CHƯƠNG III: NHU YẾU PHẬT PHÁP LÀ ỨNG HÓA NHÂN TÂM HIỆN ĐẠI.
Như tiết 5
trong chương I nói "Phật pháp tùy thuận không cuộc hạn trong thế giới
chúng sanh ứng hóa vô tận, lợi lạc vô tận" thì trong tâm chúng ta sẽ biết
rằng, Phật pháp là nhu yếu đối với đời sống của con người hiện nay. Tại
sao như thế? Chương này có năm tiết sẽ nói rõ nghĩa này.
TIẾT 1: Phật pháp là nguyên tắc của khế lý và khế cơ.
Thường lý tức
là lý chân thực, bình đẳng không hai, xưa nay thường trụ, không đổi khác,
chân thực, không hư dối. Đây không phải nói suông. Bởi chúng ta mê bản
tánh của mình nên mờ mịt không có sở tri, chỉ có Phật bậc thành tựu Đại
giác minh, đủ trí tuệ lớn, linh minh đổng triệt, giác chiếu viên mãn nên
hay khế hợp không gián đoạn và có thể ứng với thường lý này, phát minh
hiển bày đó, khiến cho chúng sanh mê vọng cùng biết, cùng ngộ, đồng lên
ngôi chánh giác. Đến như phép tắc dời đổi vô thường ở đời, nhân nói thời
phần (thời gian) mà sanh ra các thứ sai biệt, tâm chúng sanh cũng nhân đó
mà có các thứ dị thù. Nếu không tùy thuận thế gian, khéo bày lời nói để
đúng với thời gieo hợp cơ kia, thì được chỗ này mà mất chỗ nọ, hợp với quá
khứ thì chẳng hợp với hiện tại. Thế nên, trong Phật pháp có cái tất yếu
thích hóa thời cơ.
Phàm khế ứng
với thường lý đó là cái chính thể của Phật pháp. Thích hóa với thời cơ đó
là diệu dụng của Phật pháp. Hợp cả hai nghĩa này, lấy làm nguyên tắc thì
thể dụng của Phật pháp được đầy đủ. Nếu ứng với thường lý mà không thích
hóa với thời cơ thì mất cái diệu dụng của Phật pháp. Nếu thích hóa với
thời cơ mà không khế ứng với thường lý thì cũng mất cái chính thể của Phật
pháp. Và như thế đều chẳng phải làm sáng tỏ Phật pháp vậy.
TIẾT 2: Phật pháp là nguyên tắc tùy chúng sanh mà hiện thành.
Phật là Pháp
thân tròn đầy khắp pháp giới, không có thân tướng cố định, không thể nghĩ
bàn. Vị Phật phát hiện ở thế gian là Phật ứng thân. Ứng thân thì tùy thân
tướng của chúng sanh mà hiển hiện. Thân tướng chúng sanh có vô lượng vô
biên thì ứng thân Phật cũng có vô lượng vô biên, đều vì tùy theo đó mà ứng
hiện ra.
Đến trong Phật
pháp thì bình đẳng không hai, vốn không thể nói được mà cũng không có các
danh tướng. Nói khác hơn, chính cái tên gọi Phật pháp đó cũng không thể
được. Có Phật pháp hiện hành ở đời, đó cũng là tùy theo tâm sai biệt của
chúng sanh mà lập. Nói ở phần trước là không Phật có thể thấy, nói ở phần
sau là không Pháp có thể thuyết.
Phật cùng Pháp
của Phật đều tùy thuận thế gian, chúng sanh mà phát hiện và lưu hành.
Chúng sanh thế
gian nhiễm có sâu cạn, giác có trước sau, các thứ sai biệt mỗi mỗi không
đồng, Phật pháp nhân đây cũng có các sai biệt mỗi mỗi không đồng đều ứng
hợp đó. Nói tóm lại, Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Tuy nói có
nhiều như thế, song chỉ một việc duy nhất là lợi lạc chúng sanh mà thôi.
Đây là nguyên tắc Phật pháp tùy thế giới chúng sanh hiện thành.
TIẾT 3: Nhu yếu Phật giáo cần đúng thời lập bày việc giáo hóa.
Như trên đã
trình bày, chúng ta biết điểm tất yếu của Phật giáo là đúng thời cơ mới
lập bày việc giáo hóa. Đúng thời cơ mới lập bày việc giáo hóa nghĩa là,
Phật pháp có công dụng phổ độ chúng sanh. Không thể đáp ứng với thời cơ
lập bày việc giáo hóa, là đã đánh mất công dụng thiết thực của Phật pháp
rồi. Nếu không thể đúng thời lập việc giáo hóa để phát khởi tín tâm của
người đời, mà xướng minh giáo nghĩa, thì người đời đối với Phật pháp sẽ
không được hiểu biết.
Trong thời
pháp mạt, tâm chúng sanh phần nhiều hỗn loạn, họ mặc tình hủy báng, buông
lung, hý lộng, thị dục nhiều bề... mất hẳn chánh niệm, hằng chìm đắm trong
bể khổ, trôi lăn trong sanh tử, hoặc bị đọa trong các nẻo ác, không chỉ
riêng Phật pháp nhân đó bị suy lạc, mà sợ rằng thế gian sẽ tuyệt diệt nữa.
TIẾT 4: Nhu yếu Phật pháp đối với dân tộc Trung Quốc.
Sự hiện diện
của Phật pháp ở đời ắt có mốc thời gian và có nơi chốn. Tiết này nói mục
đích lấy dân tộc Trung Quốc làm phương sở, lấy hiện tại làm thời phần mà
thuyết minh cái nhu yếu của Phật pháp.
Nói rằng dân
tộc là hữu tình thế gian, còn Trung Quốc là dân tộc Trung Hoa tức là khí
thế gian vậy. Bởi dân tộc cùng với lãnh thổ hợp lại thành quốc gia. Lãnh
thổ là của dân, lấy dân làm chủ. Nay nói dân tộc Trung Hoa cũng lấy dân
tộc làm trọng, Trung Quốc có nghĩa là làm sáng tỏ cái phạm vi trung tâm
của dân tộc này mà thôi. Còn cái gọi là nhu yếu, cũng không phải khảo sát
thời đã qua hoặc suy lường thời chưa đến, lấy ngay cái trạng huống trong
hiện tại mà luận.
1. Nhu yếu
Phật pháp đối với ý thịnh chí nhuệ.
Người ý mạnh
mẽ, chí sắc bén, thì dân tộc Trung Quốc là phần tử ưu tú, có tài khí, có
hành vi liên hệ đến sự hưng suy của quốc gia. Cái cần yếu trong một nước
tất nhiên phải có đạo đức cao thượng và học thuật tinh thâm, lấy đó làm mô
phạm cho hành động, lấy đó để an ổn tâm hồn mọi người, khiến trong nước
khỏi được nạn xung đột, mà tự thành tựu phép tắc chung, để làm chỗ nương
tựa cho quốc gia.
Nước ta (Trung
Hoa) từ xưa đến nay vốn trọng đạo đức, giảng giải tánh lý, người người đều
cung kính lễ phép đã lập bày ra ngôi thứ. Kịp đến phong trào Tây học tràn
vào, các học thuyết đua nhau nổi dậy, phản đối lẫn nhau, bài xích lẫn nhau
(đây là đặc điểm của Tây học, nhưng cái hại của nó là ở sự phân lập các
học phái mà không có hệ thống tối đại để làm chỗ nương tựa, giống như mỗi
người dựng lên một cây cờ hiệu khác nhau). Vào là chủ, ra là kẻ nô dịch,
gân cổ mặc tình biện cãi, đầy tai rầm rĩ, khắp nơi tuyệt không có một điểm
quân bình. Kẻ sĩ tài trí trong nước ta bắt chước theo họ, vốn tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận, bèn theo vết xe trước, đạp đổ rào vách mà đi.
Đến như tình
trạng ngày nay, đạo đức bị phá hoại, tánh lý chìm mất, mọi người chạy đua
phóng dật, đâu thể có được một khuôn phép mới nào khả dĩ làm chỗ nương
tựa. Đầy dẫy lăng xăng những tư tưởng kia để không thể thu thập được gì.
Chỉ có Phật pháp quảng đại viên dung, thâm áo khôn cùng, đầy đủ đạo đức,
trong sạch không gì hơn, có diệu lý nhất chân bất nhị, phá bỏ cái vọng,
thấy được cái chơn, dẹp tà hiển chánh. Cho nên tiếp hợp được với nhân tâm,
làm khuôn phép cho kẻ học giả có luận lý vững chãi. Bỏ Phật pháp đi, lấy
gì làm chỗ quy hướng! Đây là điểm trọng yếu thứ nhất.
2. Nhu yếu
Phật pháp đối với chứa nhóm mê lầm.
Thuở xưa nước
ta (Trung Quốc) lấy thần đạo lập giáo, nguyên do bởi sợ hãi ngu ngoan, để
bù vào chỗ thiếu thốn của hình chính. Nhưng rồi mê tín lần lần tích tập
càng sâu, người dân không phản tỉnh. Bọn người gian giảo lợi dụng nó để
làm công cụ mê hoặc người, giúp cho họ làm loạn. Nhỏ thì đóng góp tiền
bạc, lớn thì muốn đoạt đến tư tưởng Đế vương (như Hoàng Cân giáo, Bạch
Liên giáo...) nhiễu loạn xã hội, nguy hại đến quốc gia, đâu không phải là
quá lắm ư ? Thật muốn trừ mê lầm ấy, phá tà chấp ấy, khiến bọn gian đảng
kia đều mất chân đứng, nếu chẳng phải Phật pháp, thì không thể thành tựu
được. Đây là điều trọng yếu thứ hai.
3. Nhu yếu
Phật pháp đối với vấn đề năm chủng tộc sống chung hòa bình.
Nước ta (Trung
Quốc) đã hợp năm chủng tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, thuộc về một quyền
thống trị, mà kiến lập nước Trung Hoa thống nhất này. Đem pháp chính mà
nói, thì từ xưa nước ta đã lập hình thức thống nhất này rồi, nhưng nhân
dân năm chủng tộc cùng ở trong một nước, hẳn nhu cầu chính yếu là phải
tinh thần thống nhất, tức là thống nhất tư tưởng vậy.
Tư tưởng quan
hệ với tôn giáo và đạo đức. Lời dạy của đức Khổng Tử vốn kiêm cả chính trị
và đạo đức. Vì dân tộc Hán ta đã sùng phụng Ngài từ vài ngàn năm rồi, chỉ
đối với các chủng tộc khác, còn chưa được phổ cập đấy thôi.
Giáo nghĩa của
Mô Hãn Mặc Đức đã là nền tín ngưỡng của dân tộc Hồi.
Đến như Phật
giáo, thì đã là nơi sùng phụng của các dân tộc Mãn, Mông, Tạng, Hán tộc ta
từ đời Hán, Đường đến nay đã trải qua nhiều năm thịnh hành. Các nho sĩ
thời Tống, Minh cùng đàm luận về cái học lý tánh, phần nhiều núp bóng ở
trong Phật giáo. Thời gần đây sĩ phu, học tử nước ta biết luận đàm về
thiền lý, giới phụ nữ, hàng nho nhã hiểu niệm Phật Di Đà. Đứng trên năm
chủng tộc mà nói, thì đã có bốn chủng tộc theo đạo Phật. Huống nữa, Phật
pháp xưa nay không lập bờ cõi ranh vức, trong Nhân thừa, Thiên thừa của
Phật giáo có thể liệt ngang hàng với Hồi giáo, Gia Tô giáo vậy.
Thế nên, muốn
mưu việc thống nhất tư tưởng, khiến cho nhân dân trong năm chủng tộc có
tinh thần thống nhất, rất cần đến Phật pháp. Chỉ có Phật pháp mới đầy đủ
năng lực vĩ đại này, và đây cũng là điều trọng yếu thứ ba vậy.
TIẾT 5: Nhu yếu Phật Pháp đối với nhân tâm hiện đại.
Tiết trên đã
nói riêng về dân tộc Trung Quốc. Tiết này sẽ mở rộng phạm vi của vấn đề là
đem nhân tâm hiện thời, cùng trạng huống nhân loại trên toàn cầu mà quan
sát. Nhu yếu Phật pháp đối với vấn đề này được phân thành các điểm sau
đây.
1. Nhu yếu
Phật pháp là chấm dứt nguyên nhân đại loạn của thế giới.
Xu thế hiện
tại của thế giới lấy Tây Âu làm trọng, khinh rẻ Đông Á ta. Chính trên đời
loạn mà quan sát, thì Âu Tây cũng làm thịnh hơn Đông Á. Nhưng cái loạn của
Đông Á ban đầu bởi ảnh hưởng Tây Âu. Đây không có gì khác, bởi cái học vật
chất càng thạnh thì cái tâm chạy theo vật chất càng mạnh. Năm dục ngày
càng bộc phát mạnh thì, như ngọn sóng cuồng tràn đổ, sức sinh sản khắp
hoàn cầu không đủ để cung ứng cho sự hao phí. Giai cấp nghèo giàu khác
nhau càng xa, mà đại đa số là giải quyết vấn đề sinh kế càng cấp bách, khí
uất bất bình đầy lấp cả vũ trụ. Huống nữa họ vốn đuổi theo thói ác, đổi
làm văn minh cạnh tranh giả vờ ngoài miệng "Vật tranh, trời chọn, ưu thắng
liệt bại" cho là công lệ trời định. Vâng theo xem như khuôn vàng thước
ngọc, do đó nước mắt mồ hôi của loài người tràn dâng không biết giới hạn.
Nhân xấu của
người đời họ tự gây rồi, nay đây họ gặp nhiều nghiệp báo chúng đồng phận
tối thảm, tối khốc này. Nhưng thói quấy, tập quán thành thục, không có
phương pháp nào tự cứu, bởi vì vô minh, vọng động nên chẳng tự giác !
Người thời nay
không thích cảnh loạn nữa, đồng đủ tâm này, thực muốn dứt nguồn tạo loạn,
phải tìm tận gốc loạn của nó, thì chỗ khởi ra loạn là đầu mối tại nhân
tâm. Nếu chẳng cần nhọc nhằn mà nghiệp lực tự giảm, thì đức Phật của chúng
ta đã không vì chúng sanh đời sau, thương xót, dạy bảo, làm con mắt tương
lai cho họ. Trước nhất là phải siêu việt trên tình, khí, thực chứng nhất
tâm chơn như, chánh giác nhân tâm… Đây là diệu pháp vô thượng vậy.
Chúng ta bất
hạnh sanh nhằm đời ác năm trược, lòng nhiều tán loạn, nay chính tuyên
dương, xương minh Phật pháp để làm chính nghĩa cho nhân loại trên thế
giới. Chính nghĩa được hiện bày, tức lòng người có chỗ quay về. Như vậy
nguồn đại loạn ngõ hầu có phần giải được.
2. Nhu yếu
Phật pháp là gây tạo một nền văn hóa mới cho thế giới.
Ba hệ thống
văn hóa lớn nhất của thế giới thời xưa là:
1.
Văn hóa Ấn Độ.
2.
Văn hóa Trung Quốc
3.
Văn hóa Hy Lạp.
Nhưng hai nền
văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc, ở nước ta (Trung Hoa) trong thời Tống, Minh
đã có điểm dung hợp, làm thành văn hóa Đông Á (Khối văn hóa Đông Á gồm các
nước như Nhật Bản... đều do Trung Quốc du nhập).
Ba tôn giáo
lớn ở nước ta đồng hóa nhau từ thời Tống, Minh đến nay là dĩ nhiên. Còn
văn hóa Hy lạp diễn tiến thành văn hóa Âu Tây ngày nay. Cho nên, đứng trên
lập trường văn hóa thế giới hiện tại mà luận, có thể gọi hai khối văn hóa
Đông Á và Tây Âu là hai, nhưng đối với khoảng cách của hai khối này, cái
gì có thể làm phép tắc viên nhiếp bao trùm cả hoàn cầu này?
Thử quan sát
nền văn hóa Âu Tây, chỗ chú trọng là "cạnh tranh" giáo cùng giáo, học cùng
học, giới hạn khu vực, vọng phân ra rồi mỗi mỗi tự lập ngõ vào. A mới nói
ra B liền đứng dậy phản đối, C thấy việc điều đình, D từ đó mà đập tan
(đây là các nhà Triết học Âu Tây họ tự nói vậy). Thị phi nổi lên như bầy
ong, họ không biết chiết trung. Vì thế, người cùng người tranh nhau, nước
này nước nọ chém giết nhau, gây thành cái loạn lớn trên thế giới ngày nay.
Trên phương
diện văn hóa mà nhìn, thì nó chỉ là vấn đề mỹ quan trên tiến trình nhất
thời của vật chất mà thôi. Xét đến chỗ chân thực của nó thì, một góc trời
Âu Châu còn không đủ để tự duy trì mối giây liên hệ nhau. Điều đó đối với
thế giới nên tự biết vậy.
Xét trở lại
nền văn hóa Đông Á thì, giáo có tông bổn, học có truyền thống, tướng Nhân,
Ngã không lập, cái thấy nước khác với lửa không sanh. Phật nói bình đẳng,
Nho còn lễ nhường, Đạo giữ thanh tĩnh. Tuy chỗ thấy có thông cuộc cạn sâu,
mà đều muốn hội quy về chỗ chí cực của nó, nên có thể như nước với sữa hòa
lẫn hợp nhau thành hóa. Cái Đức có đủ để thống nhất thành một nước lớn,
kiến lập thành một thế giới duy nhất, duy trì vài ngàn năm không sụp đổ,
các lân bang xa gần không đâu không đồng hóa (ở trên đều đứng trên phương
diện văn hóa mà nói, chẳng phải đem quyền thống trị mà nói).
Mênh mông rộng
lớn, không có gì sánh bằng, thực đủ để làm tiêu biểu cho nhân quần noi
theo, làm mô phạm cho khắp thế giới mà không để lại chút hận thù nào. Hoặc
có người nghi Âu tiến hóa, Đông chậm tiến, nhược điểm đó đã hình thành rõ
ràng, như đã nói ở trên in tuồng khoe khoang, đâu biết rằng đây là do đạo
lớn chưa được sáng tỏ, quốc vận chưa vững. Ví như đứa học trò chưa ra tỉnh
thi, chỉ thấy qua trong làng xóm chật hẹp đâu đủ giới hạn khả năng của nó.
Nhưng, nói văn hóa Đông Á, trong đó không nên quên rằng tuy gồm có ba hệ
thống lớn, song đều thông suốt về một mối với nhau. Nghĩa đạo của Lão
Trang đã nói rõ, Khổng Tử thì chú trọng thể pháp, không nói Tánh cùng với
Thiên đạo, đệ nhất nghĩa đế trùm kín chưa thổ lộ, đều chưa đủ thỏa mãn cái
Tâm của người đời, làm mục đích cho họ đạt đến chân lý tối cao. Chỉ có
Phật pháp vi diệu vô thượng, nghĩa thì sâu mầu, văn thì hàm súc bao la,
học thuật gồm đủ, lý thực thể duyên khởi đâu không cùng tột, thế thì đã
gầy tạo cho thế giới một nền văn hóa mới, có cái tất yếu để xướng minh
Phật học, cần xét rõ sự thực này.
3. Nhu yếu Phật pháp là đầy đủ nhân tâm và an ủi nhân tâm.
Diệu dụng tột
cùng của Phật pháp là ở sự ứng hóa trong thế giới lợi lạc chúng sanh. Vả,
hay tùy thuận chúng sanh trong vô lượng vô biên thế giới mà ban cho họ vô
lượng vô biên pháp môn khiến họ dứt đau khổ được hoàn toàn an vui.
Nhân tâm của
người hiện thời mênh mang phức tạp không biết đến đâu là cùng, chìm đắm
trong bể khổ, độ thoát không có kỳ hạn. Thực muốn ngay trong phiền não
sanh tử này, khiến mỗi mỗi nhân tâm sai biệt không đồng đó, đều được đầy
đủ, đều được an ủi. Cố nhiên phải cần đến pháp môn nhu yếu vô thượng của
đức Phật chúng ta vậy.
* |