SUỐI REO RỪNG TRÚC H.T THÍCH NHẬT QUANG |
||
ĐOẠN 5 Vượn mừng hủ hỷ, Làm bạn cùng ta; Vắng vẻ ngàn kia, Thân ḷng hỷ xả. Chú thích: - Ngàn: Rừng. Giảng: Ngài làm
tăng ở núi rừng vui với khỉ vượn,
thân tâm hỷ xả. Nơi này cảnh vắng ḷng yên.
Người có công phu an nhiên sống được cảnh
như vậy th́ quả thật thích thú vô cùng. Chúng ta nói
thế nhưng khi được sống cảnh như
vậy không biết ḿnh có chịu nổi không. Chẳng
hạn Thiền viện Thường Chiếu đây, các
huynh đệ thấy cũng miền quê nhưng gần
thị trấn, gần cơ quan hành chánh địa
phương, nằm trên trục giao thông du lịch quan trọng
của quốc gia. Ở đây hàng ngày ngoài những âm
thanh động tịnh của vườn chùa, rừng
thiền, c̣n có âm thanh của xe cộ, máy móc cơ giới
bên ngoài, chúng góp phần lấn áp vào đây. Với người
chuyên tu thấy cảnh này tương đối có thể
tu được, nó không đến đổi quá buồn
tẻ, nhưng cũng không nằm trong ruột thị
thành ồn náo. Nhưng
với người Phật tử chưa quen cảnh này
th́ thấy buồn. Phần nhiều những vị ít tuổi
ham tu, nghe Thường Chiếu cũng mến mộ
đến xin tập tu một tuần hai tuần.
Nhưng được vài hôm, làm công việc của Thiền
viện xong th́ đứng ngó quanh ngó quất ngoài
đường, rồi ngó mông lung vào vườn chùa. Bữa
nào đó đến thưa thầy, con xin ở hai tuần
nhưng bây giờ bận quá con xin về, hẹn với
thầy lúc nào sắp đặt được con trở
lại tu với thầy. Nghe nói vậy là biết rồi,
quí vị sắp đặt không được tại v́
Thiền viện vắng vẻ, mênh mông, cô quạnh quá nên
thôi. Không gian
yên tĩnh chung quanh, sẽ giúp cho người tu được
nhiều cơ hội lắng ḷng chuyên tâm. Nhưng với
ai tŕnh độ chưa tới th́ chính hoàn cảnh đó
lại là sức mạnh tống ḿnh đi. Rất
nhiều lần tôi nói, nếu không có duyên với nhau th́
làm ǵ kẻ phương trời này, người
phương trời nọ tập trung về một
đạo tràng, cùng sống trong môi trường sinh hoạt
tu tập thế này. Đây quả thật là duyên nhiều
đời khiến chúng ta chung sống với nhau. Tuy
không ruột rà bà con chi hết nhưng với tâm nguyện
xuất gia, ta cùng gặp nhau trong đạo tràng, cùng mang
ḍng họ Thích, cùng bảo vệ cảm thông hỗ trợ
nhau để tu hành. Đôi khi đạo t́nh này c̣n đầm
ấm hơn những thứ t́nh cảm ngoài đời.
Tuy nhiên điều này cũng tùy hoàn cảnh, tùy người,
tùy tuổi tác nữa. Có người
nói : “Thưa thầy ở đâu tu không được! Ở
chợ con tu vẫn ngon lành, vẫn tụng kinh niệm Phật
rùm ben hết. Con c̣n có điều kiện, có phương
tiện để ủng hộ quí thầy quí cô tốt
hơn.” Thật ra trong hoàn cảnh bận rộn ồn
ào chúng ta dễ bị trôi dạt, mất ḿnh, rất khó
giữ được tâm niệm tu hành chân chính. Không phải
ai ở chợ cũng tu được, hoặc ai ở
chùa cũng tu được. Có nhiều người ở
núi ở non cũng phải quăy gói xuống núi. Hoặc nhiều
người ở chợ nhưng họ vẫn hành tŕ
công phu đắc lực thánh thiện của Bồ-tát.
Điều này đ̣i hỏi sự quyết tâm tu hành và
cách ứng dụng Phật pháp khéo léo của mỗi
người. Người
tu phải biết ḿnh. Biết ḿnh mới biết cách tu
như thế nào. Ở chợ mà tu được mới
ở chợ tu. Ở chùa tu được th́ tốt, ở
núi non tu được càng hay, nhưng nơi nào ḿnh thấy
chưa yên, chưa thể hạ thủ công phu đắc
lực th́ không nên chấp cứng vào chỗ ở ấy
mà việc tiến đạo khó khăn. Thành ra ở
đây Sơ tổ Trúc Lâm nói chung cảnh sống của
người tu mà cũng nói lên tâm trạng của ḿnh. Sau
khi nhường ngôi lại cho Anh Tông, Ngài rút về núi tu hạnh
đầu đà. Ở đây Ngài ca tụng cảnh làm
Tăng ở núi rừng vui với khỉ vượn,
thân tâm thư thả không bị buột ràng ǵ hết. Một
con người với địa vị tột bậc,
cuộc sống rộn ràng đa đoan như thế,
Ngài sắp đặt giao hết lại cho con rồi vào
núi rừng yên tâm tu hành. Ngài nói buông là buông được,
không nhớ nhung bận bịu ǵ hết. Quả thực
đây là ư chí của người xuất cách, những kẻ
tầm thường khó sắp đặt được.
Phải dứt khoát, một đao chặt đứt,
không để lang mang vướng víu ǵ hết. Chúng ta
c̣n rất yếu về điểm này, v́ đạo lực
của ḿnh chưa thâm hậu như người xưa.
Con dao trí tuệ của chúng ta không bén nên chặt cái ǵ cũng
không đứt hết. Chuyện hôm qua nói rồi thôi
để cho thầy tu, nhưng bữa nay ḿnh nhấm tiếp
không chịu bỏ qua. Đó là cái dở, một đao
không chặt đứt làm hai đoạn, hoặc nói chặt
mà không quyết tâm chặt cho đứt, cứ để
lây dây hoài. Có những chuyện không đáng mà tới chết
cũng chưa bỏ được. Ngộ vậy! Tôi c̣n nhớ
có một người huynh đệ từ trong trường
ra. Thầy nói ta chán thế gian lắm nên không nhận bất
cứ công tác Phật sự nào. Thầy c̣n nói ta không có
duyên nhiều với Phật tử nên cũng không nhận
lời thỉnh mời giảng dạy Phật pháp,
hướng dẫn tu hành của bất cứ Phật tử
hay đạo tràng nào. Thầy thích một đời sống
b́nh thường vui vẻ, an nhiên, không phát tâm vào núi rừng
nhưng muốn ở cảnh hơi quê, không quá xa thành thị,
cũng không ở trong thành thị. Quan niệm như vậy,
Thầy cắt hết quan hệ với mọi người,
cuối cùng chỉ nhờ vào gia đ́nh. Bà con anh em hỗ
trợ cho Thầy một quăng đất bề ngang mấy
mét, bề dài chừng hơn chục mét. Thầy ở
đó giống như người giữ vườn, ai
đem gởi cái ǵ thầy rầy không nhận. Là người
có tài có phước nên sau một thời gian mấy
năm, thầy sửa soạn chỗ tu hành rất trang
nghiêm, ai vô đó cũng thấy thích, muốn được
tu với thầy. Nhưng
kể từ khi tạo được khung cảnh ấy,
thầy lại không yên v́ mỗi lần đi đâu sợ
không có người giữ cốc. Hồi kia thầy thả
đại, mấy đứa cháu trong nhà thấy thầy
bỏ cửa đi, nó lo dùm. Sau này thấy ông già kỹ
quá, khóa tới khóa lui đủ thứ. Đi về ông
c̣n rầy chuyện này chuyện nọ nữa. Tới lúc
lớn tuổi bệnh hoạn thầy cũng có một
ḿnh, lại cưu mang thêm tâm niệm không biết giao cái
thất cho ai? Không có đệ tử xuất gia, những
người gần gũi toàn là con cháu, giao cho mấy
đứa nhỏ này nó đâu chịu tu, làm sao giao cái thất
được. Cứ thế tính tới tính lui, sắp
xuôi sắp ngược, cuối cùng bệnh nặng sắp
mất mà cái thất chưa giao cho ai được. Mấy
huynh đệ hồi xưa nghe thầy bệnh nặng
ghé qua thăm. Có vị nói: - “Thời c̣n đi học, về
sự học hành hiểu biết, tôi rất nể thầy
là người thông minh học giỏi. Về sự sắp
đặt trong đời sống tu hành, phải nói tôi nể
thầy thêm một lần nữa v́ thầy sắp đặt
đời tu của ḿnh thật chu đáo, không tham gia Phật
sự ǵ hết, tập trung vào việc tu hành. Bao nhiêu
năm tháng qua, cho tới bây giờ thầy vẫn
đường đường là một người tu
đàng hoàng. Nhưng có một điều, cho tới giờ
này mà thầy c̣n trăn trở chưa ai kế thừa
cái thất của thầy th́ thật đáng tiếc. Tôi
nói thiệt với thầy, cái này là đồ bỏ, vất
nó đi cho rồi. Thân mạng thầy c̣n giữ không
được, cái thất có nghĩa lư ǵ mà phải đắn
đo?” Nhờ câu nói của người huynh đệ
đồng song, thầy mạnh dạng buông được. Phật
nói địa vị, sự sản, t́nh cảm gia
đ́nh… nó bận buộc như gông cùm. Ḿnh không biết
nó bận buộc cở nào và cũng không dám rớ tới
mấy chuyện đó. Nhưng chúng ta thấy chỉ cái
thất như thế mà c̣n đắm luyến, th́ thử
hỏi những cái kia đắm luyến tới cở
nào nữa? Nói nghe ngon lắm “ba thứ đó tôi vất hết”,
nhưng thật ra miệng nói vất mà trong c̣n nguyên,
trăn trở hoài thôi. Cái vướng mắc chấp
trước, tâm niệm không buông được, ḷng trần
không hỷ xả th́ trong tâm nặng nề vô cùng, không giải
thoát nổi. Bởi
thấy rơ điều này nên Ḥa thượng dạy chúng
ta: - Pháp ban đầu của tu Thiền là làm sao làm chủ
được những dấy niệm, đừng cho những
dấy niệm đó nó kéo lôi. Biết nó là vọng tưởng
bỏ đi, không theo. Một chút thế thôi mà có khi huynh
đệ tu năm năm, mười năm vẫn
chưa làm được. Làm chủ được các dấy
niệm, biết các dấy niệm không thật là điều
căn bản của người tu thiền. Các bậc
tiền bối thông qua kinh nghiệm tu hành đă dạy
chúng ta, nếu nhận được những dấy niệm
là vọng tưởng không thiệt, không để mắc
mứu, không chạy theo, không lầm nhận nó nữa th́
đủ cơ cắt đứt ḍng luân hồi sanh tử. Những
vọng tưởng bên trong tuy vô h́nh, lăng nhăng lít
nhít nhưng thật ra khó trị vô cùng. Cho nên muốn ở
núi non b́nh yên, ở Thiền viện b́nh yên, ngồi thiền
không bị mắc mứu ǵ hết th́ phải phủi hết
những thứ đó. Phủi hết là sao? Là xem việc
sanh tử trọng đại nhất, phải giải
quyết cho xong, không có việc khác. Vấn đề sinh
tử chúng ta chưa giải quyết được là bản
án tử h́nh bắt đầu hiện ra. Ngày giờ hành
án thu ngắn dần, ta không có người phá án, không có trạng
sư, cũng không có lực ǵ đối kháng lại bản
án đó. Thế mà ta cứ sống ăn chơi vui vẻ
ngày này qua ngày kia, Phật Bồ-tát nói chúng sanh si mê quá sức,
si mê dữ dội. Việc sinh tử không ai có thể gánh
chịu thế ḿnh nên mỗi người phải tự
nỗ lực tu hành. Phật
dạy chỉ có trí tuệ Bát-nhă mới chặt đứt
ḍng luân hồi sanh tử. Cho nên ở đây Sơ Tổ
Trúc Lâm vui vẻ chấp nhận đời sống của
người tu hành được ở núi rừng, an
nhiên tự tại. Trong ḷng không bị buộc ràng bởi
bất cứ thứ ǵ ở trần gian. Đoạn này
Ngài nói thân ḷng hỷ xả tức cảnh vắng, ḷng
yên, mọi sự đều buông hết, không c̣n cưu
mang vướng víu ǵ nữa mới giải thoát an nhàn.
Người tu thích ở núi rừng là một h́nh ảnh
đẹp v́ chỉ với cuộc sống viễn ly,
chúng ta mới có thể thành tựu đạo nghiệp dễ
dàng nhất. Ngày
xưa chúng tôi nội trú trong một trường Phật
học ở tỉnh xa. Nội qui nhà trường có một
tội thuộc phần phụ, nghe ngộ lắm. Tội
đó là đứng quanh chùa ngó mong. Chỗ ấy là xứ
của người Miên, lớp học trên ba chục
tăng sinh, ngoài ra có một số các vị là đệ
tử của chư tôn Ḥa thượng, Thượng tọa
ở những vùng lân cận gởi tới, nên anh em rất
đông. Hồi đó tụi này nhỏ, mà qui điều
lại chế ra cái tội đứng quanh chùa ngó mong.
Chúng tôi phải dè dặt, coi chừng nhất về tội
này, v́ nếu không để ư bị phạm hồi nào
ḿnh cũng không biết nữa. Phạm tội này th́ phải
quỳ hương quả đường, nghĩa là lúc
chư Tăng thọ trai, ḿnh quỳ giữa quả
đường, tới khi nào chư tăng ăn cơm
xong ḿnh mới đứng lên lễ ba lễ rồi xuống
nhà sau ăn cơm. Thấy không có ǵ nặng, nhưng nó kỳ,
xấu hổ lắm! Lúc đầu
không biết, tôi hỏi thầy chúng trưởng tội
“đứng quanh chùa ngó mong” là tội ǵ ? Thầy nói: “Mấy
chú nhớ nhà nhớ chùa Thầy tổ muốn về mà
không dám xin, đứng ngó mong th́ bị phạt nên gọi
là tội đứng quanh chùa ngó mong”. Tôi nói: “Ủa! Nhớ
nhà, nhớ chùa không dám xin th́ đứng ngó mong, có tội
ǵ đâu ?” Thầy nói: “Nếu ḿnh cứ tơ tưởng
vớ vẫn như thế măi, làm sao học được.
Cho nên học là phải quyết tâm, theo chúng trong mọi
sinh hoạt, chớ đứng một ḿnh lớ quớ
lẩn quẩn một hồi là có người tới vịn
vai chấm phạt”. Đó là
do kinh nghiệm của các vị giáo thọ nhiều
năm, biết tâm trạng vớ vẫn của đệ
tử c̣n trẻ tuổi. Ḷng hâm mộ tu hành tuy có
nhưng vào cuộc tu hành rồi th́ chưa vượt
được những tập khí cũ. Nếu không có
phương tiện khắc phục hạn chế, để
t́nh trạng ấy phát triển lâu ngày tu không được,
nên các Ngài mới chế định điều lệ lạ
lùng ấy. Tới bây giờ tôi mới cảm thấy cái
hay của bản nội qui hồi xưa. |