiện quở trách A Nan giữa đại hội. Cuối cùng ngài Ca Diếp nói Phật pháp trông cậy vào ông! Đức Thế Tôn đă giao phó như vy. Nhưng Đại hội này toàn những bậc Thánh, ông chưa thành tựu Thánh vị nên phải rời khỏi chỗ này, không được dự. A Nan nhận tất cả khuyết điểm của ḿnh rồi lui ra. Tôn giả cảm thấy đau buốt trong ḷng, bị đại sư huynh khiển trách đến mức độ đuổi ra khỏi Đại hội. Khổ sở vô cùng!

Sáng mai Đại hội bắt đầu, ngay trong đêm đó ngài A Nan nỗ lực thiền định, cho tới lúc quá mệt mỏi, định dựa lưng nghỉ th́ bừng một cái mọi khối u mê vỡ tung, Ngài chứng Thánh quả. Bấy giờ Ngài liền trở lại Đại hội và nghiễm nhiên trở thành bậc đại thánh trùng tuyên tạng Kinh của đức Thế Tôn. Có thể nói lúc ấy vị vui mừng nhất trong chúng hội chính là Tôn giả Đại Ca Diếp. Chừng ấy A Nan và toàn thể Đại hội mới hiểu ngài Ca Diếp đă dùng phương tiện quở trách nặng nề, để đưa A Nan đi tới chỗ cùng đường tuyệt lộ, và đó chính là nơi A Nan bước lên địa vị cao tột nhất.

Chúng ta học được điều ǵ ở câu chuyện này? Đó là sự vướng kẹt dù là vướng kẹt trong giáo pháp. Nhưng c̣n một chút mắc mứu là c̣n nằm trong phương tiện đối đăi, chưa thể nhận ra được tánh giác bản hữu bất sanh bất diệt của ḿnh. Huống ǵ chúng ta lại kẹt trong các việc ăn mặc ngủ nghỉ, tiếp xúc, làm việc, vui buồn… th́ quá tệ, phải không? Bởi vậy cho nên đụng một cái ḿnh nổi giận đùng đùng hoặc đụng một cái ḿnh cười ngất ngất… Tất cả những hiện tượng đó chứng tỏ chúng ta c̣n quá nhiều thô động. Bởi thô động như thế nên ḿnh cứ lăng xăng vướng mắc hoài.

Ở trong chư Tăng việc ǵ cũng tập thể. Nấu ăn tập thể, rửa chén tập thể, ngồi thiền tập thể, tụng kinh tập thể, làm việc tập thể, đi chơi cũng tập thể nữa. Các vị ở thất riêng th́ mỗi vị mỗi phần, mỗi ăn mặc, mỗi ngủ nghỉ, mỗi tiếp xúc, mỗi sắp đặt công việc của ḿnh. Người trong tập thể th́ vướng tập thể, người ở riêng th́ vướng cái riêng. Không ai thoát khỏi chuyện ăn mặc, ngủ nghỉ, tiếp xúc, tất cả việc xung quanh đời sống, loay hoay từ sáng tới trưa, tới chiều, tới tối. Rồi sáng ra trở lại, cứ tiếp tục ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, cuối cùng ở trong tập thể cũng không thành Phật mà ở thất riêng cũng chẳng thành Tổ nổi. Tại cái bệnh chấp kẹt mà ra.

Chúng ta nghiệm lại xem th́ cũng bao nhiêu việc ăn mặc ngủ nghỉ, tiếp xúc, làm việc v.v… chứ đâu có ǵ lạ, sao chúng ta cứ loay hoay phiền năo với nó, không thoát ra được? Huynh đệ ḿnh đâu có ai làm Chủ tịch Tỉnh hay Chủ tịch Huyện đâu mà sao bận rộn đến thế. Ḿnh là tu sĩ, là Thiền sinh ở quê mà! Ấy vậy mà ngay khi cả trong giấc ngủ, vọng tưởng nó cũng không tha, không cho ḿnh b́nh yên với những cơn mộng mị. Từ mộng tới ảo, từ ảo tới mộng, nên nói cuộc đời là ảo mộng. Tu hành như vậy th́ thật là đáng hổ thẹn!

Mỗi buổi chiều chúng ta nghe tiếng trống trổi lên báo ngày nay đă qua, vô thường tấn công dữ dội như lửa đốt trên đầu, kêu ḿnh phải nỗ lực tỉnh tu. Mới nghe ta cũng tỉnh táo, nhưng một lát quên hết thành thử khi mê khi tỉnh. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật ví dụ rất hay, chúng ta tu hành như kẻ sốt cách nhật tức là một ngày tu mười ngày không tu. Như vậy biết tới bao giờ mới hết mê hết khổ?

Tổ dạy chỉ khi nào chúng ta phát huy được tánh giác, sống được với nó th́ sẽ có thần dụng phi thường ngay trong hiện tại. Chính những thần dụng phi thường đó bảo vệ chúng ta không bị động bởi những lăng xăng bên ngoài. Chúng ta phát huy trọn vẹn được trí tuệ của ḿnh th́ giác ngộ giải thoát tức th́, không phải đợi lúc nào cả. Đó là ư nghĩa “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” trong nhà thiền.

 

 

 

]

 

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM