THIỀN CON ĐƯỜNG KHAI PHÓNG TÂM LINH
I. MỞ MẮT TUỆ THẤY ĐÚNG NHƯ THẬT: TA LÀ GÌ?
Con người
lâu nay bị đóng khung trong sự lầm lẫn bởi cái TA ảo tưởng, nên chỗ thấy
biết luôn bị đóng kín trong ấy. Thiền, giúp người mở sáng mắt tuệ, thấy
đúng như thật “Ta là gì?” để cởi mở tình chấp sai lầm ấy, chính đây là
điểm then chốt của Thiền. Chưa thấu rõ được chỗ này, dù người tu hành cao
siêu đến đâu vẫn bị đóng khung trong chỗ thấy biết lầm lẫn. Thử hỏi, chúng
ta đang sống đây, là Ai sống? Chính TA là chủ của cuộc sống, nhưng hỏi:
‘TA là gì?” dễ trả lời cho chính xác chăng? Bảo cái thân mấy chục kí-lô
này là Ta ư? Lầm to rồi! Hiện nay người ta có thể thay tim, thay thận,
truyền máu v.v…, khi đó gọi là tim ta, thận ta, máu ta được sao? Rõ ràng
thân này như một cái máy, nên có thể thay những bộ phận trong đó. Hoặc
tay, chân này khi bị tai nạn, bác sĩ cưa bỏ, quăng ra ngoài thì gọi đó là
gì? Ta là cái bị quăng đó sao? Chửi nó, nó có giận được chăng?
Đây là một
lẽ thật rất rõ ràng, chúng ta phải thấy đúng như thật nó là nó, mới gọi đó
là trí tuệ. Trái lại, nếu cứ một bề đóng khung trong cái xác máu mủ này,
bám chặt vào tướng mập ốm, đen trắng đây mà nhận càn cho là TA, đó là mê
lầm, là điên đảo. Danh từ điên đảo nhà Phật dùng rất chính xác, tức chỉ
cho cái thấy lộn ngược, nhìn đảo lộn sự thật. Đó là một sự sống đóng khung
trong ảo tưởng lầm lẫn của người trên thế gian này.
Tiến đến, về
TÂM, chúng ta cũng đang sống đóng khung trong cái Ngã tưởng, tưởng có một
cái TA đi theo trong mọi sự thấy biết, cho nên chúng ta nhìn sự vật cũng
luôn luôn méo mó theo cái KHUÔN mang nhãn hiệu cái TA ấy. Cùng là một con
suối, người thì thấy đẹp, người thì thấy xấu, tại vì sao? Vì trong đầu của
mỗi người có chứa sẵn một cái khuôn của quá khứ. Khi thấy con suối liền
lôi cái khuôn đó ra để đo. Nếu nó không bằng cái khuôn đó thì cho là xấu.
Nếu nó hơn cái khuôn đó thì cho là đẹp. Nhưng suối vẫn là suối thôi, nó
không tự nói đẹp, nói xấu gì. Đó là chúng ta nhìn con suối qua lăng kính
của một cái TA, rất nguy hiểm!
Với cái
khuôn đó, dù một chân lý rất hay, rất xác thật nhưng lại do người mình
không ưa, người đối nghịch với mình nói ra thì sao? Hẳn mình sẽ bịt tai
không muốn nghe, hoặc nghe bằng sự khinh rẻ! Như vậy, tại vì cái lý ấy vốn
không đúng hay vì mình đã có thành kiến trong đầu rồi? Cho thấy, chúng ta
thường nhìn tất cả với cái khuôn sẵn trong đầu ấy, cái gì trái với cái
khuôn ấy là sai, là dở! Quả tang là chúng ta đang sống đóng khung trong
cái TA nhỏ hẹp, do đó không thể thấy được chân lý.
Với tinh
thần của nhà thiền, không thể chấp nhận kiểu thấy như thế. Bởi vì, chân lý
mà còn có chia ra chân lý của tôi, chân lý của anh, chân lý của chị, thì
không phải là chân lý toàn vẹn rồi, nếu có thì chỉ là chân lý góc cạnh
thôi. Nếu chúng ta cứ nhìn sự vật với một cái TA đóng khung như thế, hẳn
là luôn quay lưng với chân lý. Như chuyện Triệu Châu véo bà Ni.
Có bà Ni đến
hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Thế nào là
ý sâu kín?
Sư lấy tay
véo bà.
Bà nói:
- Hòa thượng
còn có cái ấy sao?
Sư bảo:
- Chính
ngươi còn có cái ấy.
Bà Ni hỏi ý
sâu kín, là chỗ ngôn ngữ không thể nói tới được. Triệu Châu véo bà, ngay
đó nếu tâm rỗng rang chưa có cái khuôn gì, tức thầm cảm nhận ý sâu kín đó
rồi! Chỗ đó, ngôn ngữ làm sao nói đến được? Đáng tiếc thay! Bà Ni theo cái
khuôn suy nghĩ của thường tình thế tục, nghĩ tưởng Sư có tình ý gì, bèn
thành tâm vẫn đục nghĩ bậy, do đó mờ mất ánh sáng chân thật kia! Vì vậy,
Triệu Châu bảo: “Chính ngươi còn có cái ấy”. Đây là một kinh nghiệm cho
người học Thiền. Học thiền hay đến với thiền bằng cái TÂM chứa sẵn cái
khuôn chết cứng trong đầu thì không bao giờ thấu hiểu được thiền; trái lại
còn xuyên tạc thiền là khác. Chẳng hạn như câu chuyện của Ngài Triệu Châu
với bà Ni trên đây, nếu người mang tâm niệm nam nữ trong đầu, khi nghe đến
đó liền phê phán Thiền sư quá thô tục. Không ngờ, chính Thiền sư thô tục
hay tâm mình đang nghĩ thô tục? Đây là điểm cần thấu rõ!
II. DÁM NHÌN THẲNG SỰ THẬT
Vì thiền là
mở sáng lẽ thật cho người thấy, nên người học thiền cũng phải nhìn thẳng
sự thật, mới thấy được lẽ thật, mới thoát ra sự mê lầm. Từ vô lượng kiếp
đến nay, chúng ta vì sống trái lẽ thật nên đi mãi trong sanh tử khổ đau.
Thân giả hợp, không phải thật ta, lại chấp cứng là ta, rồi nhốt mình trong
cái ta tưởng tượng đó mà tạo thành muôn ngàn tội lỗi! Bao nhiêu phiền não
tham sân, vui buồn, đấu tranh chết chóc hại nhau cũng vì cái TA ảo tưởng
này.
Người giác
ngộ, phải nhìn thẳng vào bản chất thật của nó, nó vô thường tạm bợ, nó nhơ
nhớp không phải ta, thấy đúng như thật nó là vô thường tạm bợ, là nhơ nhớp
không phải ta. Thế gian thường chúc nhau sống lâu trăm tuổi, là đã nói lên
điều gì? Nếu thế gian thực là hạnh phúc, thân này thực là bền bĩ sống lâu
rồi thì đâu cần chúc làm gì cho thừa? Bởi bản chất nó là không bền, là
không hoàn toàn hạnh phúc như ý, cho nên mới chúc, tức hy vọng được như
vậy! Rồi thường ngày mọi người dùng xà bông thơm, dầu thơm là để làm gì?
Nếu bản chất nó thật thơm sạch rồi, cần dùng những thứ đó làm chi? Muốn mở
mắt thật, phải sẵn sàng nhìn thẳng lẽ thật như thế.
Song với
người nghiên cứu Phật pháp một chiều, nghe nói thế bèn cho là đạo Phật bi
quan yếm thế, nói như vậy khiến cho người yếu đuối không muốn làm gì, trở
thành lạc hậu không tiến tới được. Trái lại, phải dùng những danh từ hoa
mỹ để tô vẽ lên đó, như thân ngọc ngà, như tuổi xuân nên thơ v.v… khiến
cho người yêu thích, sống vui mới đúng. Đâu biết rằng, chính đó là trốn
tránh sự thật, sống theo ảo tưởng, bỏ qua thực tế.
Có câu
chuyện xưa, một ông Vua chỉ thích mặc quần áo mới. Một hôm có hai người lạ
đến hoàng cung, tự xưng là thợ dệt giỏi và khoe rằng: họ có thể dệt được
một thứ quần áo đặc biệt, khi mặc vào thì những ai không làm tròn bổn phận
hoặc ngu xuẩn thì không thể nào nhìn thấy dù người đó đứng sát bên cạnh.
Vua nghe nói tự bảo thầm: “Đấy chính là bộ quần áo quý nhất. Ta chỉ cần
mặc vào là biết ngay trong đám quần thần của ta ai không làm tròn bổn
phận. Ta phải may một bộ”.
Hai người
thợ dệt kia được lệnh dệt cho Vua bộ quần áo ấy. Họ bày khung cửi rồi ngồi
vào làm như dáng đang dệt thật, nhưng vốn trên khung cửi chẳng có gì.
Kế đó, Vua
sai quan Thừa tướng, rồi quan Đại thần đến xem. Hai người thợ chỉ vào tấm
vải tưởng tượng và chứng minh cho vị quan Đại thần đây là tấm vải đặc biệt
không đâu khác có được. Quan đại thần tự nhủ: “Mình đâu phải là người ngu
hay là mình không làm tròn bổn phận mà không thấy gì hết. Dầu sao cứ giấu
đi là hơn cả”. Rồi ông cũng giả vờ ngắm nghía và khen hết
lời.
Tới khi Vua
đến xem, cũng đồng tâm trạng như trên, cũng hết lời khen ngợi, không dám
nhận sự thật là không có gì. Đến ngày dệt xong, mặc quần áo mới, Vua cởi
quần áo đang mặc ra, hai người làm ra vẻ khoác vào người ông Vua từng cái
quần, cái áo, các quan thị vệ có nhiệm vụ đở đuôi áo, thò tay sát đất giả
vờ như cầm vật gì đó, nhưng chẳng dám nói là mình không thấy cái gì, vì sợ
nói ra thành mình bị lộ là không làm tròn bổn phận hoặc ngu xuẩn.
Cuối cùng
Vua được các quan hộ tống dạo ra ngoài phố. Mọi người cũng đều trầm trồ
khen ngợi, vì không ai muốn mình mang tiếng là ngu xuẩn hoặc không làm
tròn bổn phận.
Bất ngờ có
một đứa bé nhìn thấy, chợt kêu to:
- Kìa! Hoàng
đế đang cởi truồng kìa!
Và đúng lúc
đó, đức Vua truyền lệnh hồi cung, rèm ngọc được buông xuống kín mít.
Đây là một
câu chuyện xưa của thế gian nhưng có mang ý thiền trong đó. Bao nhiêu
người tự cho mình là hiểu biết, nhưng cùng bị một cái khuôn trong đầu che
mất sự thật. Trong khi đó, thằng bé ngây thơ, đầu óc trong trắng không bị
cái khuôn gì đóng cứng nên thấy sao liền nói vậy rất tự nhiên. Nó đâu có
sợ nói như thế là ngu, là không tròn trách nhiệm!
Cũng vậy,
với con mắt trí tuệ, trước tiên chúng ta thấy rõ như thật về thân tâm hư
dối này để không lầm với nó, không bị cái khuôn của thế gian hằng thấy bấy
lâu nay lừa gạt. Lột trần mọi khái niệm về ta từ ngàn xưa để lại, trả lại
cái thấy trong trắng đúng như thật về ta này. Song thiền lại không dừng ở
đó, mà tiếp sau chỉ ra trong cái giả này có cái thật hằng hữu, là chỗ sống
vững vàng của mình. Cho nên tôn chỉ trong đây là : “Giả biết giả,
thật biết thật, sống cái thật không lầm cái giả, đó là cuộc sống có giá
trị tinh thần”.
Tổ Thương Na
Hòa Tu, một hôm hỏi Ưu Ba Cúc Đa:
- Ông bao
nhiêu tuổi?
Ưu Ba Cúc Đa
thưa:
- Dạ, con
mười bảy tuổi.
Tổ hỏi:
- Thân ông
mười bảy tuổi hay tánh ông mười bảy tuổi?
Cúc Đa thưa:
- Hiện tại
đầu Hòa thượng bạc, là tóc Hòa thượng bạc hay tâm Hòa thượng bạc?
Tổ bảo:
- Tóc ta bạc
không phải tâm ta bạc.
Cúc Đa thưa:
- Cũng vậy,
thân con mười bảy tuổi, không phải tánh con mười bảy tuổi.
Tổ thầm nhận
đây là bậc pháp khí.
Trong đây,
Tổ Thương Na Hòa Tu muốn gạn xem chỗ thấy của Ưu Ba Cúc Đa thế nào? Ngài
Ưu Ba Cúc Đa đã thấy thấu qua thân tướng vô thường sanh diệt này, trong đó
có thân chân thật bất diệt, không thuộc tuổi tác già trẻ, lớn nhỏ. Nghĩa
là, ngay trong vô thường có cái chân thật hằng hữu. Cho nên người tu phải
ở trong vô thường mà vươn lên, mà giác ngộ để làm chủ trở lại trong cuộc
vô thường này, chớ không thể chấp nhận buông xuôi theo đó như bao nhiêu
người. Như vậy là một sức mạnh tiến tới, sao bảo là bi quan, yếu đuối
được?
Và bài kệ
của Thiền sư Mãn Giác dạy chúng khi sắp tịch đã nói:
Xuân khứ
bách hoa lạc,
Xuân đáo
bách hoa khai.
Sự trục nhãn
tiền quá,
Lão tùng đầu
thượng lai.
Mạc vị xuân
tàn hoa lạc tận,
Đình tiền
tạc dạ nhất chi mai.
Nghĩa:
Xuân đi trăm
hoa rụng,
Xuân đến
trăm hoa cười.
Việc đời qua
trước mắt,
Trên đầu già
đến rồi.
Chớ bảo xuân
tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân
trước một cành mai.
Thông thường
theo thứ tự phải nói xuân đến rồi xuân đi, nhưng trong đây Thiền sư Mãn
Giác nói ngược lại xuân đi rồi xuân đến, là có ý nghĩa gì? Đây là điểm đặc
biệt mà ít ai để ý! Bởi vì lúc này là lúc Sư sắp tịch mà nói ra để nhắc
nhở chúng. Xuân đi thì hoa rụng, như Sư sắp tịch thì thân này hoại. Rồi
xuân đến thì trăm hoa nở, ngầm ý chỉ, cũng không hẳn hoại mất hoàn toàn,
chớ vội buồn khổ. Tuy nhiên nếu ở trên tướng nở, tướng rụng đó mà thấy Sư,
thì quyết không thể thấy được Sư; vì đó là tướng vô thường sanh diệt.
Hoa rụng,
hoa nở là chỉ cho cảnh vô thường, rụng nở theo thời gian biến đổi.
Tiếp đến hai
câu kế, là chỉ cho con người vô thường. Sự sống này, cả người và cảnh đều
là vô thường, không phải chỗ nương tựa dừng ở lâu dài! Tuy vậy, nếu thế
gian chỉ có bấy nhiêu đó thôi, thì tu hành để làm gì? Tu cho khổ nhọc rồi
cũng chết như ai, thì tu có ý nghĩa gì?
Cho nên Sư
bảo tiếp:
“Chớ bảo
xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân
trước một cành mai.”
Tại sao
không nói đóa mai vàng hay một chùm hoa mai vàng rực, mà chỉ nói một cành
mai? Cành mai thì có gì đẹp? Vì hoa, rồi nó cũng rụng nữa, nhưng cành mai
thì vẫn còn đó, gặp thời tiết đến thì vẫn nở hoa.
Cũng vậy,
thân này của Sư có tịch, có mất, nhưng trong đó có cái không mất, đủ duyên
sẽ hiện ra nơi khác. Đừng lo khóc theo cái có rụng, có nở; cái có tươi, có
tàn. Như vậy là một sức sống vươn lên, một niềm tin vững tiến để thoát
khỏi cái khung hư giả nhốt mình từ bao thuở, làm sao bảo là bi quan yếm
thế, là làm cho con người yếu đuối? Chính đây là một trí tuệ vượt
thế gian, nếu dùng tâm suy nghĩ lăng xăng trong cái khuôn ngã tưởng này,
làm sao thấu được?
III. THIỀN ĐÁNH THỨC SỨC SỐNG CHÂN THẬT NƠI MÌNH -HAY MỞ SÁNG MẮT TÂM
Hiện tại
chúng ta ai cũng như ai đang sống đây, là luôn sống với cái bị Biết mà
quên hẳn sự có mặt của chính mình. Chúng ta Biết cái này, Biết cái nọ,
Biết cái kia, Biết đủ thứ nhưng cái gì ĐANG BIẾT, ĐANG HIỆN HỮU lúc đó?
Hình như không bao giờ nhớ tới! Mà chính đó mới là NGUỒN SỐNG, không có nó
thì thân này thành khúc gỗ rồi. Chỗ lầm mê của chúng ta là đó!
Bởi vậy Lục
Tổ bảo hai ông tăng đang cãi nhau về gió động và phướn động ở chùa Pháp
Tánh rằng: “Tâm các vị động.” Cứ lo cãi nhau về phướn và gió mà quên mất
chính cái gì đang “Biết động” đây. Không có nó thì gió và phướn dù có cũng
như không, không thành vấn đề. Gió và phướn trước tượng đá có thành động
không? Cho nên cứ nhằm trên gió và phướn mà cãi thì cãi mãi không bao giờ
ra lẽ. Thấy ngược lại chỗ này là cùng gặp nhau, thấy phướn và gió anh cũng
có, tôi cũng có, bạn cũng có, còn gì phải cãi?
Hòa thượng
Huyền Sa dạy chúng:
- Những bậc
lão túc ở các nơi nói là tiếp vật lợi sanh, bỗng gặp người có ba thứ bệnh
đến làm sao tiếp? Người bệnh mù thì cầm chùy dựng phất y chẳng thấy. Người
bệnh điếc thì ngữ ngôn tam muội y chẳng nghe. Người bệnh câm thì dạy y nói
lại nói chẳng được. Phải làm sao tiếp? Nếu tiếp chẳng được người này thì
Phật pháp không còn linh nghiệm.
Có vị tăng
đem việc này hỏi Vân Môn. Vân Môn bảo:
- Ông lễ bái
đi!
Tăng lễ bái
đứng dậy. Vân Môn lấy gậy đưa tới trước, tăng liền lùi lại. Vân Môn bảo:
- Ông chẳng
phải bệnh mù.
Vân Môn gọi:
- Lại gần
đây!
Tăng đến
gần, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng
phải bệnh điếc.
Vân Môn dựng
cây gậy lên hỏi:
- Khế hội
chăng?
Tăng thưa:
- Chẳng khế
hội.
Vân Môn bảo:
- Ông chẳng
phải bệnh câm.
Vị tăng liền
tỉnh ngộ.
Bảo lễ bái,
biết lễ bái; lấy cây gậy chận ngay trước, biết lùi lại tránh; bảo đến gần,
biết đến gần; hỏi hội chăng, biết trả lời chẳng hội, thì ngay đó có thiếu
thốn chút gì còn chưa tỉnh ngộ? Không phải là chẳng bệnh mù mà thành bệnh
mù, chẳng bệnh điếc, bệnh câm mà thành bệnh điếc, bệnh câm hay sao? Quả
tang là theo cái “bị biết” mà quên mất chính mình đang hiện hữu! Tỉnh lại,
liền đó mở mắt tâm thấy suốt cái lầm xưa nay. Mê ngộ chỉ trong chớp mắt,
sao còn chưa tỉnh?
Trần Tôn Túc
hỏi vị tăng mới đến:
- Ông ở đâu
đến?
Tăng
thưa:
- Ở Ngưỡng
Sơn đến.
Sư bảo:
- Ông nói
láo.
Ông tăng nói
láo ở chỗ nào? Quả thật ông từ Ngưỡng Sơn đến và trả lời thật thà, sao bảo
nói láo? Đây là thuật khai thị khéo léo của Thiền sư. Ông đang đứng đối
diện hỏi đáp đây, lại nhớ về quá khứ hôm nào ở Ngưỡng Sơn, không phải nói
láo hay sao? Nếu ông tăng ngay đó liền mở sáng mắt tâm, vượt ngoài cái
khuôn ba thời: Ánh sáng thực tại nhiệm mầu chính là đây!
Và công án
nổi tiếng trà Triệu Châu. Sư hỏi vị tăng mới đến:
- Từng đến
đây chăng?
Tăng thưa:
- Đã từng
đến.
Sư bảo:
- Uống trà
đi!
Sư hỏi vị
tăng khác:
- Từng đến
đây chăng?
Tăng thưa:
- Chưa từng
đến.
Sư cũng bảo:
- Uống trà
đi!
Sau, Viện
chủ hỏi Sư:
- Vì sao
từng đến dạy uống trà đi, chưa từng đến cũng dạy uống trà đi?
Sư gọi:
- Viện chủ!
Viện chủ
đáp:
- Dạ!
Sư liền bảo:
- Uống trà
đi!
Tại sao từng
đến cũng bảo uống trà, chưa từng đến cũng bảo uống trà? Đây là Ngài Triệu
Châu đánh thức ánh sáng thực tại đang hiện hữu nơi người đó! Chính ông
đang đứng đối diện với ta rõ ràng đây, mà bảo chưa từng đến thì còn phải
nói gì nữa? Thôi thì hãy uống trà đi là xong.
Còn ông kia,
đã từng đến rồi, thì còn muốn hỏi thêm gì nữa? Muốn hỏi thêm là đánh mất
cái đang hiện hữu đây rồi, nên cũng uống trà đi! Khỏi nói nhiều.
Đến ông Viện
chủ tự mình có thiếu gì đâu, lại xen vào chuyện đến, chưa đến của người
làm gì mà bỏ mất chính mình ngay lúc đó đi! Vì vậy cũng: uống trà đi, là
xong. Quả là Thiền sư đánh thức sức sống hiện hữu nơi mình một cách khéo
léo, chỉ mình chưa chịu tỉnh lại! Nếu ai còn hỏi lại thì cứ: uống trà đi,
là xong tất cả.
IV. VƯỢT QUA MỌI KHÁI NIỆM
Chính đây là
chỗ sống của thiền không ai có thể bắt chước được. Dù người lanh lợi, nghe
hiểu nhanh chóng, nhưng đó cũng là hiểu về thiền, chưa phải chính bản thân
thiền. Nếu chỉ hài lòng trên cái hiểu đó, thì cũng đứng ngoài cửa dòm chơi
vậy thôi. Bởi vì, mọi ngôn ngữ, chữ nghĩa đều là cái khuôn chết, thiền giả
không thể chấp nhận chết trên đó. Hòa thượng Triệu Châu từng bảo: “Một chữ
PHẬT tôi cũng chẳng thích nghe”. Tại sao Sư dám nói như thế? Với tín
ngưỡng tôn giáo, tên một đấng giáo chủ của mình mà hàng đệ tử nói như trên
là quá phạm thượng. Song với Thiền sư thì trọng lẽ thực hơn. Bởi Sư muốn
đưa người thẳng vào sức sống thật, phải thực thấy: cái gì là Phật? Phật
đâu phải ở cái chữ đó! Trong khi ấy, chúng ta cứ bám vào CHỮ đó rồi cãi vả
nhau, đấu tranh nhau thì mất nghĩa Phật rồi!
Vượt qua
khái niệm chữ nghĩa, cảm nghiệm ngay trong tâm mình, đó là Phật sống. Cho
nên, nói Phật, nói Thánh không quan trọng, quan trọng là có cảm nghiệm
được sức sống chân thật kia hay không!
Cũng như
hiện nay chúng ta lo bàn cãi nhau về thực tại có hay không có? Hoặc suy
luận thực tại thế này, thế nọ, là có đối diện thực tại chăng? Rõ ràng đó
chỉ là sống trong khái niệm với nhau thôi. Như có người hỏi về người anh
của mình. Mình diễn tả anh ấy giống tôi thế này, thế nọ thì lúc đó có mặt
người anh ấy chăng? Nếu lúc đó có mặt người anh ấy, chúng ta chỉ cần trỏ
ngay anh bảo: - Đây! Là xong.
Cho nên,
chúng ta còn lo cãi lý với nhau về thực tại, là chưa giáp mặt thực tại.
Cũng vậy, còn lo cãi nhau về chân lý, là chưa giáp mặt chân lý. Hãy xem
Lâm Tế khi đại ngộ, Ngài Đại Ngu bảo: “Ông thấy gì nói mau!”, Sư liền thoi
vào hông Đại Ngu ba thoi trả lời, không nói thêm lời nào. Ngộ cái gì thì
liền đó biết ngay, khỏi diễn tả dài dòng khiến thêm khái niệm.
V. CẦN THỂ NGHIỆM
Cuối cùng,
với thiền là phải tự thể nghiệm nơi chính mình thì mới cảm nhận được thiền
chân thật, không thể suy luận mà có thể nhận hiểu. Do đó, với thiền phải
là một HÀNH GIẢ, chớ không thể là HỌC GIẢ.
Có câu
chuyện: một học giả tông Thiên Thai là Pháp sư Đạo Văn hơn 50 tuổi, từng
nghiên cứu giáo nghĩa hơn ba mươi năm. Nghe tiếng Thiền sư Chân Quán
trước kia cũng từng nghiên cứu giáo nghĩa này, sau đó tham thiền được sáng
đạo, nên Pháp sư Đạo Văn đến thành khẩn thưa với Thiền sư Chân Quán:
- Con đã học
qua tư tưởng Pháp Hoa của tông Thiên Thai từ nhỏ, chỉ có một vấn đề trước
sau chẳng hiểu rõ.
Thiền sư
Chân Quán hỏi:
- Tư tưởng
Pháp Hoa của tông Thiên Thai rất rộng lớn sâu xa, viên dung vô ngại nên
bao gồm rất nhiều vấn đề, thế mà ông chỉ có một vấn đề chẳng hiểu, chẳng
biết là vấn đề gì?
Đạo Văn
thưa:
- Kinh Pháp
Hoa nói: “Tình với vô tình đồng tròn chủng trí”, ý này chính là nhận cỏ
cây, hoa lá đều hay thành Phật, xin hỏi: Cỏ hoa thật có khả năng thành
Phật chăng?
Chân Quán
liền bảo:
- Ba mươi
năm nay ông mang một niệm cây cối, cỏ hoa có khả năng thành Phật hay
không, đối với ông có lợi ích gì? Ông nên quan tâm đến “tự chính mình thế
nào thành Phật”, cần xét nghĩ như thế mới đúng!
Đạo Văn nghe
nói, ngạc nhiên hỏi:
- Con thật
không có nghĩ đến như thế, vậy xin hỏi: tự chính mình của con thế nào
thành Phật?
Chân Quán
bảo:
- Ông đã nói
là “chỉ có một vấn đề hỏi ta”, liên quan đến vấn đề thứ hai thì chính ông
tự mình đã giải quyết xong rồi.
Xem đấy!
Người cứ lo thắc mắc cỏ cây thành Phật, lo tìm hiểu đâu đâu, trong khi đó,
việc cấp thiếât là: “chính mình thế nào thành Phật?” mới là quan trọng,
lại bỏ qua! Song muốn rõ việc này phải làm sao? Hẳn là phải tự mình giải
quyết thôi, không thể nhờ ai giải quyết dùm cho được!
Có vị tín đồ
hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Tham thiền
thế nào mới hay ngộ đạo?
Sư liền đứng
dậy khỏi tòa nói:
- Ta cần đi
tiểu một chút.
Sư đi mấy
bước, quay đầu lại bảo:
- Ông hãy
xem đó! Việc nhỏ như đi tiểu thế ấy, ta cũng phải tự đi, người khác không
thể thay thế.
Đây là ngầm
chỉ, Thiền vốn phải tự chứng nghiệm chân thật bằng sức sống ngay chính
mình, không thể nói suông ở trên ngôn ngữ mà có được. Không ai có thể đem
đến giác ngộ cho mình nếu mình không tự giác. Nếu từ người khác mà được,
thì đó là cái của người, không phải phần của chính mình. Đã là của người
thì có lúc phải trả lại cho người, đâu thể là chỗ sống lâu dài. Do đó phải
tự mình cảm nghiệm mới có đầy đủ sức sống nhiệm mầu không thể nghĩ bàn.
Phật pháp sống mãi ở thế gian cũng chính từ đây. Nghĩa là, còn có người
thể nghiệm Phật pháp, là ánh sáng Phật pháp vẫn còn có mặt trên thế gian
này.
VI. TÓM KẾT
Thiền là một
sức sống chân thật ngay tự tâm của mỗi người, không có ở đâu khác. Vì vậy,
ai có tâm đều có Thiền, không phân biệt nam nữ, màu da, tôn giáo v.v… Đây
là một chân lý bình đẳng thật sự, không do ai đặt ra.
Chính vì
Thiền ở ngay nơi tâm, nên muốn đạt Thiền là phải tự thể nghiệm lấy, không
thể tìm trong sách vở, lý luận. Có cảm nghiệm lẽ thật này, mới vượt qua
ranh giới ngôn ngữ lý luận, có một cái nhìn cởi mở, cảm thông với tất cả.
Vì ai ai cũng có Thiền. Mở mắt này thì tâm linh sáng ngời, hết còn đóng
khung trong khái niệm chết. Từ đó nhìn ra, thấy đâu đâu cũng có ánh sáng
thiền. Trong kinh hay ngoài cảnh, hoặc trong cuộc sống hằng ngày cũng đều
không thiếu ánh sáng ấy. Cả đến một việc tầm thường cũng được chiếu sáng
ngời trong đó. Như bài ca dao Thằng Bờm chúng ta thường biết:
Thằng bờm có
cái quạt mo,
Phú ông xin
đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng Bờm
chẳng lấy trâu,
Phú ông xin
đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng Bờm
chẳng lấy mè,
Phú ông xin
đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng Bờm
chẳng lấy lim,
Phú ông xin
đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng Bờm
chẳng lấy mồi,
Phú ông xin
đổi nắm xôi, Bờm cười!
Nếu nhìn với
cái khuôn khái niệm xưa nay thì đó là bài ca dao trong văn học thôi. Nhưng
nếu nhìn với con mắt thiền, thì trong đó có ánh sáng thiền thực tại sáng
ngời.
Hãy xem
thằng Bờm ngay đây đang đói bụng, có nắm xôi ăn là xong, rất là Thiền! Nếu
nó ngồi đó mà đợi ba bò, chín trâu v.v…, thì chẳng những không được gì mà
còn mất luôn cái quạt mo. Bởi Phú ông đâu dại khờ gì đổi cái quạt mo với
ba bò, chín trâu? Đó là ông gạt thôi. Cũng vậy, chúng ta ngồi đây mà mơ
tưởng xa vời, lý luận đâu đâu, là đánh mất ánh sáng thực tại hiện hữu. Chỉ
là, buông mọi khái niệm chết trong đầu, sống ngay thực tại nhiệm mầu đây,
khỏi thêm bớt gì nữa! Thiền là như thế, vượt ngoài mọi cái khuôn
sẵn có, thênh thang không ngằn mé. Con đường khai phóng tâm linh là đây! |