MÙA XUÂN MIÊN VIỄN
I. THẾ GIAN KẸT TRONG THỜI GIAN VÔ THƯỜNG
Nói mùa xuân
miên viễn là muốn gợi lại một cái gì mà người người đang bỏ quên. Bởi
người thế gian luôn sống trong tâm vô thường, nên thấy nhìn cái gì cũng
theo chiều vô thường và buồn vui theo ngoại cảnh. Chúng ta thường tán tụng
xuân về hoa nở, chim ca hót, ca ngợi tuổi xuân đẹp như thơ v.v…, nhưng rồi
một lúc xuân cũng đi qua và nhớ lại liền tiếc nuối! Năm mới thì chúc tụng,
mừng tuổi, ngờ đâu lên một tuổi là mất một năm, là bớt đi một tuổi thọ,
nghĩa là rút ngắn bớt thời gian mình có mặt trên đời.
Thiền sư
Thiên Tùng có hai câu thơ nói về xuân:
Kim triêu
tận đạo thiêm nhất tuế,
Ngô đạo như
kim giảm nhất niên.
Nghĩa:
Sáng nay
người bảo thêm một tuổi,
Tôi nói
ngày này bớt một năm.
Lẽ thật là
như thế. Bởi con người chúng ta luôn sống trong tưởng tượng quá nhiều hơn
sự thật. Bảo xuân về, nhưng xuân ở đâu mà về? Rồi đi đâu? Chỉ là thời tiết
đến thì hoa nở, nở xong thì tàn, một dòng trôi chảy liên tục vậy thôi.
Chúng ta lại chặn ngang một đoạn, gán cho nó cái tên “mùa xuân” để tạm vui
với nhau. Song mùa xuân có đến, có đi, đó là mùa xuân của sự vô thường
sinh diệt, nó gạt con mắt phàm vui buồn trong đó; với người hiểu đạo thì
đâu thể lầm mê!
Với người
hiểu đạo, phải thấy cái gì cao siêu hơn, không thể giam mình trong cái tầm
thường hư ảo này!
Thượng Sĩ
Tuệ Trung có bài kệ nói về: KHUYÊN ĐỜI VÀO ĐẠO:
Tứ tự tuần
hoàn xuân phục thu,
Xâm xâm dĩ
lão thiếu niên đầu.
Vinh hoa
khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt
không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân
hồi như chuyển cốc,
Ái hà xuất
một đẳng phù âu.
Phùng trường
diệc bất mô lai tỷ,
Vô hạn lương
duyên chỉ ma hưu.
Nghĩa:
Thời tiết
xoay vần xuân tới thu,
Tuổi già vùn
vụt phủ lên đầu.
Giàu sang
nhìn lại một cơn mộng,
Năm tháng ôm
suông muôn hộc sầu.
Nẽo khổ luân
hồi vành xe chuyển,
Sông yêu
chìm nổi tợ bọt xao.
Gặp dịp
chẳng liền sờ lên mũi,
Thôi thế
duyên lành bao thuở nào!
Đây là
Thượng Sĩ ân cần nhắc nhở mọi người, chớ đắm mê theo cuộc vô thường của
thế gian này, say đắm ở trong đó mà tạo tác lăng xăng, rốt cuộc chỉ ôm
khổ, ôm sầu, tay không cũng hoàn tay không. Theo đó, tức là theo hòn bọt
nổi mà lên xuống, chìm nổi trong vòng luân hồi, quên mất biển cả thênh
thang. Ngay đây đã gặp dịp đánh thức cho mình, phải tỉnh lại, sờ lên mũi
xem! Một lẽ thật muôn thuở ngàn đời vẫn hằng sẵn đó mà không chịu nhận,
lại nhớ đâu đâu, đuổi theo bắt bóng tìm bọt, cuối cùng trả về cho KHÔNG!
Đành bỏ qua duyên lành hy hữu này sao?
Mã Tổ một
hôm cùng Hoài Hải đi dạo, thấy bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ liền chỉ đó
hỏi:
- Đó là cái
gì?
Hoài Hải
thưa:
- Bầy vịt
trời.
Mã Tổ hỏi:
- Bay đi
dâu?
Hoài Hải
thưa:
- Bay qua.
Mã Tổ bèn
nắm mũi Hoài Hải vặn mạnh, đau quá Sư la lên. Mã Tổ bảo:
- Lại nói
bay qua đi!
Ngay câu đó,
Hoài Hải tỉnh ngộ.
Hoài Hải ban
đầu theo thường tình cứ lo nhớ bầy vịt trời, quên mất chính mình đang hiện
hữu. Mã Tổ thấy thấu được điểm ấy nên nhéo mũi đánh thức Sư trở lại. Hoài
Hải đau điếng la lên, mới hay lẽ thật từ xưa vẫn sờ sờ đó thôi, chưa từng
thiếu vắng bao giờ! Có bay đi đâu? Chớ quên mình theo vật đành chịu lang
thang rất đáng thương!
II. XUÂN TRONG TỰ TÁNH
Quả thật, ai
ai cũng đều có một quê hương sáng ngời với mùa xuân muôn thuở, chưa từng
có đến đi, nở tàn, thay đổi theo thời gian mà đành bỏ quên một cách đáng
thương! Thiền sư thấy được lẽ thật ấy nên dùng mọi phương tiện đánh thức
chúng ta sống lại chỗ này, chính đó là nguồn sống vĩnh viễn không cùng
tận.
Thiền sư
Tiên Đỗ hiệu Vô Kiến có bài thơ Ở NÚI:
Trang Sanh
hữu ý năng tề vật,
Ngã dã vô
tâm dữ vật tề.
Độc tọa bồ
đoàn xuân nguyệt noãn,
Nhất thanh u
điểu cách song đề.
Nghĩa:
Trang Chu
có ý hay tề vật,
Ta chỉ vô
tâm cùng vật tề.
Độc tọa
bồ đoàn ngày xuân ấm,
Một tiếng
chim kêu xa vọng về.
Nghĩa là,
Trang Chu đem tâm muốn an bài vật, khiến cảnh vật theo ý mình; đâu biết
rằng, càng khởi tâm thì cảnh càng động, càng loạn, càng sai biệt thôi. Vừa
khởi tâm tề vật, là vật đã sai biệt rồi! Chỉ tự vô tâm thì cảnh tự an bài,
vật tự tề, núi tự là núi, sông tự là sông.
Ngày xuân
ấm, ngồi một mình trên bồ đoàn, chợt một tiếng chim kêu cách cửa sổ, từ xa
vọng về! Xa vọng về đâu? Tức vọng về “Con Người Mãi Xuân” đang ngồi đó!
Ô kìa! Bên
song cửa sáu căn thấy nghe hiểu biết, “Người ấy” đang ngồi đây! Người này
không có trẻ già, đâu lo còn mất? Có Ai đã nghe tiếng chim xa vọng về đó
chăng? Tuy nhiên, trong đây vừa có “Ý” liền sai.
Đến Thiền sư
Nhân Dũng ở Bảo Ninh thì nhân ngày tết, Sư dạy chúng:
Tạc nhật khứ
niên khứ,
Kim nhật kim
niên lai.
Khứ niên khứ
bất khứ,
Kim niên lai
bất lai.
Biến dã
doanh xích tuyết,
Đại địa vong
tiêm ai.
Vô danh vô
tự nhân,
Cử mục liêu
bồi hồi!
Nghĩa:
Hôm qua
năm cũ đi,
Ngày nay
năm mới đến.
Năm cũ đi
chẳng đi,
Năm mới
đến chẳng đến.
Khắp đồng
trắng đầy tuyết,
Cõi đất
bặt mảy trần.
Người
không tên không chữ,
Đưa mắt
nhìn bồi hồi.
Năm nào là
năm cũ? Năm nào là năm mới? Chỉ cách có một đêm, sáng ra liền chia thành
năm cũ, năm mới. Quả là sống trong ảo tưởng quá nhiều! Rồi tại sao năm cũ
đi chẳng đi? Năm mới đến chẳng đến? Vì đến đi đó là cái thấy ảo tưởng theo
thời gian vô thường, nhưng sự thật ngay trước mắt đây, vốn hiện bày một
màu sáng ngời, không một hạt bụi che. Trong đó, có “người không tên, không
chữ” đang đưa mắt nhìn bồi hồi kia kìa! Năm cũ, năm mới làm sao đến được
chỗ này! Ai thấy chăng? Song, vì sao mà người ấy nhìn bồi hồi? Bởi vì, vẫn
ngồi đó mà không ai ngó tới! Người người cứ lo đuổi theo hoa nở, hoa rụng
để tự vui buồn theo đó, còn người chủ của mùa xuân bất diệt vẫn ngồi đây
mà không ai hay. Thật quá phũ phàng! Vậy có ai biết người đó ở đâu chăng?
Đây, Thiền
sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ chỉ thêm cho thấy, Sư thượng đường bảo:
- Hôm qua
lão tăng vào trong thành thấy một giàn xiếc với người gỗ máy, bèn đến gần
trước xem, hoặc thấy đẹp đẽ lạ kỳ, hoặc thấy rất xấu xí, chuyển động khi
đi khi ngồi, xanh vàng đỏ trắng. Thấy rõ mọi thứ xong, đến khi xem kỹ lại
thì vốn là tấm màn vải xanh bọc lại, bên trong có người. Sơn tăng nhịn
không nổi, liền bước tới hỏi: - Ông tên họ gì? Y bảo: Ông Hoà thượng này,
thấy là xong, còn hỏi tên họ làm gì?
Đại chúng!
Sơn tăng bị y hỏi một câu đành câm miệng không lời có thể đáp,
không lý có thể bày. Có ai vì Sơn tăng nói được chăng?
Người nào ở
trong tấm vải bọc lại? Tại sao hỏi tên họ thì bị quở? Ai thấy được người
ấy chưa? Hãy chú ý nghe kỹ: “Thấy là xong, còn hỏi tên họ làm gì?” Ngay
trong thân hiện tại đây, nhận thấy là xong, khỏi hỏi tên họ, tuổi tác!
Hòa thượng
Thạch Đầu từng bảo Duy Nghiễm:
Từ lâu chung
ở chẳng biết tên,
Đi đứng theo
nhau cứ mặc tình.
Chư
thánh từ xưa còn chẳng biết
Kẻ phàm thô
vội đâu thể rành!
Âm:
Tùng lai
cộng trụ bất tri danh
Nhậm vận
tương tương chỉ ma hành
Tự cổ thượng
hiền du bất thức,
Tạo thứ phàm
lưu khởi khả minh.
Cái gì tùy
thời luôn luôn theo sát bên mình trong mọi cử chỉ, hành động chưa từng tạm
rời? Tại sao từ lâu xa vẫn ở chung với nó mà không biết tên nó? Có phải đó
là người không tên không chữ đang nhìn bồi hồi chăng? Nó vốn không tên,
nếu biết tên nó, lại thành kẻ thứ hai rồi! Chỗ này chư thánh còn chẳng
biết kia mà! Đơn giản, vì đây không phải là cái bị biết. Do đó nếu
đứng bên ngoài mà suy luận thì không bao giờ cảm thông được.
Cần phải một
phen thẳng vào sống trong ấy. Song, muốn sống chỗ này, phải dám quên cái
vô thường kia, và bừng dậy ngay trong vô thường vẫn hằng thường, không
sanh niệm thứ hai chen vào thì hiện tiền sáng ngời không nghi.
Thiền sư
Chân Tịnh có bài kệ:
Lão dã tu
tri bất lão thân,
Đồng hành
đồng tọa hữu tinhthần
Tuy nhiên vô
tướng vô dung mạo
Năng vị quần
sanh tác chủ ông.
Nghĩa:
Già đó
nên biết thân chẳng già.
Đi đứng
nằm ngồi vẫn theo ta
Tuy nhiên
không tướng, không hình mạo
Làm chủ
muôn loài vốn từ xưa.
Thiền sư
Chân Tịnh cũng nhắc nhở chúng ta, trong cái thân trẻ già này, có cái chẳng
già, nó vẫn hiện hữu trong mọi cử động tới lui, qua lại hằng ngày đây. Tuy
nó không có hình dáng gì để thấy như cái thân già trẻ, nhưng chính đó là
gốc của muôn vật, không cái gì trên thế gian này thoát ra khỏi nó. Nhưng
lạ thay! Người người lại bỏ quên nó không ngó ngàng tới! Ồ! Người ấy đang
bồi hồi nhìn chúng ta kìa!
Tổ Lâm Tế
bảo: “Ngay cục thịt đỏ au đó, có con người chân thật không ngôi
thứ, thường ra vào nơi cửa mặt chúng ta đây.” Tức ngay hiện tại, thấy nghe
tất cả mà vẫn nguyên vẹn là thấy nghe, không xen lẫn cái gì, ai không có?
Sống trở lại với con người này thì làm chủ trong cuộc vô thường, còn gì
vui sướng hơn? Mùa xuân miên viễn không năm tháng là đó chứ gì?
Động Sơn sắp
tịch, có vị tăng hỏi:
- Hòa thượng
bệnh, có cái chẳng bệnh chăng?
Sư đáp:
- Có.
Tăng hỏi:
- Cái chẳng
bệnh có thấy Hòa thượng chăng?
Sư đáp:
- Lão tăng
xem y có phần.
Tăng hỏi:
- Chưa biết
Hòa thượng làm sao xem y?
Sư đáp:
- Khi lão
tăng xem, chẳng thấy có bệnh.
Khi bệnh,
nhìn kỹ xem cái bệnh diễn ra như thế nào? Thấy được cái bệnh, cái đó đâu
thuộc bệnh? Đâu bị vô thường chi phối? Nên nói: “Xem y có phần”. Bốn đại
năm ấm đâu ngăn che được nó. Hiện tại có ai bị ngăn không có thấy nghe
chăng? Tuy nhiên tối kị sanh tâm động niệm. Vừa động niệm liền rơi trong
bệnh, chớ bảo là không dính dáng.
Đến Thiền sư
Vạn Hạnh thì sự thịnh suy vô thường hiện trong con mắt Sư như sau:
Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân
vinh thu hựu khô
Nhậm vận
thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy
như lộ thảo đầu phô.
Nghĩa:
Thân như
điện chớp có rồi không
Cây cỏ xuân
tươi thu héo tàn
Mặc cuộc
thịnh suy không sợ hãi,
Thịnh suy
ngọn cỏ hạt sương đông.
Với Thiền sư
lòng vẫn bình thản trước sự thịnh suy của cuộc đời. Nhưng tại sao Thiền sư
không sợ hãi trước cuộc thịnh suy? Vì Sư thấy rõ thân không thật, cảnh sẽ
nương vào đâu để lập? Thịnh với ai? Suy với ai? Sư thấy rõ thịnh suy tợ
hạt sương buổi sớm đọng trên đầu ngọn cỏ, không có gì quan trọng so với
con người bất tử kia. Nếu gặp thịnh liền vui, gặp suy liền buồn, đó là vui
buồn theo duyên, không có chủ, cần nên nhớ!
III. NIỀM VUI CHÂN THẬT
Như vậy nói
mùa xuân miên viễn là ngầm chỉ cái gì? Tức ngầm chỉ một niềm vui chân
thật, vui mãi không mất, không thuộc sanh diệt. Đó là niềm vui không có
thời gian. Nói thẳng là, niềm vui sống được trong tự tánh, niềm vui làm
chủ trở lại chính mình.
Hòa thượng
Thủy Lạo từng bảo trong chúng: “Ta từ khi bị cái đạp của Mã Tổ đến
nay cười mãi không thôi.” Đó là niềm vui sống được trong cái chân thật.
Nếu ngay khi bị đạp đó mà chợt nhớ đến cái ta này, hẳn không thể có đứng
dậy vỗ tay cười to (Sư hỏi Mã Tổ: - Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang? Mã
Tổ liền nhắm ngay ngực tống cho một đạp té nhào. Sư liền đại ngộ, đứng dậy
cười to ha hả). Chính lúc đó, Sư quên mất cái Ta này, cũng không
nhớ cái đạp luôn, mới chợt nhận ra niềm vui bất diệt ấy ở ngay nơi mình từ
lâu.
Thiền sư
Hoài Nhượng ở Nam Nhạc sai vị tăng đến thăm dò Mã Tổ và dặn:
- Đợi y
thượng đường, chỉ hỏi: “Làm cái gì?”, y trả lời thế nào ông hãy ghi nhớ về
thuật lại cho ta nghe!
Vị tăng liền
đến chỗ Mã Tổ làm đúng theo lời Sư chỉ dạy. Mã Tổ liền bảo:
- Từ loạn Hồ
về sau ba mươi năm chưa từng thiếu tương muối.
Đây là Mã Tổ
nói lên niềm vui trở về nhà, hết còn lang thang tìm kiếm xin ăn bửa đói
bửa no. Chính đó là chỗ an ổn đời đời, không ai có thể xâm phạm được. Các
ngài là người, các ngài có; chúng ta cũng là người thì chúng ta cũng có
đâu thiếu! Vậy sao chúng ta không chịu sống trong ấy, mà đành chịu giam
mình trong cuộc luân hồi sanh tử khổ đau?
Hòa thượng
Vân Cái có bài kệ nói lên chỗ sống chân thật ấy:
Nhất niên
xuân tận nhất niên xuân,
Dã thảo sơn
hoa kỷ độ tân.
Thiên hiểu
bất nhân chung cổ động,
Nguyệt minh
phi vị dạ hành nhân.
Nghĩa:
Một năm xuân
trọn một năm xuân,
Hoa nội cỏ
đồng tươi mấy lần.
Trời sáng
chẳng do chuông trống động,
Trăng trong
đâu bởi khách đi đêm.
Đến đây, với
Thiền sư Vân Cái thì thấy lúc nào cũng là xuân, khắp nơi đâu đâu cũng là
xuân, không còn phân biệt mới cũ. Đó là mùa xuân từ trong tự tánh mà thấy,
không do tạo tác từ bên ngoài, không do cái gì làm nên. TÂM XUÂN thì thấy
cái gì cũng xuân. Ai bảo người tu là bi quan yếm thế?
IV. LÀM SAO THẤY ĐƯỢC NIỀM VUI NÀY?
Đã biết có
niềm vui bất diệt ấy, nhưng làm sao nhận thấy, chẳng lẽ chỉ nói suông sao?
Đây, Thiền
sư Thử Am chỉ cho chúng ta thấy qua bài kệ:
Lưu thủy hạ
sơn phi hữu ý,
Phiến vân
qui động bổn vô tâm.
Nhân sanh
nhược đắc như vân thủy,
Thiết thọ
khai hoa biến giới xuân.
Nghĩa:
Nước tuôn
xuống núi nào có ý,
Mây bay về
động vốn vô tâm.
Người đời
nếu được như mây nước,
Cây sắt trổ
hoa khắp cõi xuân.
Nếu tâm
chúng ta được như mây nước, đi qua tất cả mà không lưu lại dấu vết
gì, không bám dính cái gì, thì: “cây sắt trổ hoa khắp cõi xuân”, khỏi tìm
đâu khác. Nói theo kinh Kim Cang là: “Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia”,
đi qua tất cả sáu trần mà không dừng trụ ở bất cứ trần nào, không đứng lại
ở bất cứ chỗ nào, thì tâm thênh thang có gì phiền não? Chính đó là sống
trở lại “tâm thể tinh khôi”, lúc nào cũng mới mẻ sáng ngời, chỗ nào cũng
có niềm vui bất diệt đó.
Cho nên
Thiền sư Thiền Lão đáp vua Lý Thái Tông hỏi:
- Hằng ngày
Hòa thượng làm gì?
Sư đáp:
- Trúc biếc
hoa vàng đâu cảnh khác,
Trăng trong
mây bạc hiện toàn chân.
Bạch vân
minh nguyệt lộ toàn chân)
Chỗ sống
hằng ngày của Thiền sư là như thế. Tâm đã thanh tịnh sáng suốt thì thấy
cái gì cũng thanh tịnh sáng suốt, cũng lộ bày chân thật đó, chỗ nào mà
chẳng xuân? Song vừa có “ý” xen vào liền hết xuân! Liền đó Lưu Thần,
Nguyễn Triệu phải trở về nhân gian thôi!
Tương truyền
ngày xưa có hai chàng học trò tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu nhân ngày tết
Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5) đi hái thuốc, bị lạc đường đến động Thiên thai
gặp Tiên nữ và kết duyên cùng Tiên nữ. Nhưng một hôm, đang ở trên cảnh
tiên vui sướng bỗng chợt nhớ nhà quá, rồi một mực đòi về. Tiên nữ biết hai
chàng lòng trần chưa dứt không thể ép được, nên đưa cả hai về trần thế.
Song, khi hai chàng về đến nơi thì hỡi ôi, cảnh vật đều biến đổi khác lạ,
quê xưa không còn nữa, người thân đều chết cả, không người quen biết! Hai
chàng buồn bã lại nhớ đến cảnh tiên, tìm đường muốn lên đó để gặp tiên,
nhưng than ôi, cảnh tiên đâu không thấy, cuối cùng lạc lối, đành chịu chết
bỏ xác ở rừng sâu!
Cho thấy, dù
người đang ngồi trong cảnh tiên, vẫn không sống được trong ấy, là vì sao?
Lỗi tại ai? Cảnh đâu có bỏ người hay lựa người. Chỉ tại người tự sanh tâm
cách biệt!
Trong khi đó
thì:
Hoa lưu động
khẩu ưng trường tại.
Nghĩa là:
Mãi nơi cửa
động hoa còn đó.
Hoa vẫn còn
mãi đó! Vẫn nở luôn nơi cửa động nhưng người còn động niệm nhớ trần gian
nên không thấy. Chỉ cần ngay đây, ai đó tự mở mắt ra xem, thì, ô kìa! Hoa
nở ngay trong mắt mình! Vui sướng xiết bao! Bỏ qua, rồi đi tìm là đành
chịu chết! Có thật đau đớn chăng?
V. TÓM KẾT
Người nhận
được niềm vui chân thật này là con đường trở lại quê xưa. Sống được niềm
vui này là làm chủ trở lại trong cuộc vô thường sanh tử, từ đó có hiệu
dụng thắng phiền não, đau buồn, vì đã có mùa xuân miên viễn nơi cố hương.
Cũng từ đây, người tỉnh ngộ hết chạy đuổi tìm theo cái hư dối mà ngồi
thẳng ngay tại quê nhà thưởng xuân, còn gì vui sướng hơn? Tuy nhiên, muốn
được như thế, phải quên cái TA sanh diệt này, phải dám BUÔNG!
Kinh Niết
Bàn có nhắc chuyện Tiên nhân vì nửa bài kệ mà hy sinh thân mạng. Tức Phật
khi còn tu Bồ tát hạnh, làm vị Tiên nhân ở trong núi sâu, trọn ngày hành
đạo, muốn tìm cầu kinh điển đại thừa mà không nghe biết ở đâu có. Nhân vị
Tiên ấy đang ngồi thiền tư duy, cảm đến trời Đế Thích hiện xuống hóa làm
một quỷ La Sát đến bên động dùng tiếng trong trẻo đọc nửa bài kệ:
Chư
hành vô thường,
Thị sanh
diệt pháp
Nghĩa:
Các hành vô
thường,
Là pháp sanh
diệt.
Vị Tiên nghe
được, liền xuống khỏi chỗ ngồi, đi ra ngoài nhìn khắp nơi tìm xem ai đọc
nửa bài kệ đó, thì thấy một hình tướng ghê sợ, đầu tóc rối bù, mặt xanh
như chàm, răng nanh lòi ra, thân to, bụng đói teo nhỏ. Vị Tiên bèn hỏi:
- Phải ông
vừa đọc hai câu kệ vừa rồi chăng?
La Sát đáp:
- Chính tôi
đọc.
Vị Tiên nói:
- Xin ông
đọc tiếp luôn hai câu cuối, tôi sẽ đền ơn cho.
La Sát nói:
- Bụng tôi
đang đói mấy ngày, không còn sức để đọc tiếp.
Vị Tiên hỏi:
- Thức ăn
của ông là gì?
La Sát nói:
- Thịt tươi
của người và uống máu nóng, nếu ông có thể xả thân cho tôi ăn, tôi sẽ nói
cho.
Vị Tiên
nghĩ: - “Nếu xả thân cho vị này ăn thì lấy gì để nghe pháp?” Bèn nghĩ ra
kế, xin La Sát hãy viết bài kệ lên đá, Ngài ở trên cây cao nhìn xuống đồng
thời gieo thân mình cho ăn.
Như thế, La
Sát viết hai câu tiếp:
Sanh diệt
diệt dĩ,
Tịch diệt vi
lạc.
Nghĩa:
Sanh diệt
diệt rồi,
Tịch diệt là
vui.
Vị Tiên đang
nhảy xuống, La Sát đỡ lấy thân của vị Tiên, hiện lại nguyên hình trời Đế
Thích, tán thán:
- Lành thay!
Ngài sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xin chớ quên độ tôi!
Trong đây,
tại sao chỉ có hai câu kệ mà bắt phải hy sinh thân mạng? Hy sinh thân mạng
rồi, lấy gì để nghe? Đó là một thâm ý! Thân này vốn thuộc các hành vô
thường, là pháp hữu vi sanh diệt chứ gì! Muốn nghe nhận được đến “Sanh
diệt diệt rồi, tịch diệt là vui” thì phải dám BUÔNG cái TA sanh diệt này,
mới nghe được “Tịch diệt là vui” kia! Còn quá bám víu, quá luyến tiếc cái
Ta không dám buông, thì đừng mong nghe được lời vi diệu kia. Vì vậy Tiên
nhân buông xả thân mạng này, liền được thấy “Tịch diệt là vui”! Chỗ này dù
lý luận hay thế mấy cũng không tới được, chỉ phải một phen chứng nghiệm
thôi.
Để tóm tắt ý
nghĩa trên, xin dẫn bài kệ của Thiền sư Tư ở Nột Đường:
Xuân tuyết
mãn không lai,
Xúc xứ thị
hoa khai.
Bất tri viên
lý thụ,
Na cá thị
chân mai?
Nghĩa:
Tuyết xuân
đầy trời đến,
Trúng đâu
hoa nở đó.
Chẳng rõ cây
trong vườn,
Gốc nào là
mai thật?
Tức là hơi
xuân đã sẵn khắp mọi nơi, mọi chỗ, đụng đến là hoa nở ngay đó thôi. Nhưng
không biết trong đây có cây nào là mai thật chăng? Đã có, tại sao còn chưa
nở? Có đáng thương, đáng buồn chăng?
Hy vọng mỗi
cây thật trong đây đều trúng được “hơi xuân bất diệt” này!
Ồ! Hoa nở
rồi đây! |