CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUAN PHẬT PHÁP
Hệ thống quan,
chúng ta đối với Phật pháp nên suy cùng cái nguyên ủy của nó, rõ được chí
thú của nó, biện biệt được thể dụng của nó, mới quan niệm được toàn hệ
thống của nó. Không nên để trong tâm mình còn mơ hồ đối với hai chữ Phật
pháp. Vấn đề này lại chia ra làm năm tiết nhỏ.
TIẾT I: Nhàm lìa thế gian, hay vượt ra ngoài thế gian.
Trong Phật
pháp hệ trọng hai danh từ yểm thế và xuất thế, là lời phê phán phổ thông
của người đời. Như Thiên Diễn Luận của kẻ Tây Nho là Hách Tư Lê Thị, đại
để cho Phật pháp là yểm thế. Lại như đương thời, tác phẩm Đại Cương Triết
Học Sử Trung Quốc của Hồ Thích, thì đại để cho Phật pháp là xuất thế.
Khiến cho người đời mang hai cố chấp này ra hỏi: Phật pháp chủ trương yểm
thế chăng? Hay Phật pháp chủ trương xuất thế?
Đây là câu hỏi
hết sức phức tạp, khó có thể có một giải đáp nào thỏa đáng, bởi vì người
đặt câu hỏi chưa nắm vững tiền đề.
Danh từ yểm
thế nên nói đủ là yểm ly thế gian, còn danh từ xuất thế là siêu xuất thế
gian hay vượt trên sự đối đãi thông thường của người đời. Nói như thế, ý
nghĩa mới đầy đủ rõ ràng. Nhưng, nói thế gian, trước cần phải giải thích
nghĩa của nó, có hai phần.
1. Danh
nghĩa thế gian.
Trước trình
bày hai chữ thế gian: Thế, là đổi dời vô thường, là hư ngụy không thực,
cũng có nghĩa là đối phó, chế phục, là phá trừ, đoạn diệt. Người bị rơi
trong những thế pháp này, gọi là thế gian.
Thế nào gọi là
vô thường không thực khả phục, khả đoạn?
Đáp: Tất cả sự
vật trong đời này, nhơn thời gian, không gian biến thiên lưu chuyển, chính
là nghĩa vô thường vậy. Tất cả sự vật đem giải phẫu đến từng mảnh nhỏ bằng
hạt bụi để tìm cái thực thể đơn thuần của nó, trọn không thể được, đó là
nghĩa không thực vậy. Vì vô thường nên có thể chế phục, vì không thực nên
có thể đoạn diệt. Thế thì, nói là tất cả pháp thế gian đó chỉ là cái giả
tưởng từ trong tâm thức chúng ta hiện ra mà thôi. Phần này lại chia làm
hai.
a. Tướng liên
tục, như người cầm một cây lửa quay thành vòng lửa liên tục không dứt, kẻ
nhìn vào không thấy một cây lửa mà thấy đây là vòng lửa, rồi cho đó là
vòng lửa thực, ấy là nghĩa liên tục.
b. Tướng hòa
hợp, như người cầm một vật có hình chất (vật thể) đem phân tích, thì đến
chỗ quá nhỏ gần với hư không, trọn không còn một tổ hợp nào, ấy là bản
chất của cá thể (đơn vị).
Thời xưa, các
nhà vật chất học lấy phân tử làm đơn vị vật chất (tức bản chất) cho là
đúng vậy. Nhưng chưa bao lâu người ta lại biết phân tử thực chẳng phải cái
nhỏ nhất không thể phân tích, bèn phát kiến được nguyên tử, tức là cái
nguyên tử ở trong phân tử. Tiến một bước nữa, lại biết nguyên tử đó cũng
không phải thực chất nó nhỏ không có gì ở trong, rồi tưởng tượng mà giả
định rằng, trong nguyên tử còn có cái thực thể, không dùng tên, chỉ gọi đó
là điện tử thôi. Xét về điện tử là tên vật không mùi không tiếng. Nhưng
các nhà vật chất học còn chưa dám quyết đoán rằng: "Điện tử, xác định là
thực thể nhỏ nhất không còn vật gì ở trong, không thể phân tích, là cái
nguyên nhân sanh khởi vũ trụ vạn hữu. Học về Duy vật đến đây là cùng vậy".
Phàm vật có
tên đều là cái tướng do sự hòa hợp mà có, đây là thuyết hòa hợp. Các sự
vật trong đời, đều không ngoài hai nghĩa này. Biết đây rồi thì, nhận thấu
được nghĩa vô thường, không thực, khả thực, khả đoạn. Nhưng trong Phật
pháp tự có cái chân thường (chẳng phải đổi dời vô thường) chơn thực (chẳng
phải hư ngụy không thực) tự tại (không thể đối phó chế phục) tự tánh
(chẳng thể phá trừ hoại diệt) đó vậy.
2. Phạm vi
của thế gian.
Vì thế giới vô
biên, nên hữu tình (chúng sanh) cũng vô biên, vì hữu tình vô tận nên thế
giới cũng vô tận, không trước sau, không trong ngoài. Bởi do gốc bản không
nên bình đẳng bình đẳng, vì tùy tâm hiện nên như huyễn như huyễn, thật
không phạm vi có thể nói được.
Thế nào gọi là
bản không?
Đáp: Tất cả
các sự vật trong đời, trên phương diện vật chất, tìm cái chung cuộc của
nó, rốt ráo không thể có được.
Sao gọi là tùy
tâm hiện?
Đáp: Một đóm
lửa mà xoay thành vòng lửa, thật không có cái thể của vòng lửa, nhưng có
hình cái vòng là tùy tâm mình hiện ra.
Hỏi: Đóm lửa
mà thành vòng lửa lý ưng là lửa hiện, sao nói rằng bản không nên không có
hiện?
Đáp: Đây tuy
mượn lửa làm dụ, đâu biết lửa đã không thực có, nếu tâm người không có sai
khác thì lửa cũng dối có, huống là có cái vòng? Nói bản không nên không có
hiện thì, lại lấy cảnh trong mộng mà trưng bày. Người đang trong mộng, chỉ
biết có cảnh trong mộng mà không biết có cảnh khi tỉnh giấc. Nhưng, vũ trụ
vạn hữu ởù trong giấc mộng thấy có, trọn vẹn có, chính lúc tỉnh không thể
thấy, không thể có mà trong mộng không gì chẳng có. Đang trong giấc mộng
các cảnh giới không một vật không thực. Mộng càng sâu thì tình chấp đó
càng nặng, thực cảnh kia càng rõ. Thực cảnh này là do tùy tâm hiện, ở
trong lúc mộng. Thế gian (vũ trụ vạn hữu) là thực cảnh tùy tâm hiện trong
lúc tỉnh vậy.
Nói tóm lại,
nó chỉ là tướng liên tục và tướng hòa hợp mà thôi. Chỉ có người nào bừng
tỉnh (đại giác) rồi mới biết mình đang trong giấc mộng lớn. Chúng sanh
không biết chấp cho là thực, như thế chẳng mê muội lắm ru!
Nghĩa của thế
gian như đây, mà tâm chúng sanh như kia. Chẳng lẽ nay tôi đem cảnh như
huyễn như huyễn mà trình bày một cách rõ ràng ư? Thế là khiến người nghe
chấp trước càng sâu, cho nên nói, thật không phạm vi có thể nói được.
Nhưng đã vì nói, thì đâu được không nói? Chính cái nói đây cũng chỉ vì
nhằm tâm chúng sanh, đáp ứng theo chỗ trí lượng mà chỉ bày cho họ hiểu.
Riêng có hai thứ như sau:
a. Thế giới
chúng sanh quan phổ biến.
Thế giới vô
biên, chúng sanh vô tận. Nay vả đem thế giới Ta bà của Phật Thích Ca hóa
độ, lược trình bày một biểu đồ dưới đây. (Ta bà dịch là kham năng nhẫn khổ
hay nhẫn được cái khổ. Thế giới Ta bà là thế giới ứng hóa của Phật Thích
Ca Mâu Ni, nên nói cõi nước do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hóa độ, quả địa
cầu chúng ta đang ở đây, nó chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong ấy).
Hữu tình thế
gian, do hoặc nghiệp từ vô thủy bất giác sanh ra, nó làm căn y cho nhơn
duyên sinh diệt. Đây chỉ đem danh tướng của chín cõi (cửu địa) và năm loài
(ngũ thú) trình bày rõ như trong kinh tạng nói.
Khí thế gian
là chỗ nương ở sinh hoạt của loài hữu tình. Một thái dương hệ là một tiểu
thế giới, gom một ngàn tiểu thế giới lại là một thế giới tiểu thiên, che
trùm cõi Định sanh hỷ lạc. Gom một ngàn thế giới tiểu thiên là một thế
giới trung thiên, che trùm cõi Ly hỷ diệu lạc. Gom một ngàn thế giới trung
thiên là một thế giới đại thiên, che trùm cõi Xả niệm thanh tịnh. Tiểu thế
giới trong mỗi đại kiếp trải qua một lần thành, trụ, hoại, không. Hoại do
nạn lửa. Lửa hoại bảy lần, kế do nạn nước hoại đến cõi Ly sanh hỷ lạc.
Nước hoại bảy lần, kế do nạn gió hoại đến cõi Ly hỷ diệu lạc. Riêng cõi Xả
niệm thanh tịnh không hư hoại. Gom thế giới tam thiên đại thiên này làm
thế giới Ta bà. Trở lại nhìn quả địa cầu chúng ta hiện cư ngụ đây, khác
nào một hạt lúa trong cái kho to ư !
Sự thành, trụ,
hoại, không của thế giới khác nào sự sanh, trưởng, già, chết của loài
người. Thế giới từ lúc mới thành lập cho đến lúc trống không gọi là một
kiếp, còn chúng ta từ khi sanh ra cho đến lúc nhắm mắt dứt hơi thở gọi là
một đời. Lấy một đời mà so với một kiếp, thời gian đó chẳng là ngắn lắm ư
?
b. Nhân
sinh, vũ trụ quan gần đây.
Lấy nhân sinh
làm bản vị để quán sát tất cả, nên gọi là nhân sinh vũ trụ quan gần đây
xem biểu đồ dưới đây.
Theo bảng
biểu, từ nhân loại trở xuống bốn hạng, thuộc hữu tình thế gian. Các thực
vật trở xuống năm hạng là khí thế gian. Khí thế gian thuộc về các sự vật,
sở y của hữu vi nhân sinh tư dụng, sở y của hữu vi thân căn, sở y của hữu
vi quan niệm, hoặc một hoặc cả ba, xin phân biệt nơi biểu đồ thì rõ. Đây
lại dùng biểu đồ này mà suy ngược về trước để giải thích cho tiện lợi vậy.
Như tinh hệ và
tinh hải với người không có sự quan hệ lớn lao, chỉ vì quan sát trắc
nghiệm đến được, nên thuộc về quan niệm y mà không thuộc hai thứ tư dụng
và thân căn. Sức nóng của ánh sáng mặt trời là sở y của thân căn quan
niệm. Đến như đại địa và các khoáng vật, nước lửa gió điện trở lên đều là
chỗ sở y của tư dụng, thân căn, quan niệm. Trong đây hữu tình thế gian,
các hạng... cũng thông với tư dụng y. Chợt xem, thì dường như khó hiểu,
bởi nghi nơi bảng biểu đã lấy nhân sinh làm bản vị, thì tư dụng sở y đó
hẳn là ở ngoài nhân sinh. Bởi không biết nghĩa hỗ trợ của nhân loại tức là
cái sở y của nhơn sinh tư dụng. Vua, tôi, cha, con, chồng, vợ, anh em bằng
hữu, nhỏ là một gia đình, lớn là một xã hội, quốc gia chủng tộc, đâu chẳng
đều như thế. Nhân loại là tiếng gọi chung nên nhân loại cũng là khí thế
gian của mỗi người.
Tự thân của
mỗi người là cái tư dụng sở y của mỗi người, lý này cũng dễ nhận. Như nhà
khoa học nói, thân người như một bộ máy bốn chi, trăm thể mỗi mỗi có tác
dụng tương đương như: Bộ hô hấp, bộ tiêu hóa, bộ bài tiết. Như thế mỗi món
không món nào mà không có nghĩa như cơ giới, tức tư dụng y. Nên biết, tự
thân của mỗi người, đó là khí thế gian của mỗi người, tự thân của ta tức
là khí thế gian của ta vậy.
Trang Tử nói:
Chỉ ra trăm thể của con ngựa không được gọi nó là con ngựa.
Thế thì, chỉ
trăm thể của thân ta đây cũng không được gọi nó là ta, như vậy quả thật
cái ta ở chỗ nào ư ? Đến như thân của mỗi người khác, là tư dụng sở y đó,
như lấy tài lực trí của người làm dụng. Nếu là thân của loài động vật thì
hoặc nhờ sức mạnh của nó, hoặc ăn thịt nó, lấy da làm mền. Cho nên bốn
loại trên tùy thuộc hữu tình thế gian, mà đều có thể là sở y tư dụng của
nhân sinh. Đến như sở y của thân căn, quan niệm kia, cũng do hằng ngày
chúng ta thấy quen, không bỏ phí việc nào. Do đó bốn loại này cũng thông
nơi khí thế gian.
3. Xuất thế
cùng yểm thế.
Những điều
trình bày trên là ý nghĩa thế gian đã được nói rõ trong phạm vi của nó.
Giờ đây, chúng ta lại thảo luận thêm về ý nghĩa yểm ly thế gian cùng siêu
xuất thế gian.
Nói yểm ly thế
gian, là chán mà lìa, tức chán hữu tình thế gian này ư ? Hay cõi khí thế
gian?
Giận đời, ghét
tục, xa lìa chốn đông người, thích những nơi núi sâu đầm vắng, ưa chỗ hẻo
lánh, những kẻ này người đời bảo là theo chủ nghĩa yểm thế. Kia chán hữu
tình thế gian mà lìa xa, như trên đã nói, thật trong Phật pháp không có
việc ấy. Bởi Phật pháp nói: Ngay trong hữu tình thế gian có vô lượng vô
biên chúng sanh, nương từ bi của chư Phật, thệ nguyện cứu độ tất cả làm
cho được lợi lạc, tuy ở trong cõi ác mà không từ việc ứng thân thị hiện,
để hóa đạo, thì đâu được chán mà lìa ! Như nói yểm ly, là cuộc trong cõi
khí thế gian như mộng huyễn ô trược, chướng ngại, thúc phược này ư ? Thế
thì, người học Phật phần tu chứng sơ bộ có thể có nghĩa đó, tức bảo Phật
pháp thuộc "yểm thế" cũng có thể được.
Kế lại nói về
siêu xuất thế gian. Nói siêu xuất đó là siêu xuất khí thế gian ư ? Hay
siêu xuất hữu tình thế gian?
Tôi nghe Viên
Thân Hạc Quật luyện thuốc linh đơn, tập bay nhảy, mong ban ngày bay tận
mây xanh, chính là điều người đời cho là xuất thế, ý họ muốn vượt ra khỏi
địa cầu chỗ mọi người chung ở, lên ở trên cõi trời, hoặc tìm những vì tinh
tú khác. Các siêu xuất đó, chính lại là khí thế gian, trong Phật pháp cũng
không có việc ấy. Bởi cõi khí thế gian như huyễn không thực như đã thuật ở
trên, giả sử chúng sanh hoặc nghiệp đều dứt hết, thì núi sông đất đai đây
thảy đều không còn, có cái gì siêu xuất đáng nói!
Cho nên, cái
siêu xuất trong Phật pháp nói là dứt sạch phiền não, lìa hẳn vọng nghiệp,
bỏ tuyệt chướng ngại, thoát được sự sanh tử, lấy siêu xuất hữu tình thế
gian mê vọng này làm cơ sở để hóa độ chúng sanh.
Cho nên, lấy
hữu tình thế gian mà luận, thì cũng chưa từng chẳng nói Phật pháp thuộc
"xuất thế" đó vậy.
TIẾT 2: Tùy thuận thế gian - Cứu hộ thế gian.
Câu này cũng
quan hệ với lời bình phán Phật pháp của người đời, chẳng giống như tiết
thứ nhất đã nói, mà còn cạn cợt, sơ sài hơn. Nói tùy thuận cứu hộ là tiêu
biểu Phật pháp cùng với loài người gần nhau, từ bi nguyện hộ, chưa từng xa
lìa thế gian, bởi vì chỉ nhìn đến cái đạo dụng của Đại thừa, cái thấy này
riêng còn thuộc một bên, chưa thấy được hoàn toàn hệ thống Phật pháp, nên
đến tiết thứ ba sẽ nói rõ hơn.
TIẾT 3: Do siêu xuất thế gian mà cứu hộ thế gian.
Tiết này nói
thấy lý so sánh sâu nhiệm, vì sự trình bày đến đây cũng sắp viên mãn. Bởi
siêu xuất thế gian là chẳng tự mắc kẹt ở trong thế pháp, sau đó khả dĩ nói
rằng cứu hộ thế gian, lý đã cố nhiên như thế. Ví như, có người cùng chết
đuối dưới biển như mọi người, người đó dù có tâm cứu người, thì hẳn trước
chân phải đạp đến đất hoặc là thân phải ở trên thuyền, rồi sau đó mới có
thể nói việc cứu người được. Do vượt ra ngoài đời mà cứu đời, nghĩa đó
cũng như nhau.
Tuy nhiên,
siêu xuất thế gian là mục đích của người Tiểu thừa, tự cho đó là viên mãn,
còn cứu hộ thế gian là phương tiện cứu cánh của hàng Đại thừa Bồ tát vậy.
Điểm này sẽ nói rõ ở phần sau.
TIẾT 4: Trạch diệt đời ác để sáng tạo cõi đời mỹ thiện.
Cõi đời ác
liệt, tức khí thế gian cùng hữu tình thế gian. Cõi đời mỹ (thanh tịnh)
thiện (an lạc). Lược giải bằng đồ biểu dưới đây.
Tịnh độ phàm
thánh đồng ở chung, tức chỉ thế giới Ta bà này vốn là chỗ ở chung của chín
loài hữu tình, mà các thánh cũng ứng thân hóa đạo nơi đó, nên gọi là đồng
ở chung. Nhưng thánh với phàm cảnh giới không đồng, sự thọ dụng cũng không
đồng. Chín loài hữu tình cũng tùy tâm hiện, theo nghiệp mà chịu báo mỗi
mỗi không đồng. Như loài người thấy nước là nước mà có các thứ chướng
ngại, loài cá thì không vậy. Cá ở trong nước như loài người sống trong
không khí. Ngoài ra, loài có cánh thì bay, loài có chân thì chạy, thân thì
duyên, tối thì ẩn, đâu chẳng do theo nghiệp mà thọ báo. Lý này không có gì
khó hiểu.
Tịnh độ phương
tiện hữu dư là chỗ ở của Nhị thừa A La Hán và Bích Chi Phật, mà có hàng Bồ
tát cùng Phật ứng hóa trong đó, khiến họ bỏ Tiểu thừa, hướng về Đại thừa,
A La Hán tức Thinh văn, Bích Chi Phật tức Duyên giác. Tịnh độ này chẳng
phải cõi mà hạng người phàm phu trong sáu đường có thể đến được.
Tịnh độ Thật
báo trang nghiêm, cõi này do Bồ tát phước huệ song tu trang nghiêm mà
thành. Chư Phật thì ứng hóa thân nơi đó để dẫn dắt các Bồ tát này mau lên
ngôi Đẳng giác, nên Tịnh độ này lại cũng không phải là nơi mà Nhị thừa có
thể đến.
Bản biểu đã
nêu, Tịnh độ phàm thánh đồng ở chung, có thể gọi là thế gian, ngoài ra đều
là Pháp giới thanh tịnh vượt ngoài ba cõi, không thể đem luận chung cùng
thế gian được. Nhưng nay vì muốn tùy thuận người đời mà nói, nên gọi là
chánh giác thế gian. Đến chứng quả Phật là Tịnh độ Thường Tịch Quang, tức
thân này là Tịnh độ không có cái ngại của tình và khí nữa. Chỗ này cũng
không thể nói chung cùng thế gian một lượt, nên khỏi phải nêu ra.
Nghĩa ác liệt
và thiện mỹ như đã vừa trình bày trên, còn trạch diệt, sáng tạo sẽ như thế
nào?
Đáp:
Muốn hiểu vấn
đề này, trước cần biết qua cái kết thành tình và khí thế gian do nơi
nghiệp lực của chúng sanh, mà nghiệp lực của chúng sanh lại do tâm khởi
hiện. Thế nên, nói trạch diệt, sáng tạo, đó cũng là để tuyển trạch và diệt
trừ nghiệp lực này từ tâm chúng sanh hiện ra, kết hợp thành cõi đời ác
liệt, sáng tạo Chánh giác thế gian thiện mỹ vậy. Nhưng cõi đời ác liệt này
cùng với cõi đời thiện mỹ, chẳng phải có thực hai cõi khác nhau, khả dĩ
trạch diệt, khả dĩ sáng tạo được. Lại cũng không phải đem bỏ cõi ác liệt
này mà riêng sáng tạo một cõi tốt đẹp khác. Nên biết, còn có phân chia cõi
tốt, xấu khác nhau đó, đều do tâm nhiễm tịnh mà nên. Vả, quán trở lại chân
tánh của mình thì xưa nay bình đẳng, xưa nay vốn trong sạch, không có sai
biệt, đầy đủ, tốt đẹp, không có một mảy ác liệt nào mà có thể nói. Nhưng,
bởi do sức vô thủy vô minh trụ địa, mê hoặc huân tập, hôn muội diêu động
mà hiện ra các thứ sắc, sắc đó là tình cùng khí. Nhưng xưa nay tuy mê mà
chơn như của tánh mỹ thiện vẫn tự tại viên dung biến khắp, chưa từng bị
khuất mất. Nên nay trạch diệt tức là trạch diệt cái vô thủy vô minh trụ
địa này, mà hiển bày tâm chơn như kia. Nay sáng tạo tức là đem tánh mỹ
thiện sẵn có xưa nay đó mà hiển phát cho đầy đủ chắc thực. Chỉ một tâm
này, thực không có hai, nên nói rằng còn có phân chia cõi tốt xấu là do
tâm nhiễm tịnh mà biện biệt.
Kinh Duy Ma
nói: "Tâm thanh tịnh thì thế giới thanh tịnh".
Kinh Lăng
Nghiêm cũng nói: "Nên bình tâm địa thì thế giới địa tất cả đều bình".
Nghĩa trạch diệt và sáng tạo cũng như thế thôi.
TIẾT 5: Toàn hệ thống quan Phật pháp của chúng ta.
Bốn tiết ở
trên là nói lược tất cả những luận đoán Phật pháp của người xưa và nay.
Tuy chỗ thù yếu có sâu cạn đều bởi cái nhận thấy chưa được viên mãn, xin
xem tiếp toàn hệ thống Phật pháp.
1. Thực
chứng tất cả pháp, nhất tâm chơn như đạt đến mục đích của hình nhi thượng
học.
Tất cả pháp, tức vũ trụ vạn hữu.
Nhứt tâm chơn như, tức bản thể của tâm.
Vũ trụ vạn
hữu, chính do tâm sai biệt và tâm sanh diệt của chúng ta hiện ra. Tuy chỉ
do tâm hiện, tình cảnh như mộng, thoát khỏi hay thực chứng đều là hư vọng,
chỉ có nhứt tâm chơn như viên minh, tịch chiếu vậy. Vì sao? Vì nó không
sai biệt, không có sanh diệt, vì đầy đủ quang minh, đầy đủ trí tuệ xưa nay
bình đẳng, xưa nay viên mãn. Cho nên trong Phật pháp xưa nay quan trọng ở
phần thực chứng này. Chỉ có sự thực chứng nhất tâm chơn như của Phật pháp,
mới đạt đến mục đích Hình nhi thượng học, pháp môn bất nhị vậy. Đây là
bước đầu của Đại thừa Phật pháp .
2. Thành
tựu viên mãn nhân cách và viên mãn pháp giới.
Thành tựu viên
mãn nhân cách đó, tức là thành Phật vậy. Phật tiếng Phạn là Phật đà, người
phương này dịch là Giác giả. Giác không hạn cuộc ở loài người mà tất cả
chúng sinh đều có thể thành Phật, cho nên gọi là Giác giả mà không gọi là
Giác nhơn.
Pháp giới, tức
Tịnh độ Thường tịch quang, Viên mãn pháp giới, thì Thường, Lạc, Chơn, Tịnh
không có sự ngăn cách bởi tình và khí, tức là Diệu giác Phật quả. Bởi
nương nhất tâm chơn như là bổn nhân địa mà đạt đến cứu cánh địa. Đây là
bước thứ hai của Đại thừa Phật pháp.
3. Tùy
thuận không hạn cuộc thế giới chúng sanh, ứng hóa vô tận, lợi lạc vô tận.
Hai phần trước
nói tự lợi viên mãn, còn phần này nói diệu dụng lợi tha của Phật pháp.
Phật pháp giới
chơn tịnh diệu minh không chướng không ngại, mà ứng thân kia hóa đạo ở thế
gian đều vì sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
Tùy thuận là
vì chúng sanh trong sáu đường nghiệp lực không đồng. Hàng Nhị thừa, Bồ tát
phần giác mỗi mỗi có khác, đều nương đức từ bi và nguyện lực của Phật mà
có thể tùy thuận đó, khiến xa lìa mọi nỗi khổ, rốt ráo được an vui. Nhưng
mà thế giới vô biên, chúng sanh vô biên, nên chư Phật ứng hóa vô tận. Đây
là bước thứ ba của Đại thừa Phật pháp viên mãn tự lợi, lợi tha và là toàn
bộ hệ thống của Phật pháp.
* |