CỬA THIỀN HÉ MỞ
I. THẤU QUA SẮC KHÔNG
Người học
thiền mà chưa qua được cửa “sắc không”, còn vướng phải chỗ này thì vẫn nằm
trong trí đối đãi, y nguyên vẫn đứng ngoài cửa Tổ. Như Thượng Tọa Minh
Nhan là người học rộng, nhớ giỏi, khi đến với Thiền sư Huệ Minh bàn
luận về tông thừa; qua một lúc lý luận, cuối cùng Thiền sư Huệ Minh
bảo:
- Nói nhiều
cách đạo càng xa, nay có việc xin hỏi: “Từ trước đến giờ các bậc Tiên đức
có ngộ hay không?”
Minh Nhan
đáp:
- Nếu là các
bậc Thánh Tiên đức thì đâu không có ngộ.
Huệ Minh
bảo:
- “Một người
trở về nguồn chân, mười phương hư không thảy đều tiêu mất”, hiện nay núi
Thiên Thai vẫn y nguyên đây, làm sao nói tiêu mất?
Minh Nhan
không chỗ bám.
Thượng Tọa
Minh Nhan ban đầu lý luận thế này, thế nọ, cuối cùng bị Thiền sư Huệ Minh
dẫn hai câu trong kinh Lăng Nghiêm gạn lại, liền mắc kẹt không qua khỏi
được. Nghĩa là, người còn kẹt trong ý niệm “sắc không” đối đãi thì không
thể nào vượt qua được chỗ này. Kinh nói rõ: “Hễ một người đã trở về nguồn
chân thì cả mười phương hư không thảy đều tiêu mất không còn dấu vết”, vậy
xưa nay biết bao nhiêu người ngộ đạo, đã sống trở lại nguồn chân đó mà
thành Tổ, thành Thiền sư, nhưng sao núi sông trước mắt vẫn còn dẫy đầy y
nguyên đây, phải hiểu thế nào? Kinh nói sai sao?
Bởi người
chưa thông, cứ hiểu “tiêu mất” theo nghĩa bị phá tan, dẹp cái “sắc” thành
cái “không” đối đãi nhau, khiến không còn thấy biết gì mới là không. Đó là
chỗ hiểu của thức tình sanh diệt, rơi trong cái thấy có không, biến thành
đoạn diệt. Tức là bỏ “có” mà thành “không” nên bị vướng kẹt, ngăn ngại.
Với người đã
mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại,
không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết
mê mờ, đó mới thực là ngay sắc tức không, là con mắt bát nhã sáng ngời !
Nói rõ hơn, thấy tất cả núi sông, cảnh vật hiện trước mắt, nhưng THẤY VẪN
LÀ THẤY, thì có TƯỚNG gì trong đó? Thế là Sắc đầy dẫy trước mắt mà không
có một chút gì ngăn ngại, che mờ con mắt ấy, tức là nó tiêu mất trong con
mắt ấy chứ gì! Cho nên, “không” ở đây là KHÔNG TÂM DÍNH CẢNH THÌ CẢNH TỰ
KHÔNG, không phải làm cho nó thành không. Chỗ này dù lý luận cách mấy cũng
không đến được.
Ngài Đại Huệ
– Tông Cảo một hôm đang xem kinh Kim Cang, Thiền sư Chuẩn tức ngài Trạm
Đường thấy thế bèn hỏi:
- “Pháp ấy
bình đẳng, không có cao thấp”, vì sao nói núi Vân Cư cao, núi Bảo Phong
thấp?
Đại Huệ đáp:
- Pháp ấy
bình đẳng, không có cao thấp.
Nếu người
chấp theo ngôn ngữ, nghe nói núi Vân Cư, nghe nói núi Bảo Phong liền theo
đó sanh hiểu thì bị kẹt giữa sắc không, là bị ngại liền. Tức còn có tâm
trụ trên cảnh thì hẳn thấy có cao, có thấp sai biệt. Trái lại, người học
cần ngay đây thấu rõ: “Cái gì là pháp ấy?”, tức ngay đó vẫn như như, có gì
là cao, là thấp? Cho nên, Trạm Đường vừa hỏi câu đó, Đại Huệ chỉ đáp y câu
hỏi “Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp”. Chính cái ông vừa hỏi
đó, nó có cao thấp gì? Rời chỗ này mà thấy, liền có cao thấp ngay.
Sự thật, núi
đâu tự nói nó cao, nó thấp bao giờ. Chỉ tại người sanh tâm ở trên đó, bèn
thấy thành có cao, có thấp, rồi tranh chấp nhau mãi, càng đi xa trong sai
biệt. Giờ đây hãy trả lại ngay đó, THẤY CHỈ THẤY, nguyên vẹn như nó là nó,
liền vượt qua tất cả sắc không, cao thấp, cửa Thiền đã hé mở!
II. VƯỢT QUA KHUÔN KHỔ NGÔN NGỮ, VĂN TỰ, CHẲNG ĐẠP THEO DẤU NGƯỜI
Với tông chỉ
“Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự”, Thiền tông tự có một sức sống
vượt ngoài chữ nghĩa, nếu người chưa vượt qua được khuôn khổ ngôn ngữ, văn
tự là đời đời vẫn còn đứng ngoài cửa Thiền, dù có nói hay cách mấy. Bởi
ngôn ngữ, văn tự là tướng vô thường, là thuộc thứ NGHĨA CHẾT. Đóng khung
mình trong đó là sống với cái chết, là nằm trong cái bị hiểu, làm sao sáng
được Thiền?
Trong kinh
Kim Cang, khi Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi tên kinh, Phật đáp: “Kinh này tên
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật”. Liền đó, Phật lại bảo: “Nói Bát Nhã Ba La Mật
tức chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật”. Người mới nghe qua thấy rất lạ, dường
như Phật tự mâu thuẫn. Song, chính đó là một ý nghĩa sâu xa, thức tình khó
thấu. Bởi vì cái TÊN đó, đâu phải là “bản thân” Bát Nhã thật. Vì tùy theo
ngôn ngữ thế gian, Phật phải tạm nói thành tên, nhưng bản ý của Ngài là
muốn đánh thức cho người cần thấu rõ “cái gì là Kim Cang Bát Nhã?” Không
thể nghe nói đến tên ấy, liền y theo đó sanh hiểu thì chỉ là KHÁI NIỆM
thôi. Đó là chết trên cái tên “Kim Cang Bát Nhã”. Người đạt ý phải nhảy
qua cái tên đó, thấy lại ngay chính mình, mới thấu được Bát Nhã sống,
không thì cũng chỉ là Bát Nhã chết, Bát Nhã trong chữ nghĩa, trong sách
vỡ, nhà Thiền thường đánh thức người học phải sống dậy chỗ này.
Như Vân Môn
khi đến Trang sở của Tuyết Phong, gặp vị tăng, Sư nhờ một việc: “Thượng
tọa lên núi, gặp lúc Hòa thượng thượng đường, chúng vừa nhóm họp, liền đi
ra nắm chặt cổ tay Hòa thượng bảo: - Ông già, trên cổ mang gông sao chẳng
cởi đi?” Sư lại dặn thêm không được nói là lời của ai.
Vị tăng ấy
lên núi làm đúng như lời Vân Môn dặn, Tuyết Phong liền bước xuống tòa nắm
đứng bảo:
- Nói mau!
Nói mau!
Vị tăng
không nói được. Tuyết Phong buông ra bảo:
- Chẳng phải
lời của ông
Tăng
thưa:
- Lời của
con.
Tuyết Phong
gọi:
- Thị giả!
Hãy đem dây, gậy đến đây!
Vị tăng liền
thưa:
- Dạ chẳng
phải là lời của con, đó chính là lời của một Thượng tọa ở Chiết trung hiện
đang ngụ tại Trang sở dạy con nói như thế.
Tuyết Phong
bảo:
- Đại chúng!
Hãy đến Trang sở rước vị thiện tri thức của 500 người lên đây!
Tại sao chỉ
một câu nói đơn giản như thế mà ngài Tuyết Phong bảo là của vị thiện tri
thức của 500 người? Bởi vừa thượng đường tức là sắp nói pháp, mà có nói ra
thành ngôn ngữ thì chính là gông cùm trói người rồi. Vân Môn đã mở mắt tâm
nên Sư thấy thấu qua ngôn ngữ, rõ tột trước khi mở miệng nữa kìa, vì vậy
mà bảo: “Cởi gông trên cổ đi!” Tuyết Phong chưa nói mà Vân Môn đã thấy
trước rồi. Với bậc thầy đã sáng mắt, khi nghe qua như thế liền cảm biết
ngay, thông cảm với nhau liền. Trong khi đó, ông tăng kia chỉ học nói
thôi, nên bị gạn lại liền lúng túng thì chân tướng đã lộ bày, đâu thể chối
cãi. Đã vậy, giờ đây chúng ta cứ lo đuổi theo câu, theo lời, phân
tích chữ nghĩa hay dở, chia chẻ phải quấy lăng xăng thì càng đóng gông,
cột nặng thêm thôi! Nếu chưa qua được cái khuôn chữ nghĩa này thì bị Thiền
sư gạt dài dài mà không hay biết.
Có vị tăng
đến thưa hỏi Quốc sư Huệ Trung:
- Người xưa
nói: “Xanh xanh trúc biếc trọn là pháp thân, Rỡ rỡ hoa vàng thảy đều Bát
Nhã”, người chẳng tin cho là tà thuyết, người có lòng tin cho là chẳng thể
nghĩ bàn, nhưng chẳng biết thế nào mới chính xác?
Quốc sư đáp:
- Đây là
cảnh giới của Văn Thù, Phổ Hiền, chẳng phải chỗ các phàm phu, Tiểu thừa
hay tin nhận được. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói:
“Thân Phật
đầy khắp nơi pháp giới, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Mà hằng ở tòa
bồ đề này.”
Trúc biếc đã
chẳng ra ngoài pháp giới, há chẳng phải pháp thân?
Lại, kinh
Bát Nhã nói: “Vì sắc vô biên nên Bát Nhã cũng vô biên”, hoa vàng đã chẳng
vượt ngoài sắc, há chẳng phải bát nhã? Vì vậy kinh vốn chẳng có pháp cố
định, pháp vốn không có nhiều thứ.
Vị tăng nghe
xong, vẫn chẳng sáng tỏ, hỏi lại:
- Cái tin
tức trong đây, người tin là phải? Hay người chẳng tin là phải?
Quốc sư lại
đưa cao ý cảnh lên một tầng nữa, bảo:
- Người tin
là tục đế, người chẳng tin là chân đế.
Vị tăng rất
ngạc nhiên hỏi:
- Người
chẳng tin bị chê là tà kiến, Thầy đâu thể nói là chân đế?
Quốc sư bảo:
- Người
chẳng tin tự là chẳng tin, chân đế tự là chân đế. Nhân vì chân đế ấy nên
phàm phu bị chỉ trích là tà kiến. Người tà kiến đâu thể nói chân đế?
Vị tăng nghe
đến đây mới tỏ ngộ “chân lý cứu cánh không dễ tin”
Hãy xem
trong đây, nếu chúng ta theo chữ nghĩa mà hiểu thì thấy mâu thuẫn. “Chẳng
tin” sao là chân đế được? Không ngờ ý Quốc sư vốn ở ngoài chữ nghĩa. Quốc
sư bảo “chẳng tin là chân đế” nhằm muốn chỉ: chân đế – tức lý cứu cánh
chân thật – đó là chỗ phàm phu không dễ gì tin nổi. Do họ không tin được
chỗ này nên mới bị cho là tà kiến. Vì vậy, chúng ta nghe nói đến “chẳng
tin”, nhưng phải rõ “ý” ở chỗ “chân đế”, không thể mắc kẹt theo ngôn ngữ,
văn tự: Cứ lo thắc mắc “không tin là tà kiến, tà kiến thì làm sao có thể
gọi là chân đế được?” Đó là bị hai chữ “không tin” lừa gạt. Vượt qua được
khuôn khổ chữ nghĩa đó, tức thuận nghịch đều thông suốt.
III. VƯỢT QUA Ý NIỆM ĐỐI ĐÃI
Chính ý niệm
đối đãi làm ngăn ngại con mắt thiền của vô số người. Người còn kẹt trong ý
niệm đối đãi là còn sống trong tình phân biệt, chưa thoát khỏi phạm vi của
thức. Mà cái hiểu của Thức là so sánh phân biệt, không thể trực tiếp giáp
mặt sự thật. Bởi vậy, trong nhà thiền thường dùng cái bẫy hai bên để gạn
người học. Chẳng hạn bà Ni Huyền Cơ đến tham vấn Hòa thượng Tuyết Phong,
Tuyết Phong hỏi:
- Từ đâu
đến?
Bà đáp:
- Từ núi Đại
Nhật đến.
Tuyết Phong
hỏi:
- Mặt trời
lên chưa?
Bà đáp:
- Mặt trời
lên ắt tan núi Tuyết.
Tuyết Phong
hỏi tiếp:
- Ngươi tên
gì?
Bà đáp:
- Huyền Cơ.
Tuyết Phong
hỏi:
- Một ngày
dệt được bao nhiêu?
Bà đáp:
- Tấc tơ
chẳng dính.
Như vậy, cho
thấy bà Ni Huyền Cơ đã thật sự có chỗ sống, đã sáng mắt đạo, không bị kẹt
trong ý niệm đối đãi hai bên nên vượt qua những cái bẫy của Hòa thượng
Tuyết Phong. Hỏi: Từ đâu đến? Đáp: Từ núi Đại Nhật đến. Đại Nhật tức mặt
trời to, do đó Tuyết Phong thuận theo cái tên này mà gạn lại:- Mặt trời
lên chưa? Đó là đưa ra cái bẫy: Lên- chưa lên. Bà Ni Huyền Cơ đáp ngay: -
Nếu mặt trời lên ắt tan núi
Tuyết rồi.
Núi Tuyết là ngầm chỉ Tuyết Phong. Tức mặt trời lên thì bặt đối tượng,
vượt qua cái bẫy lên, chẳng lên.
Ngài Tuyết
Phong chuyển qua trận thứ hai, hỏi: - Tên gì? Bà đáp: Huyền Cơ tức máy xe
tơ. Cho nên Tuyết Phong liền nhân cái tên đó mà gạn lại: - Một ngày dệt
được bao nhiêu? Đó là đưa ra cái bẫy NHIỀU – ÍT. Nếu ngay đó trầm ngâm suy
nghĩ là lọt bẫy. Huyền Cơ mắt sáng thấy liền, nên đáp thẳng: - Tấc tơ
chẳng dính. Tức là suốt ngày làm mà chẳng động đến sợi tơ nào, không sanh
một niệm trên đó. Đây là vượt qua luôn cái bẫy nhiều, ít.
Ở một đoạn
khác, Ngài Pháp Nhãn cùng với Thiệu Tu, Hồng Tiến đi tham học, gặp trời
trở tuyết, cùng nhau ở lại viện Địa Tạng của Thiền sư Quế Sâm. Quế Sâm
nhân đó gạn hỏi:
- Trong
Triệu Luận nói: “Trời đất cùng ta đồng gốc”, vậy núi sông, quả đất cùng
với cái chính mình của Thượng tọa là đồng hay khác?
Pháp Nhãn
đáp:
- Khác.
Quế Sâm liền
đưa hai ngón tay lên. Pháp Nhãn bèn đáp:
- Đồng.
Quế Sâm cũng
đưa hai ngón tay lên, rồi đứng dậy đi.
Khi tuyết
tan, ba người từ giã đi, Quế Sâm đưa ra cửa hỏi:
- Bình
thường Thượng tọa nói: “Ba cõi chỉ là Tâm, muôn pháp chỉ là Thức”, vậy
phiến đá trong sân này là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?
Pháp Nhãn
đáp:
- Ở trong
tâm.
Quế Sâm bảo:
- Người hành
cước cớ gì lại đem phiến đá để trên đầu tâm?
Sư bí không
đáp được.
Đây là Thiền
sư Quế Sâm đưa ra cái bẫy “ĐỒNG KHÁC, TRONG NGOÀI” để gạn Pháp Nhãn. Trong
đây, Pháp Nhãn chưa qua ý niệm “đồng khác, trong ngoài” nên vẫn chưa vượt
qua khỏi cửa Quế Sâm được. Bởi trong lúc hỏi bất ngờ thì tập khí con người
vốn quen sống trong ý niệm đối đãi, nên đáp ra đều vướng hai bên, ngay đó
biết rõ là người chưa mở mắt thiền. Trong khi đó, với người đã tỏ sáng
chân thật thì nghe lời hỏi liền biết ngay, không mắc kẹt. Như có vị tăng
hỏi Thiền sư Ba Lăng:
- Ý Phật và
ý Tổ là đồng hay khác?
Ba Lăng đáp:
- Gà lạnh
lên cây, vịt lạnh xuống nước.
Câu hỏi của
ông tăng đưa ra nằm trong ý niệm hai bên, người đáp chẳng rõ, cứ đáp một
chiều là mắc kẹt. Trong đây, Thiền sư Ba Lăng đáp rất khéo: - Gà lạnh thì
lên cây, vịt lạnh thì xuống nước, như vậy “lên cây” và “xuống nước” thì
không đồng, nhưng “Biết lạnh” thì không hai, làm sao nói cố định là đồng
hay khác? Bởi, có Phật, có Tổ thì quả là không đồng, nhưng “ý chỉ kia”
vốn không hai nên mới cảm thông nhau, tỏ ngộ thì đồng một cái thấy không
cách biệt. Nếu còn kẹt trong ý niệm đồng khác, chia chẻ ý Phật, ý Tổ riêng
khác, thì rõ ràng chưa vượt qua được cửa Tổ.
Thêm một
điểm nữa, nếu người không mắc kẹt trong ý niệm đối đãi thì cũng nhảy qua
được những nghịch lý thông thường của tình thức đặt định. Chẳng hạn bài kệ
Pháp thân của ngài Phó Đại Sĩ:
Tay
không cầm cán mai,
Đi bộ, ngồi
lưng trâu.
Người đi qua
trên cầu,
Cầu trôi
nước chẳng trôi.
Nguyên văn:
Không thủ bả
sử đầu,
Bộ hành kỵ
thủy ngưu.
Nhân tùng
kiều thượng quá,
Kiều lưu
thủy bất lưu.
Theo tâm lý
thông thường, đọc qua thấy nghịch lý vô cùng: tay không, sao lại cầm cán
mai? Có cầm sao gọi tay không? Đi bộ, sao lại bảo ngồi lưng trâu? Đã ngồi
lưng trâu, sao lại là đi bộ? Còn người đi qua trên cầu, mà cầu trôi nước
chẳng trôi thì làm sao hiểu? Bởi không hiểu nổi nên có lúc chúng ta muốn
sửa lại cho hợp theo cái hiểu thường tình của mình, nhưng không ngờ chính
mình chưa đạt đến “ý” của người xưa. Chính ở đây, CẦM mà không cái gì CẦM,
ĐI mà chưa từng đi đâu, TRÔI mà vốn không TRÔI chỗ nào cả, thì ngay đó là
gì? Còn mê gì nữa? Đó là ngay “tướng” mà vượt qua tướng, ý nghĩa trong đó
quả là rất sâu xa, vượt ngoài văn tự ngôn ngữ nên gọi là kệ Pháp thân. Nếu
chúng ta cứ hiểu cho hợp lý theo tình thức phàm phu của mình thì bao giờ
thấy được pháp thân?
Hoặc như
Thiền sư Ba Tiêu từng bảo: “Ông có cây gậy, tôi cho ông cây gậy; ông không
có cây gậy, tôi đoạt mất cây gậy của ông”. Ai nghe qua theo đầu óc thường
tình thì thấy nghịch lý. Đã có cây gậy, còn cho chi nữa? Đã không có cây
gậy thì đoạt cái gì? Không ngờ ý Thiền sư vốn vượt ngoài chữ nghĩa “cho,
đoạt”. Trong đây “CHO” mà không có gì được; “ĐOẠT” mà không có gì mất thì
ông chính là ông thôi, vậy còn chưa ngộ phải đợi tìm cái gì khác nữa?
Thiền luôn nhấn mạnh phải “đạt ý quên lời” là vậy. Bởi vì “nghịch, thuận”
chẳng qua chỉ là ý thức đặt định vốn không phải chân lý cố định. Nếu xét
cho tột cùng thì ý thức cũng luôn dời đổi vô thường, chính bản thân nó đã
không cố định rồi, mà nó đặt ra cái cố định được sao? Đây là Thiền sư đập
vào đầu óc khô cằn, chết cứng lâu nay trong cái khuôn khái niệm để tự sống
dậy, luôn luôn sáng ngời vượt qua tất cả đối đãi.
IV. DỒN ĐẾN ĐƯỜNG CÙNG, BẶT Ý THỨC, TỰ SỐNG DẬY
Nếu còn có
“lý” để hiểu, tức còn có chỗ để suy, để nghĩ, đó là để dành chỗ cho thức
tình đi, cho sanh diệt bám. Muốn đạt đến cứu cánh Thiền, người học không
thể dừng ở chỗ đó được. Vì vậy, Qui Sơn không chịu nói phá cho Trí Nhàn.
Sư vốn là người thông minh lanh lợi, cùng với Qui Sơn ở trong hội Tổ Bá
Trượng lâu năm nhưng tham thiền chẳng ngộ. Đến khi Tổ Bá Trượng tịch, Sư
lại theo Qui Sơn. Một hôm Qui Sơn bảo Sư:
- Tôi nghe
ông ở chỗ Tiên sư Bá Trượng, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, đó là
ông thông minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng, là cội gốc của sanh tử, Giờ
đây ông thử nói một câu trước khi cha mẹ chưa sanh xem?
Sư bị một
câu hỏi này liền mờ mịt không đáp được. Trở về liêu, Sư soạn hết sách vở
đã học qua, tìm một câu đáp trọn không thể có. Cuối cùng Sư than: “Bánh vẽ
chẳng làm no bụng đói!”, bèn đến cầu xin Qui Sơn nói phá. Qui Sơn bảo:
- Nếu tôi
nói cho ông, về sau ông sẽ chửi tôi; tôi nói là việc của tôi, đâu dính
dáng gì đến ông?
Sư bèn đem
những sách vở đã thu thập được ra đốt hết và nói: “Đời này chẳng học Phật
pháp nữa, chỉ làm ông tăng bình thường làm việc cơm cháo, khỏi phải nhọc
tâm thần”. Sư bèn khóc từ giã Qui Sơn ra đi.
Sư đi thẳng
đến Nam Dương, chỗ di tích Quốc sư Huệ Trung. Sư ở đây, một hôm nhân cuốc
cỏ trên núi, chợt hòn sỏi văng trúng bụi tre vang ra tiếng, bỗng tỉnh ngộ,
phá lên cười. Sư trở về tắm gội, thắp hương nhắm hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca
tụng: “Hòa thượng thật từ bi hơn cha mẹ, trước kia nếu Ngài vì con nói ra
thì làm gì có ngày hôm nay!”
Xem đấy! Trí
Nhàn tuy thông minh lanh lợi, nhưng bị một câu hỏi bất ngờ từ chỗ tâm
chứng thốt ra, nên không thể tìm trong sách vở có câu trả lời. Sư đến cầu
Qui Sơn nói phá cho hiểu, Qui Sơn cũng khéo léo không nói, khiến cho Sư
thắc mắc tự tìm hết đường để hiểu, liền đó tự mở ra cái hiểu của chính
mình. Ngay lúc tiếng sỏi văng trúng bụi tre, Sư đâu có ý thức đoán trước,
cũng không lường trước được, mới chợt phát minh ra, ngoài chỗ tình thức
hiểu biết. Chính vì vậy, Thiền không thể bắt chước!
Quốc sư Đức
Thiều với Hòa thượng Long Nha cũng tương tợ. Sư đến hỏi Long Nha
- Bậc tôn
hùng hùng, vì sao chẳng gần được?
Long Nha
đáp:
- Như lửa
với lửa.
Sư hỏi:
- Bỗng gặp
nước đến thì sao?
Long Nha
đáp:
- Hãy đi,
ông chẳng lãnh hội lời ta!
Sư hỏi:
- Trời chẳng
che, đất chẳng chở lý này thế nào?
Long Nha
bảo:
- Đạo giả,
nên như thế!
Qua mười bảy
lần Sư thưa hỏi, Long Nha chỉ đáp như thế. Sư vẫn không nhận được ý chỉ,
lại thỉnh cầu Long Nha chỉ dạy thêm. Long Nha bảo:
- Đạo giả!
Ông về sau tự lãnh hội lấy.
Sau, Sư ở
ngọn núi Thông Huyền đang tắm chợt tỉnh ngộ câu nói trước, bèn đầy đủ oai
nghi, thắp hương từ xa trông về Long Nha lễ bái nói: “Khi ấy nếu thầy vì
con nói, ngày nay con quyết sẽ mắng thầy!”
Ban đầu Quốc
sư Đức Thiều muốn hiểu, nhưng Hòa thượng Long Nha không cho hiểu, cứ để
cho Sư suy tìm đến cùng đường, nghĩ đến hết chỗ nghĩ, tức ánh sáng
chân thật ló hiện ra! Còn có chỗ hiểu được, là vẫn còn kẹt theo duyên. Còn
có chỗ suy nghĩ đến được, là còn nằm trong cái BỊ BIẾT. Cho nên đặc biệt
Ngài Hoàng Bá với Nghĩa Huyền, ba lần đến hỏi về đại ý Phật pháp thì ba
lần chỉ đánh thôi, không nói thêm lời nào, không giải thích một chữ, khiến
Nghĩa Huyền dồn hết tâm vào một chỗ đó, cuối cùng Đại Ngu chỉ gợi nhẹ một
câu, liền tự sống dậy. Phải một phen cùng đường ý thức phân biệt,
cùng đường của tâm suy nghĩ, mới có cơ sống dậy!
Trở lại thực
tế hiện tiền, ngay đây nếu người BIẾT VỌNG, mà Biết đến không còn tướng gì
để biết, Biết đến tột không còn chỗ để biết, thì chính đó là gì? Tức
“Người không cùng muôn pháp làm bạn” tự hiện ra, khỏi đợi phải trở về xa
xưa hỏi ông Bàng Uẩn hoặc tìm đến Tây giang uống cho cạn nước! Ai bảo Biết
vọng là không rốt ráo? Quan trọng là, một nghe liền thẳng vào, chớ không
phải chỉ đứng bên ngoài mà lý luận. Lý luận không bao giờ tới!
V. TRẢ LẠI TÂM BÌNH THƯỜNG, BUÔNG SẠCH MỌI Ý NIỆM VỀ THIỀN
Thiền, cuối
cùng là trở về tâm bình thường, buông hết mọi khái niệm về thiền. Còn có
một chút khái niệm về thiền đọng lại trong đầu, là cũng còn một lớp ngăn
cách. Phải trả lại cho nó, y như nó là nó của tự thuở nào, khi chưa có
trời đất.
Linh Huấn ở
trong hội của Qui Tông một thời gian. Khi Sư từ giã Qui Tông đi. Qui Tông
hỏi:
- Đi đâu?
Sư thưa:
- Đi về Lãnh
Trung.
Qui Tông
bảo:
- Ông ở đây
nhiều năm, sửa soạn hành lý xong hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật
pháp cao tột!
Sư sửa soạn
hành lý xong, đến trước Qui Tông. Qui Tông bảo:
- Hãy đến
gần đây!
Sư đến gần
trước. Qui Tông bảo:
- Trời lạnh,
đi đường hãy bảo trọng!
Sư nghe lời
này liền quên hết chỗ hiểu trước.
Người mới
nghe nói “một câu Phật pháp cao tột”, trong đầu đinh ninh là một câu gì đó
rất cao siêu, phi thường. Không ngờ, chỉ nghe một câu rất bình thường:
“Trời lạnh, đi đường hãy bảo trọng!”, liền quên hết không có gì để hiểu
cao siêu! Chỗ cao tột là như thế. Bởi còn có chỗ để hiểu là còn có chỗ
chưa hiểu. Và còn hiểu, là hiểu về một cái gì đó rồi, tức là trái với cái
đang hiện hữu sáng ngời đây!
Có vị tăng
hỏi ngài Vân Môn:
- Thế nào là
câu nói siêu Phật vượt Tổ?
Vân Môn đáp:
- Bánh
nướng!
Người cứ lo
tìm hiểu lý cao xa, hỏi ở đâu đâu, quên mất chính sức sống sáng ngời đang
hiện tiền đây mới là yếu chỉ. Cho nên Vân Môn không phí công đối đáp xa
vời, chỉ đánh thức ông tăng trở về thực tại sáng ngời ông đang sống.
Có vị đại
đức hỏi ngài NamTuyền:
- Tức tâm là
Phật lại chẳng được, phi tâm phi Phật lại chẳng được, ý Thầy thế nào?
Nam Tuyền
bảo:
- Đại Đức
chỉ tin tâm mình là Phật liền xong, còn nói cái gì được chẳng được? Ví như
Đại Đức khi ăn cơm xong, đi từ Đông lang qua Tây lang, chẳng thể hỏi mọi
người là được chẳng được?
Nếu người cứ
kẹt trên danh từ “tức, phi”, “được, chẳng được” và dính vào “cái hiểu
phải, quấy” thì thành chướng ngại mãi. Nói tức tâm là Phật, nói phi tâm
phi Phật, cũng là danh từ thôi, cốt là có tin nhận được chưa? Tin nhận
liền xong, hết nghi ngờ, cũng như ăn xong thì tự biết no, trong đó ai thay
thế cho mình được? Mình đã ăn xong thì còn nghi gì là no, chẳng no? Nếu có
người bảo: “ông chưa no” thì sao? Cũng chỉ cười thôi, có gì phải nghi?
Mình đã thật sự thấy rồi, mặc tình cho ai nói “ông phải, chẳng phải” đều
không bận lòng. Chỉ một tâm bình thường, bặt mọi ý niệm “phải, chẳng
phải”, “được, chẳng được”, không thêm bớt gì trong đó. Cửa thiền đã mở sẵn
rồi! Tuy nhiên vừa khởi hiểu nó, liền mất bình thường, cửa thiền tự khép
kín.
VI. DÁM NHẬN SỰ THẬT
Đây là điểm
rất quan trọng! Vì học thiền là học cái thật; nếu cứ tránh né sự
thật, chối bỏ sự thật thì làm sao cảm nhận sự thật? Hơn nữa, thiền là chỉ
thẳng lẽ thật ngay chính mình, đi thẳng vào vấn đề không phí thì giờ quanh
co. Quách Tử Nghi, một Tể tướng đời Đường, có lần ông đến thăm một Thiền
sư và hỏi:
- Bạch Hòa
thượng, Phật pháp giải thích thế nào về ngã mạn?
Thiền sư
liền đổi sắc mặt bảo:
- Kẻ dốt,
ông đang nói gì?
Quách Tử
Nghi lộ ngay vẻ khó chịu. Thiền sư thấy vậy liền bảo:
- Thưa Ngài,
ngã mạn là đó!
Thiền sư
thật chỉ thẳng! Nếu không có ngã thì cái gì khởi giận? Cái gì bực tức, khó
chịu? Chính cái “TA LÀ TỂ TƯỚNG” bị xúc phạm, bị động đến nên khó chịu chứ
gì? Khỏi cần giải thích dài dòng, ngay đó đã trình bày tướng ngã mạn ra
rồi. Can đảm thấy thẳng lẽ thật đó, dù cho nó xấu, nó dỡ, cũng thấy ngay
mới không lầm. Trái lại, cứ lo giải thích cho người vui lòng, nhưng đâu
thấy được tướng ngã mạn? Không khéo còn nuôi dưỡng, vuốt ve nó thêm nữa!
Nếu đem tâm trạng này để học đạo, hẳn là khó thấy đạo.
Một ông
Tướng Quốc tên Đỗ Hồng Tiệm từng thể hiện tinh thần học đạo chân thật rất
đáng quý. Ông đến hỏi Thiền sư Vô Trụ:
- Đệ tử tánh
thức cạn cợt, trước đây nhân công việc rảnh rỗi có soạn bản sớ giải Luận
Đại Thừa Khởi Tín gồm hai quyển, có thể gọi là Phật pháp chăng?
Thiền sư Vô
Trụ đáp:
- Xét về
việc viết sớ giải đều là dùng thức tâm nghĩ xét phân biệt, có tạo tác,
khởi tâm động niệm mới có thể làm thành. Theo lời văn trong bản Luận đó có
nói: “Phải biết, tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa
tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không có đổi khác,
vì chỉ có một tâm nên gọi là chân như”. Nay Tướng Công lại kẹt tướng ngôn
thuyết, kẹt tướng danh tự, kẹt tướng tâm duyên; đã kẹt các thứ tướng, làm
sao cho là Phật pháp?
Ông liền
thưa:
- Đệ tử từng
hỏi các bậc Đại đức trong triều, các Ngài từng tán thán đệ tử là chẳng thể
nghĩ bàn. Phải biết, những vị ấy chỉ thuận theo nhân tình, nay thầy từ lý
giải nói phù hợp với pháp tâm địa, thật là chân lý không thể nghĩ bàn!
Đây là thầy
trò tương ứng nhau. Ông thầy dám nói thật, người trò dám nhận sự thật.
Người học thiền phải can đảm như vậy, mới học được những điều chưa nghe.
Nếu cứ chấp nhận theo lời nói chìu uốn với nhân tình tức là nuôi dưỡng cái
ngã, tô đậm thêm thức tình, làm sao đối diện sự thật? Nghĩa là, chúng ta
cứ che đậy sự thật bằng những lời lẽ hay đẹp, rồi tự vui lòng theo đó là
tự cách biệt chân lý.
VII. TỰ TIN BẢN TÂM
Điều cốt yếu
của người học thiền là phải TỰ TIN BẢN TÂM mình là chính. Người chưa tự
tin được chỗ này, là còn chạy lăng xăng bên ngoài. Trong phần TÂM YẾU của
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ đã nói rõ điểm này, đây xin nhấn mạnh lại một lần nữa
cho người học nghiệm kỹ.
Hòa thượng
Tuyết Phong một hôm gọi Huyền Sa bảo:
- Đầu Đà Bị!
Tại sao không đi tham vấn các nơi?
Huyền Sa
đáp:
- Đạt Ma
chẳng đến Đông độ, Nhị Tổ chẳng sang Tây thiên.
Tuyết Phong
gật đầu.
Hòa thượng
Tuyết Phong bảo Huyền Sa sao chẳng đi tham vấn các nơi, là ngầm ý muốn gạn
xem Sư đã có chỗ sống tự tin vững chưa? Sư thưa: - Đạt Ma chẳng đến Đông
độ, Nhị Tổ chẳng sang Tây Thiên, là muốn chỉ: việc ấy vốn sẵn có đầy đủ
nơi tất cả mọi người, không thật có chuyện “đến” để truyền thêm cái gì
khác, cũng không thật có “sang” để tìm cái gì nữa. Chính đó là nói lên,
Huyền Sa đã có chỗ tự tin vững vàng, xác quyết, không còn nghi ngờ tìm
kiếm thêm nữa.
Song cần
thấu rõ, phải tự tin như thế nào mới không lầm lẫn, nếu hồ đồ tin nhận cái
tâm sanh diệt này cho là bản tâm, tức là lạc vào đường tà, bị nó phá tan
sự nghiệp, nguy hiểm!
Trong Tín
Tâm Minh, mở đầu Tổ Tăng Xán bảo:
Chí đạo vô
nan
Duy hiềm
giản trạch
Đản mạc tắng
ái,
Đổng nhiên
minh bạch.
Nghĩa:
Đạo tột
không khó
Chỉ hiềm
chọn lựa
Nhưng chớ
yêu ghét
Rỗng suốt
sáng tỏ.
Tức là, chỗ
chân thật chí đạo đó, nó rất là đơn giản, rất là gần gũi chúng ta, không
phải khó khăn tìm cầu, suy kiếm ở đâu khác. Điều cốt yếu là, chỉ chớ khởi
tâm chọn lựa đây kia, phân biệt yêu ghét, thì ngay đây sáng tỏ rõ ràng, sờ
sờ chưa từng che giấu. Tin là tin chỗ đó. Cho nên Ngài kết thúc bài Minh
bằng bốn câu:
Tín tâm bất
nhị,
Bất nhị tín
tâm.
Ngôn ngữ đạo
đoạn,
Phi khứ lai
kim.
Nghĩa:
Tin tâm
chẳng hai,
Chẳng hai
tin tâm.
Dứt đường
ngôn ngữ,
Chẳng phải
xưa nay.
Tin tâm đó
là sao? Chính là “tâm chẳng hai”, tâm dứt bặt niệm đối đãi hai bên. Chính
ngay khi dứt bặt niệm đối đãi hai bên đó, liền đó tự tin bản tâm chân
thật. Tuy nhiên, chỗ này không phải chỗ nói năng, suy nghĩ tới được, nó
vốn vượt ngoài con đường của thức tình hiểu biết. Bởi vậy, người đến hẳn
phải một phen buông sạch mọi khái niệm hiểu biết trong đầu, tự thẳng vào
chứng nghiệm mới thầm thông. À! Thì ra, Nó suốt tột xưa nay, luôn luôn
hiện tiền sáng rỡ không thời gian! Còn nghi ngờ gì nữa?
VIII. TÓM KẾT
Thiền, chính
ở Tâm người, không thể tìm ở đâu khác, đây là điều xác quyết rõ ràng lần
nữa cho mọi người tin chắc không nghi ngờ. Vào thiền thì phải “sáng tâm,
tỏ tánh” thôi, ngoài tâm tánh đi tìm thiền là quay lưng với thiền.
Vượt qua mọi
ngôn ngữ ước định, mọi khái niệm hiểu biết theo lối mòn, xoay lại chính
mình là YẾU CHỈ VÀO ĐẠO. Thiền vốn không cửa, nhưng người vượt qua cửa thì
thấu được thiền. Đây là điểm đặc biệt không thể lý luận bằng lời.
Có vị tăng
hỏi Thiền sư Trí Cự hiệu Khương Tuệ ở Tào Sơn:
- Người xưa
nói “Nếu ghi nhớ một câu, nhiều kiếp làm cáo tinh”, chưa biết ý chỉ của
người xưa thế nào?
Sư đáp:
- Nhà tăng
Long Tuyền chưa từng khoá.
Ông tăng dẫn
lời người xưa, ý nhắn nhủ cho người học đạo: Nếu cứ lo đuổi theo câu chữ,
ghi nhớ những lời chết là mê mờ, vậy phải làm sao để có sức sống thật? Tuy
nhiên ông tăng cũng không thoát được cái lưới của người xưa: vẫn nhắc lại
lời ấy. Thiền sư Khương Tuệ thì nhắm thẳng vào sức sống đang hiện hữu
buông một câu, toàn thể lộ bày: nhà tăng xưa nay cửa chưa từng
khóa, vậy sao cứ đứng bên ngoài mà hỏi mãi? Nếu hay một niệm quên duyên
thẳng vào, mới rõ vốn ở trong ấy từ lâu, cũng không thật có ra vào. Kỵ
nhất là chần chừ do dự. Vừa cúi đầu trầm ngâm tức thân ở tại quê
người rồi. Nếu còn hỏi lại tại sao thì mây đen phủ kín.
Xưa nay sẵn
đó vốn sờ sờ,
Nào có trong
ngoài để mở vô!
Một niệm
quên duyên không chỗ bám,
Giật mình
trong ấy tự bao giờ! |