TÂM THỂ TINH KHÔI
TỨC TÂM THỂ
MỚI MẺ,
CÒN NGUYÊN
VẸN
Y NHƯ NÓ
LÀ NÓ TỰ THUỞ NÀO
I. AI KHÔNG TÂM THỂ?
Điều trước
nhất cần xét kỹ lại xem, trên thế gian này, ai là người không có tâm thể?
Thấu được chỗ này thì rõ chỗ căn bản mê lầm của chúng ta từ vô thủy đến
nay.
Thường chúng
ta bị Phật gọi là mê, là sống trong hư vọng phải chăng? Đã gọi là mê, nếu
không có tâm, lấy gì là mê? Cây đá, máu thịt, gân xương đâu biết mê? Có mê
là chấp nhận có Tâm rồi. Đây là một điểm.
Thứ hai, gọi
là vọng, tức là sao? Nghĩa là trái với chân thể thì gọi là vọng chứ gì?
Nếu hoàn toàn không có chân thể thì nói vọng cũng dư. Cho nên nói vọng là
ngay đó tự thầm nhận có chân thể. Chính vì chúng ta bỏ quên cái TÂM THỂ
CHÂN THẬT ban đầu này, nên mãi lang thang đuổi theo bóng dáng sanh
diệt, gọi đó là vọng.
Vua Trần
Thái Tông trong bài kệ tóm tắt NÚI THỨ NHẤT có hai câu:
Chỉ sai hữu
niệm quên vô niệm,
Liền trái
không sanh nhận có sanh.
Tức là, đang
ở trong thể vô niệm vô sanh an ổn không chuyện gì, bỗng động niệm liền đó
quên mất chính nó, ngay đó là trái với vô sanh mà đi vào có sanh có diệt,
đây là nhận cái vọng chứ gì? Song, sở dĩ có niệm, có sanh là vì
sao? Vì quên chỗ vô niệm, vì trái chỗ vô sanh thôi.
Có vị tăng
hỏi Hòa thượng Lang Nha:
- Thanh tịnh
sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?
Sư đáp:
- Thanh tịnh
sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?
Đây là ông
tăng dẫn kinh Lăng Nghiêm, Ngài Phú Lâu Na hỏi Phật. Chỗ đặc biệt của
Thiền sư là giống như chỉ lập lại câu hỏi vậy thôi, nhưng lại là cách đáp
chính xác vô cùng. Câu hỏi là: Đang sẵn thanh tịnh như vậy, cớ gì bỗng
sanh ra các thứ? Thiền sư lập lại y nguyên câu hỏi, như dội lại ngay chỗ
vừa hỏi đó. Chính ngay đó, ông đang thanh tịnh an ổn không việc gì, bất
chợt khởi niệm hỏi, không phải là trong ấy bỗng sanh núi sông, cõi đất hay
sao? Ngay đó tỉnh lại, liền rõ chỗ trước khi sanh chứ gì! Chỉ một chút kẽ
hở này liền phân mê ngộ cách biệt. Kinh Pháp Hoa gọi là, cùng tử lang
thang bỏ cha đi làm kẻ ăn mày nơi đất khách quê người. Đất khách nào?
Chính là các trần trước mắt đây! Vừa ở trần này, lại vào trần kia, rồi bắt
qua trần nọ, cứ thế đi mãi, đi mãi… quên hẳn đường về! Song, chính khi
chạy vào các trần đó, thì cái gì chạy? Than ôi! Lại mê cái ấy, chỉ biết có
trần thôi, vô minh là đấy!
Hòa thượng
Thạch Đầu đã từng bảo Đại Điên:
- Trừ ngoài
nhướng mày chớp mắt hãy đem tâm lại!
Đại Điên
thưa:
- Không tâm
có thể đem lại.
Thạch Đầu
liền bảo:
- Nguyên lai
có tâm sao nói không tâm, không tâm tức đồng với chê bai rồi!
Kìa, ông bảo
không tâm, vậy chính “cái gì nói là không tâm đó?” Bởi người người đều có
sẵn tâm thể ấy mà bỏ quên không chịu nhận, có mà không hay biết nên gọi là
Mê, nhớ lại là Giác. Lẽ thật rõ ràng như thế, còn gì nghi ngờ nữa?
II. TÂM THỂ Ở ĐÂU?
Đã biết có
tâm thể rồi, vậy thì tâm thể đó ở đâu mà mê? Sự thật nó không ở đâu cả mà
ở ngay chính mình, đó là một điều không ai ngờ. Chính vì không ngờ nên mọi
người cứ chạy đi tìm. Nhưng tìm ở đâu cho ra?
Trong Huyết
Mạch Luận, Tổ Sư đã bảo: “Ba cõi đều dấy lên, đồng về một tâm. Phật
trước, Phật sau lấy tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Hỏi: -
Nếu chẳng lập văn tự, lấy gì làm tâm? Đáp: - Ông hỏi tôi chính là tâm ông,
tôi đáp ông chính là tâm tôi. Tôi nếu không có tâm, nhân đâu biết đáp ông?
Ông nếu không có tâm, nhân đâu biết hỏi tôi? Hỏi tôi chính là tâm ông, từ
vô thủy kiếp đến nay, cho đến mọi hành động tạo tác trong tất cả thời, tất
cả chỗ đều là bản tâm ông”.
Trong đây Tổ
Sư xác định rõ ràng, tất cả thế gian có ra, dù có muôn ngàn sai khác, mà
không cái gì ra ngoài MỘT TÂM. MỘT TÂM nào? Người học đạo cần thấu rõ chỗ
MỘT TÂM này, liền rõ gốc gác của sanh tử. MỘT TÂM đó, chính là “tâm thể
không hai” hay “tâm thể tinh khôi” chứ không gì khác. Tâm thể này đâu
thuộc văn tự chữ nghĩa? Ngòi bút nào ghi được nó? Cho nên Phật Phật truyền
nhau chỉ là truyền tâm này. Hay nói rõ hơn, chính đây là chỗ sống của chư
Phật, lìa chỗ này thì Phật chỉ còn là Phật trong sách vở.
Đây, Tổ Sư
chỉ thẳng cho thấy tâm này ở đâu? “Hỏi tôi chính là tâm ông, đáp
ông chính là tâm tôi”. Chính ngay chỗ hiện tiền “đang hỏi đáp”, tâm thể
sẵn hiện hữu trong đó. Nếu không có tâm, nhân đâu có hỏi, có đáp? Đây là
nhân cái DỤNG, Tổ Sư chỉ ra cái THỂ. Đã có cái dụng phát ra nói năng, hỏi
đáp, tới lui, qua lại đó, thì từ cái gì mà khởi dụng? Nếu không có Thể thì
lấy gì khởi Dụng? Tuy nhiên chỗ này cũng dễ lầm! Nếu người hấp tấp nhận
cái nói năng, động dụng đó cho là bản tâm, thì cũng mê. Tại sao? Vì nếu
nhận cái “hỏi đáp” đó cho là bản tâm, khi không hỏi đáp thì sao? Tức thành
không có tâm hay sao? Nhận như thế là nhận trên cái sanh diệt rồi! Trong
đây phải thật chính chắn. Cốt yếu là, người lanh lợi phải khéo nhân đó mà
thầm nhận trở lại “tâm thể kia”. Từ tâm thể đó ứng dụng ra mới không lầm.
Để rõ hơn,
chúng ta hãy nghe thầy trò Qui Ngưỡng hiển bày “thể dụng” cho thấy. Qui
Sơn đang hái trà, Sư gọi Ngưỡng Sơn bảo:
- Cả ngày
hái trà, chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con.
Ngưỡng Sơn
liền rung cây trà. Qui Sơn bảo:
- Con chỉ
được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của nó.
Ngưỡng Sơn
thưa:
- Chưa biết
Hòa thượng thế nào?
Qui Sơn im
lặng. Ngưỡng Sơn nói:
- Hòa thượng
chỉ được cái thể của nó, chẳng được cái dụng của nó.
Có ai thấy
được thầy trò Qui Ngưỡng chăng? Qui Sơn bảo hiện hình, Ngưỡng Sơn “rung
cây trà”, tức hiện hình đó rồi. Sao Qui Sơn còn bảo “chỉ được dụng, không
được thể”? Chẳng lẽ ngoài cái dụng đó, riêng có cái thể nào khác nữa? Nếu
quả thực không có cái “thể” thì lấy gì hiện ra cái “dụng” ấy? Đây là Qui
Sơn ngầm nhắc cho người, chớ lầm bị Ngưỡng Sơn gạt, chỉ thấy trên tướng
động của cây trà là mờ mắt. Phải thấy sâu qua chỗ “cây trà không thể rung
tới kia” thì mới tròn thể dụng!
Cho nên tiếp
theo Qui Sơn im lặng là bổ túc chỗ ấy. Nhưng người không hiểu, theo lời mà
bị gạt. Nghe Ngưỡng Sơn bảo: “Hòa thượng chỉ được thể, không được dụng”,
bèn chê Qui Sơn là còn nghiêng lệch, tức lầm to! Nếu quả thực trong đó chỉ
có “thể” mà không có “dụng”, thì đó là cái “thể chết”, vậy cái gì “Biết im
lặng”? Thế nên trong đây im lặng mà sáng ngời, mà vang như sấm,
đừng tưởng im lặng là không biết gì. Người mắt sáng, phải thấy thấu qua
tướng im lặng kia mới thấy được thầy trò Qui Ngưỡng. Vì im lặng là đối với
tướng nói năng, tướng rung cây trà kia, cũng thuộc tướng sanh diệt đối
đãi.
Trong đây
cần rõ: Ngưỡng Sơn rung cây trà, Qui Sơn đã hiện trong đó! Qui Sơn im
lặng, Ngưỡng Sơn cũng hiện trong đó! Đâu thể tách rời chia hai mà
nói một được, một chẳng được? Rõ ràng tâm thể vốn hiện tiền đấy thôi.
Và đây, Sở
Nam
đến tham vấn Hòa thượng Hoàng Bá, Hoàng Bá hỏi:
- Thế nào là
trước khi ông chưa hiện hình trong ba cõi?
Sư thưa:
- Ngay hiện
nay đâu phải có.
Hoàng Bá
bảo:
- Có không
hãy gác lại, ngay hiện nay thế nào?
Sư thưa:
- Chẳng phải
xưa nay.
Hoàng Bá
bảo:
- Pháp nhãn
của ta chính ở nơi ông.
Cái gì là
trước khi hiện hình trong ba cõi? Tức “tâm thể tinh khôi” chứ gì! Chỗ đó
có hình tướng gì để thấy, để nói? Song, người nghe hỏi như thế, bèn theo
câu hỏi tưởng xa xôi về quá khứ nào đó, là quên mất chính mình đang hiện
hữu. Ngài Sở
Nam
không lầm theo ngôn ngữ, nên đáp rõ: “Ngay hiện nay đâu phải có”. Tức ngay
đây, chưa khởi niệm thì có hình tướng gì? Chính đó là tâm thể tinh khôi,
là chỗ chưa hiện hình trong ba cõi, đâu có tướng gì che mờ được? Tuy
nhiên, vừa động niệm liền có hiện hình rồi, là rơi trong ba cõi liền đó.
Song, Hoàng
Bá còn gạn thêm: “Có không hãy gác lại, chính hiện nay thế nào?” Nếu chưa
phải người thực sống trong đó, hẳn khó trả lời. Sở Nam đáp thẳng: “Chẳng
phải xưa nay”, tức vượt qua ý niệm xưa nay. Thể đó sờ sờ như vậy, vốn
chẳng rơi vào xưa nay, chẳng thuộc trong thời gian trước sau. Rõ được chỗ
này là mở con mắt pháp, ánh sáng thiền xuất hiện ngay đó!
III. TỪ ĐÂU TRỞ VỀ?
Rõ biết được
tâm thể này có sẵn nơi mình đây rồi, nhưng hiện nay còn đang trong mê lầm
thì từ đâu mà trở về?
Quả thực
cũng rất đơn giản, vốn chính từ cái BIẾT này mà mê, thì cũng chính từ cái
BIẾT này mà trở về thôi, không có con đường nào khác. Nghĩa là, BIẾT yêu,
BIẾT ghét, BIẾT hơn, BIẾT thua, BIẾT phải, BIẾT quấy… đó là BIẾT trong mê,
BIẾT theo duyên, theo cảnh, là cái BIẾT đi trong sanh tử luân hồi. Giờ
đây, cứ ngay đó mà trở về là xong.
Kinh Lăng
Nghiêm, Phật bảo: -Những người tu hành chẳng thể thành tựu Vô
thượng bồ đề, cho đến riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác và quyến thuộc của
ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập lầm lộn. Thế nào là hai thứ?
1. CĂN
BẢN SANH TỬ TỪ VÔ THỦY: tức chính ông hiện nay và các
chúng sanh dùng “tâm phan duyên” làm tự tánh.
2. THỂ BỒ
ĐỀ NIẾT BÀN THANH TỊNH SẴN CÓ TỪ VÔ THỦY: tức
chính ông hiện nay cái “thức thể sẵn tự sáng ngời” (Thức tinh nguyên
minh), nó hay sanh ra các duyên, mà bị các duyên bỏ sót nó. Do các chúng
sanh bỏ sót cái “sáng suốt sẵn có”(Bổn minh) này nên tuy trọn ngày tu hành
mà chẳng tự giác, uổng đi vào các thú.
Dùng tâm
phan duyên làm tự tánh, đó là căn bản sanh tử từ vô thủy đến nay. Tâm phan
duyên tức cái Biết theo duyên chứ gì? Còn “thể Bồ Đề niết bàn sẵn có từ vô
thủy” là ở đâu? Tức ngay cái “thức thể sẵn có sáng ngời” hiện nơi mình
đang sống đây thôi. Cái thức thể đó là gì? Chính là CÁI BIẾT SỜ SỜ đây,
hay cái TÂM THỂ TINH KHÔI đấy! Chính CÁI BIẾT CÒN NGUYÊN VẸN, MỚI MẺ, TINH
KHÔI NHƯ NÓ LÀ NÓ CỦA TỰ THUỞ NÀO nên gọi là “thức tinh”. Nó hay sanh ra
các duyên, là nó Biết cái này, Biết cái nọ, Biết đủ thứ không thiếu sót.
Biết duyên tức là sanh, vì khi biết cái nào là có cái đó hiện. Nhưng khi
nó Biết cái gì, thì nó chỉ nhớ cái đó, nó đồng hóa mình là cái đó mà quên
mất chính nó, nên gọi là “bị các duyên bỏ sót nó.” Chính vì bỏ sót nó, gọi
đó là Mê, là quên mất đường về, nên đi vào các thú. Tu hành mà cứ lấy cái
Tâm chỉ Biết theo duyên đó để tu, thì bao giờ tự giác được để trở
về? Song, đường về ở đâu mà không trở về được? Cũng chính ngay đó thôi.
Muốn trở về, cũng phải ngay cái Biết đó mà trở về, chính đây là quê nhà
muôn thuở!
Trở về thế
nào? Chỉ cần: Biết tất cả mà không bỏ sót chính nó vậy thôi.
Thiền sư Lâm
Tế - Nghĩa Huyền có lần thượng đường bảo: “Có một người ở mãi giữa
đường mà chẳng lìa nhà, có một người lìa nhà mà chẳng ở giữa đường.”
Thật là
nghịch lý chăng? Tại sao lìa nhà mà chẳng ở giữa đường? Ở giữa đường mà
chẳng lìa nhà? Thiền như thách thức với đầu óc quen đóng khung trong vòng
lý luận của thế tình, nhưng lại là một lẽ thật sáng ngời với người đã mở
mắt tuệ. Vậy ai thấy người nào ở mãi giữa đường mà chẳng lìa nhà? Người
nào lìa nhà mà chẳng ở giữa đường? Và trong đây là mấy người? Quả thật
chính là “tâm thể tinh khôi” này thôi. Dù chúng ta đang mê mờ lang thang
trong trần, nhưng sự thật nó có đi đâu?
Chỉ cốt ngay
đây đổi lại: thay vì Biết tất cả mà quên mất chính nó, giờ đây hãy Biết
tất cả mà không bỏ sót chính nó trong bất cứ trường hợp nào, trong bất cứ
nơi chốn nào, thì có chỗ nào vắng mặt nó đâu? Như thế rõ ràng đâu đâu
chẳng là quê nhà? Nghĩa ở giữa đường mà chẳng lìa nhà sáng tỏ như ban
ngày, có gì phải nghi ngờ!
Bài kệ của
Ngài Tam Bình nói:
Tức thử kiến
văn phi kiến văn,
Vô dư thinh
sắc khả trình quân.
Cá trung
nhược liễu toàn vô sự,
Thể dụng hà
phòng phân bất phân.
Nghĩa:
Chính thấy
nghe này chẳng thấy nghe,
Đâu thừa
thinh sắc đáng trình anh.
Trong kia
nếu rõ toàn vô sự,
Thể dụng
ngại gì phân chẳng phân.
Chính ngay
cái THẤY NGHE hiện tiền đây, thấy nghe tất cả mọi sắc thinh nhưng không
dừng ở một sắc, một thinh nào, tức thấy nghe mà chẳng thấy nghe chứ gì. Đó
là thấy nghe nguyên vẹn như nó là nó, ngay đó trọn vẹn sáng ngời đâu còn
có chút sắc thinh nào lẫn vào để mà trình. Thấy nghe như thế là toàn
“THỂ” ở trong thấy nghe rồi, thấy là toàn thể thấy, nghe là toàn
thể nghe, vậy còn có cái thể nào riêng khác nữa đâu mà chia là thể, là
dụng? Người còn chia chẻ đây là thể, kia là dụng, là rõ ràng chưa hết mê!
Bàng Uẩn ở
trong hội Hòa thượng Dược Sơn, khi từ giã đi, Dược Sơn sai mười thiền
khách tiễn đến cổng. Ông bèn chỉ tuyết trong hư không nói:
- Tuyết đẹp
từng mảnh từng mảnh chẳng rơi chỗ khác.
Thiền khách
Toàn hỏi:
- Rơi ở chỗ
nào?
Ông tát
Thiền khách Toàn một cái tát, Toàn bảo:
- Cư sĩ
không được vô lễ.
Ông nói:
- Ông thế ấy
mà xưng là Thiền khách, Diêm Vương chưa tha ông đâu.
Toàn hỏi:
- Cư sĩ thì
sao?
Ông tát cho
một cái tát nữa, nói:
- Mắt thấy
như mù, tai nghe như điếc.
Ông Bàng Uẩn
rõ ràng có chỗ thấy sáng ngời chẳng mê. Ngay tuyết rơi, thấy rõ từng mảnh
tuyết, từng mảnh tuyết rành rẽ không lầm, không có một mảnh nào lọt ra
ngoài con mắt ấy, thì TÂM THỂ SỜ SỜ đó, còn phải tìm đâu nữa? Thiền khách
Toàn lại lầm qua, hỏi rơi chỗ nào? Đó là theo tuyết rơi quên mất chính
mình rồi. Tức bị các duyên bỏ sót nó rất đau thương, nên liền bị tát! Vậy
mà Toàn còn chưa tỉnh! Nếu ngay đó khéo thấy trở lại, tức liền trên đường
về, mặc cho ông Bàng Uẩn tát, làm sao tát đến chỗ này?
IV. VỀ ĐÂU?
Nói ngay đó
liền trở về, nhưng về đâu? Không khéo lại kẹt theo ngôn ngữ thành mê nữa.
Chỉ là trở lại trước khi khởi niệm thôi, thấy có chỗ về là nằm mộng như
cũ.
Bài pháp đầu
tiên Lục Tổ bảo Huệ Minh:
- Chẳng nghĩ
thiện, chẳng nghĩ ác, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?
Chẳng nghĩ
thiện, chẳng nghĩ ác, đó là Lục Tổ đưa Thượng tọa Minh trở về trước khi
động niệm, ngay đó tự nhận ra “mặt thật xưa nay” của chính mình từ vô thủy
thôi. Tâm thể tinh khôi là đấy!
Sư Nhan hỏi
Hòa thượng Nham Đầu:
- Thế nào là
lý bản thường?
Nham Đầu
bảo:
- Động.
Sư Nhan
thưa:
- Khi động
thì thế nào?
Nham Đầu
bảo:
- Chẳng phải
lý bản thường.
Sư im lặng
giây lâu, Nham Đầu bảo:
- Nhận tức
chưa thoát khỏi căn trần, chẳng nhận tức hằng chìm trong sanh tử.
Lý bản
thường, tức nó thường sẵn như vậy chưa có xen gì vào. Nói theo đây là tâm
thể mới mẻ, tinh khôi trước khi động niệm chứ gì? Nó đã thường sẵn như
vậy, chợt khởi niệm hỏi thì sao? - Tức là động rồi. Mà đã động là trái bản
thường, là đi vào cái khuôn hiểu biết, khái niệm. Nếu còn chần chừ nhận
chẳng nhận, tức rơi vào hai đầu sanh diệt, càng đi xa. Vượt qua đó, liền
rõ lý bản thường, khỏi hỏi thêm.
Nếu người
sống trong tâm thể tinh khôi này, thì nó Biết khắp rất tinh tế, không chút
gì qua lọt. Như Ngài Lâm Tế từng bảo: “Sơn tăng nói pháp khác với
mọi người ở khắp nơi, hoặc có Văn Thù, Phổ Hiền xuất hiện trước mặt, mỗi
vị hiện mỗi thân hỏi pháp, vừa nói: -Thưa Hòa thượng! Tôi đã sớm biết rõ
rồi. Huynh đệ đến gặp nhau tôi trọn biết rành. Chỉ vì cái thấy của tôi
riêng khác, ngoài chẳng nhận lấy phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy
suốt trọn không có nghi lầm”.
Tại sao Sư
thấy hay như vậy? Chỉ vì “ngoài chẳng nhận lấy phàm thánh, trong chẳng trụ
căn bản”. Tức là luôn luôn ở trong “tâm thể tinh khôi” ấy, không theo
tướng phân biệt phàm thánh bên ngoài, không trụ chỗ căn bản nơi tâm bên
trong, nói đơn giản là KHÔNG TRỤ TRONG NGOÀI, nên thấy suốt không có nghi
lầm. Tuy nhiên, không trụ bên ngoài thì dễ hiểu, tâm bên trong cũng không
trụ nữa là sao? Bởi vì còn thấy có cái tâm căn bản để trụ, tức biến nó
thành cái đối tượng rồi, là có thêm cái bóng thứ hai án ở trước, thì đâu
thể thấy suốt!
Cho nên
trong đây vừa có TRỤ là mất tinh khôi, là có cái khác xen vào. Do đó, trở
về là về trước khi có trụ, trước khi có bạn bè, ngay đó liền gặp “Người
chẳng cùng muôn pháp làm bạn”, khỏi phải chạy sang Trung Hoa tìm đến Tây
Giang uống cho cạn mới được câu trả lời.
Bởi vậy,
người thấu rõ chỗ này, là rõ tất cả cội nguồn Phật pháp. Tất cả bí quyết
của tông môn, tất cả sâu kín của Tổ sư đều nằm trong đây, khỏi phải tìm
đâu khác.
V. PHẢI LUÔN SỐNG MỚI MẺ TINH KHÔI
Bởi tâm thể
này vốn mới mẻ tinh khôi, vì vậy người muốn đạt chỗ này, cũng phải giữ tâm
luôn luôn mới mẻ tinh khôi, không có chứa đựng nhiều khái niệm trong đầu,
không bám chặt vào một cái khuôn định sẵn khiến tâm cùn lụt, chết cứng.
Hãy xem, xưa
kia Ngài Đại Mai - Pháp Thường đến hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là
Phật?
Mã Tổ đáp:
- Tức tâm
tức Phật. (Phật tức là tâm, tâm tức là Phật)
Sư liền tỏ
ngộ, về núi Đại Mai sống an ổn vững vàng, không còn ai dối gạt được. Trái
lại, hiện giờ chúng ta đã nghe câu này không biết bao nhiêu lần, tại sao
không ngộ? Chính vì bị cái KHÁI NIỆM in sẵn trong đầu này. Vừa nghe nói
đến, trong đầu liền bảo ngay: “Tôi hiểu rồi”, thì đâu có cơ hội để tỏ ngộ!
Sự thật thì nó có thực hiểu đâu. Hiểu đó, là Hiểu qua cái Hiểu của người
xưa, Hiểu của khái niệm cũ mòn, chết cứng thôi. Chính đó là nghe với một
cái tâm đã chết của quá khứ, chớ vội hài lòng!
Nếu người
còn chưa tin, hãy nghe vị tăng hỏi Điều Ngự Giác Hoàng:
- Thế nào là
một việc hướng thượng?
Điều Ngự
đáp:
- Đầu gậy
khêu nhật nguyệt.
Tăng thưa:
- Dùng công
án cũ của người xưa làm gì?
Điều Ngự
đáp:
- Mỗi lần
nhắc lại, mỗi lần mới.
Người học
đạo chớ bắt chước theo ông tăng này! Tin tức việc lớn ấy vẫn luôn có sẵn
bên mình, nhưng nếu chúng ta chỉ nghe với tâm có chứa khái niệm trong đầu,
thì chỉ nghe với cái khuôn cũ kỹ, nghe với cái nhớ về quá khứ đã
chết, không đối diện được cái đang hiện hữu sáng ngời! Chỉ nhớ có “đầu
gậy”, nhớ có “nhật nguyệt”, thì đó chỉ là danh từ rỗng thôi, làm sao đạt
được “ý sống” trong ấy? Đầu gậy làm sao với tới nhật nguyệt mà khêu? Rõ
ràng ý này đã vượt ngoài lời nói rồi, còn đâu để nói mới cũ?
Nếu người
thực sự nghe với TÂM TRỐNG RỖNG, HOÀN TOÀN MỚI MẺ TINH KHÔI, sạch mọi khái
niệm đóng khuôn trong đầu, thì bảo đảm nghe gì cũng mới mẻ, cũng sáng
ngời, sẽ nghe được những điều bất ngờ! Cho nên Điều Ngự bảo: “Mỗi lần nhắc
lại mỗi lần mới”. Nhắc lại là đang đối diện trực tiếp với chính ông đây,
tâm tâm đang trực tiếp với nhau đây, đâu phải nói với người xưa mà bảo cũ!
Còn ông, ông chỉ nghe với mớ khái niệm cũ mòn in trong đầu nên thấy là cũ.
Như vậy, kết luận cho chính xác, là lời nói cũ hay chính tâm ông cũ? Người
học đạo cần nghiệm kỹ chỗ này!
Chúng ta hãy
nghe chuyện Huyền Tắc với Ngài Pháp Nhãn. Huyền Tắc ở trong hội Ngài Pháp
Nhãn mà chưa từng thưa hỏi. Một hôm Pháp Nhãn hỏi:
- Giám viện
Tắc sao chẳng vào thất thưa hỏi?
Tắc thưa:
- Hòa thượng
đâu không biết con ở chỗ Thanh Phong đã có chỗ thâm nhập.
Pháp Nhãn
hỏi:
- Ông thử
thuật lại cho ta nghe!
Tắc
thưa:
Con hỏi Hòa
thượng Thanh Phong: “Thế nào là Phật? (Có bản ghi: Thế
nào là tự kỷ của con?)” Hòa thượng đáp: - Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
Pháp Nhãn
bảo:
- Lời khéo,
nhưng ngại ông hiểu lầm nên nói lại xem.
Tắc thưa:
- Bính Đinh
thuộc lửa, đem lửa đi xin lửa, như con là Phật lại đi tìm Phật.
Pháp Nhãn
bảo:
- Giám viện
quả nhiên lầm rồi.
Tắc nổi
giận, quảy hành lý bỏ đi. Pháp Nhãn nói:
- Người này
nếu trở lại còn có thể cứu, nếu không trở lại thì không thể cứu.
Tắc đi giữa
đường, nghĩ lại: “Hòa thượng là bậc thiện tri thức của năm trăm người, há
lại gạt ta sao?”, bèn trở lại tham vấn tiếp. Pháp Nhãn bảo:
- Ông hỏi ta
đi, ta sẽ đáp cho.
Tắc hỏi:
- Thế nào là
Phật?
Pháp Nhãn
đáp:
- Đồng tử
Bính Đinh đến xin lửa.
Tắc liền đại
ngộ.
Nghiệm kỹ
trong đây chúng ta sẽ thấy nhiều điều mới mẻ. Tại sao, cũng một câu nói đó
mà lần trước Huyền Tắc nói thì chưa phải ngộ; lần sau Pháp Nhãn cũng lập
lại thì thành thật ngộ? Chỗ này đem khái niệm trong đầu để hiểu, có thể
hiểu được chăng? Bởi, chính lần đầu Huyền Tắc đáp là đáp theo cái hiểu của
khái niệm, của lối mòn suy nghĩ thuộc tình thức, tự cho là hiểu mà thật là
cái hiểu bắt chước, lập lại. Lần sau, Pháp Nhãn đáp, là đáp trong chỗ bất
ngờ, Huyền Tắc không kịp suy nghĩ trước, tính toán trước, tức là đang đối
diện trực tiếp với nhau, nên ngộ là thật ngộ! Chỗ này người đứng bên ngoài
không thể suy tư đến được.
Do đó, người
học đạo chúng ta phải tâm luôn luôn mới mẻ tinh khôi như vậy mà ứng dụng,
mà nghe, mà học đạo thì lúc nào cũng sáng ngời vi diệu, lúc nào cũng nghe
được những điều chưa từng nghe.
Hãy nhớ kỹ!
Cũng câu kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà Lục Tổ nghe qua
liền ngộ, Vua Trần Thái Tông đọc đến liền tỉnh, còn chúng ta nghe hoài sao
vẫn không ngộ? Lỗi tại đâu? Tại câu kinh quá cũ hay tại cái gì?
Rõ ràng tại
vì chúng ta bị cái hiểu quá nhiều, quá in đậm trong đầu, nên nghe đó chỉ
là nghe với bóng dáng quá khứ của chữ nghĩa chứa đầy, làm sao trực tiếp
thẳng vào tâm thể được?
Vậy, ngay
đây người học hãy buông sạch mọi khái niệm chứa đựng trong đầu, mọi cái
hiểu của quá khứ, để tâm nguyên vẹn mới mẻ tinh khôi như nó là nó mà xem:
cái gì đang đọc những dòng chữ này?
VI. TÓM KẾT
Lâu nay
chúng ta đã sống quá nhiều với những khái niệm chứa đầy ắp trong đầu, giờ
đây muốn học đạo để nghe những điều chưa nghe, thì phải can đảm để tâm
trống rỗng mới mẻ tinh khôi mà học, mà nghe, đó là con đường sống dậy của
chính mình.
Chính ngay
đó là nguồn sống vô biên chúng ta cần trở về, chư Phật, chư Tổ có sẵn
trong ấy khỏi tìm đâu khác. Kìa, bài Chứng Đạo Ca của Thiền sư Huyền Giác
vừa mở đầu, Sư đã nhấn mạnh: ANH THẤY CHĂNG? (Quân bất kiến). Người học
thường hay bỏ qua chỗ này, không ngờ chính đây là yếu chỉ của toàn bài Ca.
Yếu chỉ ở đâu?
Đây này!
Chưa nói gì mà bảo: “Anh thấy chăng?” là thấy cái gì? Rõ ràng ngầm chỉ Tổ
sư luôn có mặt, cái ấy sờ sờ sẵn đó. Bởi đây là KHÚC CA CHỨNG ĐẠO, tức nói
lên chỗ chứng, chỗ sống của Thiền sư Huyền Giác. Với chỗ sống đó thì lúc
nào nó cũng sẵn sàng hiện tiền, chưa nói ra, chưa mở miệng, nhưng nó vẫn
sờ sờ có đủ đó rồi! Tức nó mới mẻ tinh khôi, nguyên vẹn chưa có khái niệm
gì chen vào. Vì vậy, chưa nói ra mà hỏi người: “Thấy chăng?” Nếu người
lanh lợi, ngay đó nhận ra liền thì đâu còn bị những lời lẽ phía sau lừa
nữa. Bao nhiêu lời lẽ của cả một bài ca chỉ là giải thích lại chỗ này
thôi.
Và bài Bảo
Cảnh Tam Muội, mở đầu liền bảo:
Pháp ấy như
vậy,
Phật Tổ thầm
trao.
Nay ông được
đó,
Nên khéo giữ
gì (Như thị chi pháp, Phật Tổ mật phó, Nhữ kim đắc chi,
Nghi thiện bảo hộ.)
Vừa mở lời
liền nói: “Pháp ấy như vậy,” mà không nói là pháp gì, vì nó đã sẵn như vậy
rồi, khỏi thêm khái niệm nữa. Chính đó là chỗ Phật Phật, Tổ Tổ thầm trao,
thầm truyền. Nói thầm trao, tức lời nói không thể nói đến được, người nhận
phải khéo thầm nhận thôi: Thầm nhận trước khi nói. Đã thầm nhận rõ
rồi, phải khéo giữ gìn, khéo sống, không để tâm chia chẻ, lựa chọn chen
vào liền tự khuất lấp ngay! Chỗ này còn có thể nói mới, nói cũ nữa sao?
Để kết thúc
ý nghĩa này, xin dẫn đoạn nhân duyên Thiền sư Thạch Thê hỏi thị giả:
- Ông đi
đâu?
Thị giả
thưa:
- Con đi lên
trai đường.
Sư bảo:
- Ta đâu
không biết ông đi lên trai đường?
Thị giả
thưa:
- Trừ ngoài
việc này, riêng nói cái gì?
Sư bảo:
- Ta chỉ hỏi
việc bổn phận của ông?
Thị giả
thưa:
- Nếu hỏi
việc bổn phận, con thật đi lên trai đường.
Sư bảo:
- Ông quả
thật là thị giả của ta!
Thiền sư
Thạch Thê muốn gạn lại chỗ sống hiện tiền của ông thị giả thế nào. Nếu là
người khác hẳn bị Ngài Thạch Thê lừa ra khỏi việc ấy rồi. Hỏi đi
đâu, nếu theo cái đi đó mà đáp, quên mất chính mình đang hiện hữu là nguy!
Thị giả quả đang sống trong ấy nên sáng tỏ rõ ràng không lầm. Đáp đi lên
trai đường, là chính thật mình đang hiện hữu trong đó. Hỏi việc bổn phận,
thì cũng chính ngay đây “đang đi lên trai đường là đi lên trai đường,” rõ
ràng sáng tỏ không thêm gì khác. Trong đây vừa có xen vào bất cứ ý niệm
nào nữa là khuất lấp chính mình, là quên mất việc bổn phận ngay. Tâm thể
tinh khôi chính đã đầy đủ trong ấy rồi!
Như vậy xác
quyết rõ ràng là: Ai ai cũng đều có một “tâm thể nguyên vẹn tinh khôi từ
thuở nào”. Hãy buông hết mọi khái niệm cũ mòn trong đầu, sống lại
ngay chỗ này, chính đó là sinh mạng vĩnh viễn, khỏi tìm kiếm gì khác nữa! |