Ân Nghĩa Con Người
Hôm nay là
ngày rằm tháng bảy, là ngày lễ Tự tứ của chư Tăng. Ngày này mười phương
các bậc Hiền thánh rất hoan hỷ. Đồng thời theo truyền thống Phật giáo Bắc
tông, ngày này còn gọi là ngày Báo hiếu hay ngày lễ Vu lan.
Riêng giới
xuất gia, đây là ngày kết thúc thời gian tu hành trong ba tháng an cư. Một
trăm ngày đó chúng ta tu hành tích cực, sáng đạo thì xứng đáng đối trước
Tam bảo và các bậc Sư trưởng, do đó được nhận một tuổi Phật. Thời xưa ngày
này chư Tăng từ các nơi tựu về Tinh xá Trúc Lâm đảnh lễ đức Thế tôn, để
trình lên công phu của mình sau khi được đức Phật trao cho các đề mục
thiền quán trong ba tháng an cư. Đa số các vị trình thành quả tu tập đều
chứng Thánh quả. Không những ba tháng, mà có khi chỉ trong vòng một tháng,
nhiều thầy Tỳ-kheo rất trẻ, nhận pháp tu nơi đức Thế tôn và thành tựu
Thánh quả A-la-hán, tức là quả vị cao tột trong Tứ quả Thanh văn.
Chúng ta ngày
nay cũng theo truyền thống xưa nỗ lực tu hành, không biết có vị nào chứng
đạo không, nhưng chắc chắn chúng ta cũng hoan hỷ dự lễ Tự tứ, dâng lòng
thành của mình lên ngôi Tam bảo, sau đó là dâng lên đảnh lễ bậc thầy đã vì
chúng ta chỉ giáo phương pháp tu hành. Để từ đó chúng ta được nghe những
lời giáo huấn đầy pháp vị, giúp thêm sức mạnh trên bước đường tu học dài
lâu của mình.
Vì nghĩ đến đời mình, thấy nhiều ân nghĩa liên hệ chằng chịt sâu dày, to
lớn vô cùng cho nên chúng ta phải tu hành thế nào để đền đáp lại những
thâm ân ấy. Có những ân nghĩa mà đời này ta không cách gì có thể đền trả
cho cân được, chỉ khi nào sáng đạo mới có thể phần nào bù đắp lại những ân
sâu nghĩa nặng đó. Cho nên trong kinh Phật dạy Hiếu là nguồn của trăm
đức. Hiếu là nguyên ủy, là nền tảng, là nguồn gốc của tất cả các công
đức. Hạnh là gốc của con người. Thành ra nói đến Hiếu hạnh là nói
đến nền tảng làm nên con người hoàn chỉnh. Và từ con người hoàn chỉnh đó,
từng bước chúng ta tiến lên Thánh vị. Do vậy người tu phải làm sao hoàn
chỉnh, tròn đủ Hiếu đạo, thực hiện trọn vẹn hạnh hiếu của mình, không thể
thiếu được. Vì vậy đề tài nói chuyện hôm nay là Hiếu đạo hay
Ân nghĩa đời mình.
Ở đây có những
lời dạy của các vị thánh, các bậc thầy tổ, các vị tu trước chúng ta, từ
kinh nghiệm sâu dày của các ngài, chỉ dạy lại cho mình cách thức làm thế
nào để trôi tròn bổn phận hiếu đạo. Làm thế nào để chúng ta xứng đáng là
một người tu, xứng đáng là một người đệ tử của Phật, xứng đáng là người
học đòi theo lời dạy của thầy tổ, theo gương hạnh của các bậc thánh. Để từ
đó từng bước chúng ta thực hiện trọn vẹn Thánh hạnh. Tuy nhiên, có những
điều nói thì dễ mà thực hành khó khăn vô cùng. Nếu nói mà không làm được
thì lời nói ấy chẳng có ý nghĩa gì! Cũng vậy, nói Hiếu hạnh, Hiếu đạo thì
ai là người thực hiện trọn vẹn hạnh này! Chúng tôi nêu lên sự kiện như thế
để từng bước chúng ta cố gắng thực hiện tu tập cho được hạnh hiếu của
người con Phật.
Trong kinh
Phật dạy: Tu bất cứ pháp môn nào của đạo Phật, hiếu vẫn là gốc, không
thể thiếu được. Cho nên người xuất gia hay người Phật tử tại gia, chưa
làm tròn được nhiệm vụ hiếu đạo này thì thật đáng thương xót! Chúng ta
phải khởi tâm thương tưởng và cố gắng tạo những duyên thuận tiện để nâng
đỡ, động viên, khuyến khích huynh đệ phải làm sao thực hiện xứng đáng phần
Hiếu đạo này.
Trong kinh có
dạy những lời tuy ngắn ngủi nhưng rất đặc biệt thế này:
Nay an vui sau
an vui,
Người tròn
hiếu đạo đời đời an vui.
Sở dĩ an vui
là vì biết gầy dựng nền tảng đạo đức an vui, chắc thật của con người. Cho
nên người hiếu đạo là người đã gầy dựng đầy đủ nền tảng đạo đức của con
người. Đạo đức là phần quan trọng không thể nào thiếu, người có hiếu hạnh
là người có đạo đức nên bản tâm của họ an vui ngay bây giờ và mãi mãi về
sau. Tôi nói mãi mãi về sau là vì việc làm đó được thực hiện không phải
chỉ đời này hay một đời nào, mà nó kéo dài mãi mãi nhiều đời, cho tới
chừng nào thành tựu Phật đạo mới thôi. Giống như đối trước đức Thế Tôn,
đối trước Tam bảo mình nguyện tu hành chừng nào bằng Phật mới vừa lòng
con.
Thành ra nói
đến tu hành tức là nói đến hiếu đạo, nói đến hiếu đạo tức là nói đến nền
tảng đạo đức của con người. Rõ ràng chúng ta thấy ngay nơi nhân luân, nếu
chưa hoàn chỉnh được một con người tốt đẹp thì nói gì làm Phật làm Tổ!
Trong giai đoạn làm người, mình phải là con người đầy đủ ý nghĩa, xứng
đáng là một con người. Do đó các bậc thánh nói rằng là Phật tử, nếu như đủ
duyên, có điều kiện, có niềm tin vững chắc đối với Tam bảo, thì chúng ta
quy y Tam bảo. Sau khi quy y Tam bảo rồi, giữ được những điều giới Phật
dạy là đầy đủ tư cách của một người con Phật. Sau đó, nếu chúng ta động
viên những người thân trong gia đình như cha mẹ... hướng về Tam bảo, quy y
Tam bảo như mình, cùng nhau hành trì những lời Phật dạy, giữ giới nghiêm
tịnh để hoàn chỉnh một người hoàn bị. Như vậy mới là cách đền ân cha mẹ
tròn đủ nhất.
Giữ được những
điều giới đó là hoàn chỉnh tư cách con người. Tư cách con người hoàn chỉnh
thì ngay đời hiện tại không gây tạo tội lỗi, không nợ nần với người, không
mắc mứu chuyện gì hết, cuộc sống đã thấy phần nào tự tại rồi. Còn những
người không đủ tư cách làm người thì lôi thôi với không biết bao nhiêu là
dây mơ rễ má, nợ nần trăm mối, trong lòng mắc mứu đủ chuyện, nên gương mặt
không vui, chúng ta thấy họ hiện rõ sự bất an trong từng tướng đi đứng. Đó
là một điều hiện thực.
Nếu ngay bây
giờ chúng ta có đủ phước duyên sống tốt trong đời hiện tại, không gây tạo
nhân gì để phải khổ trong tương lai, thì chắc chắn khi bỏ thân này mình
cũng tự tại, ra đi hiên ngang, đôi khi có người đón rước đàng hoàng. Chứ
còn “mắc nợ”, người ta sợ mình “quỵt nợ” nên họ chỉ: “Phải đi ngay vô con
đường đó”, tức con đường để trả lại nợ trước. Cho nên chư thánh có dạy
Ta đã vay nợ rồi thì dù có đi ngả nào, cuối cùng cũng phải đối diện với
nghiệp lực để bù đắp lại những nợ nần đó. Không thoát đường nào hết!
Đây là những điều mà người Phật tử cần phải hiểu chín chắn. Nắm vững như
vậy, chúng ta không sợ gì hết. Khỏi phải cầu khẩn ở đâu, bởi luật nhân quả
đã quá rõ ràng.
Bởi nếu cầu
khẩn mà những vị đó hóa giải, hỗ trợ được cho mình thì cũng nên cầu khẩn.
Trái lại những vị thần thánh mà chúng ta cầu khẩn đó, mình không biết rõ
lai lịch họ ra sao, ở đâu, tu hành kiểu gì... thì cầu khẩn họ là chuyện
phiêu lưu quá, phải không? Giống như quý vị làm ăn thiếu tiền, thì phải
kiếm người nào có dư tiền mới vay mượn được, chứ nhè người cháy túi mà hỏi
mượn tiền chắc họ rầy mình thêm. Sự thực là như vậy.
Cho nên hiếu
đạo ở đây là nền tảng của nhân luân. Đời này chúng ta tu hành được an vui,
giúp cho cha mẹ cũng tu hành và an vui như thế thì đời sau mình và thân
quyến cũng sẽ an vui. Là do ta gầy dựng được nền tảng đạo đức vững chắc.
Có những người tìm đạo, tha thiết muốn hành đạo nhưng đôi khi cả đời họ
chưa gặp được đạo lý hay vị thầy nào sáng suốt để chỉ cho một phương pháp
đảm bảo, thực hiện hết khổ, được vui. Có nhiều người, không hiểu nhân
duyên của họ như thế nào, cả đời lủi thủi đi tìm chỗ này, nghiên cứu chỗ
kia, nhưng cuối cùng cũng đi trật lất!
Nhiều người
sau một thời gian gầy dựng viẹâc gia đình, đầy đủ tiền tài, địa vị, danh
vọng… nhưng cuối cùng họ thấy tất cả những thứ đó không có chút gì đảm bảo
cho sự an toàn của mình. Có tiền tài nhiều thì sợ trộm cướp, lo giữ gìn
nên mất ăn mất ngủ. Có địa vị muốn giữ cho vững cũng không phải là chuyện
đơn giản. Hết kẻ này tranh chấp, đến người kia dòm ngó. Chúng ta đọc lại
cuộc đời của những vị quan ở Trung Quốc sẽ thấy, có người đang ở địa vị
tại Trung ương thì bị nghi hiềm, tâu rỗi cho tới bị biếm truất, đày đi
biên cương. Cuối cuộc đời không còn gì nữa. Con đường hoạn lộ là như vậy!
Nên rồi họ phải tìm đến với Đạo để giải tỏa. Giải tỏa gì? Địa vị, tiền
tài, danh vọng, những cái gọi là hạnh phúc của thế gian. Giải tỏa hết, bởi
vì nó không có gì bảo đảm cả. Giữ cái gì cũng thấy mệt.
Một người
quyết tâm đi tu, bỏ hết việc gia đình thì phải tu thế nào cho xứng đáng,
để không bị mang tiếng làm hỏng đi nền tảng đạo đức của gia đình, của con
người. Tu làm sao để chúng ta có thể cứu rỗi được cha mẹ, anh chị em cùng
thoát ra khỏi vòng trói buộc của thế gian. Ân nghĩa này không phải đem
thân ra phục vụ là đủ, mà phải tu tập khai sáng tâm trí cho mình và những
người thân của mình mới mong đền đáp được.
Như Tôn giả
Đại Hiếu Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ, biết tình huống của mẹ đang chịu khổ
não bức bách vô cùng, nên Ngài nỗ lực tu tập và còn nhờ thêm sự trợ giúp
của chư Thánh tăng nữa. Có sáng đạo mới có thần thông tìm đến chỗ của mẹ
Ngài, từ đó cảm nhận hết nỗi thống khổ của mẹ nên Ngài mới quay về cầu
Phật tìm phương cứu giúp. Chỗ mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên đang bị đọa, ai
tới được? Chỉ có người bị đọa mới tới chỗ đó và các bậc Bồ-tát vào trong
ấy để phá vỡ xiềng xích vô minh, cứu họ thoát khỏi kiếp địa ngục. Chỉ có
hai trường hợp như vậy thôi. Tôn giả nhìn thấy mẹ đói khát quá sức nên về
khất thực được một bát cơm, vội đem xuống địa ngục dâng mẹ, nhưng mẹ Ngài
dùng không được. Là tại vì lòng bà quá keo xẻn, chưa cởi mở ra nên tất cả
thức ăn đều biến thành lửa than. Cho nên biết quan trọng là do tâm mà ra.
Chỉ khi nào cởi mở được tâm này thì mọi cảnh duyên bên ngoài mới biến
thành thanh lương được.
Sau khi được
sự chỉ giáo của đức Thế Tôn, lễ Tự tứ trai tăng phải nhờ mười phương Tăng,
các bậc Hiền thánh tu hành đầy đủ đạo đức, các vị thiền định trên núi
non... đồng hướng tâm cầu nguyện, bấy giờ lòng của mẹ Ngài mới mở ra, tâm
rộng lớn như đại dương, muốn tất cả những tội nhân trong chỗ bà ở đều hết
đói khát, không còn thọ cực hình nữa. Nhờ phát tâm từ như thế nên mẹ Ngài
liền thoát kiếp ngạ quỷ và được sanh thiên. Tâm từ bi quảng đại có một
năng lực vô biên như thế.
Trong kinh nói
từ khi bị đọa vào trong địa ngục cho tới mãn hạn kỳ, tội nhân nghe thức ăn
là nghe lửa dữ, nghe gươm đao, nghe những khí cụ giết hại, chứ không phải
nghe mùi vị thức ăn. Cho nên vào giờ ăn chiều, trong chùa không cho khua
động chén bát vì sợ loài quỷ đói nghe tiếng khua ấy, chúng rướn cổ lên thì
bị đứt cổ chết. Bởi vì bụng của chúng to như cái trống, cổ lại bé như sợi
tóc nên lúc nào cũng đói khát mà không ăn được gì. Cho nên nghe âm thanh
chén bát khua rổn rảng họ rất khổ.
Nếu chúng ta
cứ cố thủ, sợ thiếu thốn, sợ thế này thế khác... nên cắt đứt tâm rộng lớn,
thì cuối cùng sẽ mất tất cả. Tu cho được sáng đạo, làm chủ việc sinh tử,
không bị mắc mứu bởi những pháp trần, không bị kéo lôi bởi những cảnh
duyên chung quanh thì mới mong độ mình và độ mẹ cha thoát khỏi ách trầm
luân sanh tử. Người sáng đạo trước nhất là làm chủ được mình ngay khi đang
sống đây và làm chủ được khi bỏ thân này. Nói một cách dễ hiểu hơn, người
sáng đạo là người không còn bị ràng buộc, lệ thuộc, mắc mứu bởi những cảnh
duyên bên ngoài.
Cho nên trong
chúng ta đây, ai tự tại được với tất cả cảnh duyên thì có thể gọi người đó
là người sáng đạo. Không bị lệ thuộc bởi việc ăn việc ngủ việc mặc, tiền
tài sắc dục danh vọng... đó là người tự tại. Với người sáng đạo cần ăn thì
ăn, cần ngủ thì ngủ, cần đi thì đi, bình thường an nhiên, không bị vướng
mắc bởi quá khứ, không bận bịu bởi tương lai và hiện tại sống bình thản an
nhiên. Huynh đệ nghiệm thử coi chúng ta có được phút giây nào như vậy
không?
Hồi tưởng lại quá khứ, ngồi đó mà nhớ hồi xưa mình thế này thế nọ, mình
cũng ông này bà kia, cũng lên võng xuống giường chẳng hạn, rồi sanh
phiền não thì có lợi ích gì? Nếu bây giờ chúng ta làm chủ được thì những
tưởng tượng đó không ảnh hưởng gì nổi ta. Ngược lại, nếu hiện tại mình
đang bị bức xúc hay thiếu thốn gì đó thì càng tưởng về quá khứ hoặc tương
lai chỉ càng khổ thôi. Tưởng đến quá khứ chẳng hạn như ngày xưa lớn lên,
ta cường tráng đẹp đẽ, đầy đủ tất cả những tiện nghi, bạn bè thương yêu.
Rồi đi học, đỗ đạt, thành tài, cái gì cũng như ý. Tưởng như thế trong khi
hiện tại làm rẫy dang nắng, thiếu gạo, muốn ăn cơm không có nấu, muốn đi
đâu không có tiền đi xe, những người chung quanh không phải là anh em ruột
thịt…... như vậy có phải càng tưởng càng khổ không?
Những gì mất mát, những gì đã qua rồi thì nó đã qua. Chúng ta sống theo
tinh thần Phật dạy là sống mãnh liệt trong giây phút hiện tại. Sống bằng
tinh thần của người Phật tử tin kính Tam bảo. Ta tin rằng với trí tuệ và
lòng từ bi, mình có thể gầy dựng được một nền tảng đạo đức vững chắc cho
bản thân và mọi người nên mình cố gắng. Nếu quí vị có tưởng tượng thì cũng
tưởng chừng hai, ba mươi phần trăm thôi, rồi lo ngủ nghỉ cho khỏe, đặng
ngày mai cuốc đất làm rẫy. Kệ nó! Có cơm ăn cơm, không có cơm thì ăn bắp
ăn khoai, không bắp khoai thì uống nước, cũng cứ làm. Bởi ta tin chắc chắn
ngày hôm nay ta làm khoảng đất này chưa xong thì ngày mai, ngày kia nó
cũng sẽ xong. Quan trọng là có làm thì có kết quả, nhất định những ngày kế
tiếp nó sẽ có hoa màu, đáp ứng lại tâm nguyện của chúng ta.
Như những
huynh đệ ở đây từ xưa đến nay thì thấy rõ, chỗ này lúc mới khai thiên lập
địa toàn là rừng rú cỏ gai mịt trời, quí thầy ăn độn khoai bắp, bo bo mỗi
bữa. Đâu ai có thể tưởng tượng nổi bây giờ có đường đi, bà con đông đảo,
chùa chiền khang trang như vầy. Cho nên chúng ta tin rằng mình cứ tu chân
chánh như lời Phật dạy, còn việc đói no không cần phải bận lòng, rồi đâu
cũng sẽ vào đó. Thực hiện đời sống tu hành như thế, chúng ta tin chắc rằng
tương lai sẽ không tối.
Ngày xưa chính
tay Hòa thượng trồng hàng dương đi vào Thiền viện, Ngài nói với chúng tôi:
- Chánh điện
Thường Chiếu sau này nằm ngay chỗ đó.
Thầy nói như
vậy và sự thực bây giờ đúng như vậy, chánh điện chùa nằm ngay vị trí Hòa
thượng đã điểm gậy. Người con Phật chúng ta tin quyết liệt vào đời sống
hiện tại đây là thiết thực nhất. Có niềm tin mạnh mẻ như thế mới gầy dựng
được nền tảng vững chắc. Đã gầy dựng được nền tảng rồi thì tất cả những
thứ khác sẽ theo đó mà hiện thành. Người xưa dạy “Sở dĩ được an vui là do
tạo được phước hay khéo gầy dựng được nền tảng. Và đã tạo được nền tảng
rồi thì chẳng những ngay hiện tại mà đời sau, phúc lành ngày càng tăng
trưởng”.
Có vị tăng tu
hành rất chân chánh, trở thành một người Thầy đầy đủ đạo đức trí tuệ. Khi
lớn tuổi, nhân một dịp thầy trở lại quê hương, đi ngang qua vùng quê, bấy
giờ những người thân quen khi xưa phần nhiều đã qua đời hết. Còn lại những
em bé thì nó không biết ông thầy là ai? Thầy đi lòng vòng trên các nền nhà
của bố mẹ, của chú bác, ông bà ngày xưa… Bây giờ tất cả đều thay đổi hẳn.
Những em nhỏ kéo tới nhìn thầy một cách ngạc nhiên. Thầy thấy chúng có
những nét hao háo giống chú mình, giống dì mình, giống ông nội ông ngoại
mình… Chắc là đám nhỏ nó bà con với mình đây. Thôi thì gặp họ cứ “Mô Phật!
Mô Phật!” là xong. Và thầy nói với họ: - Có dịp tôi đi ngang qua đây ghé
thăm. Nơi này ngày xưa là chỗ gia đình của tôi.
Đêm đó thầy ở
lại trên ngôi nền cũ. Là người tu hành sáng đạo, nên trong đêm có những
thiên thần đến kính lễ Ngài. Vì vậy giữa đêm trời tối bà con chung quanh
thấy chỗ đó sáng. Tự nhiên trong lòng họ thấy vui lên, rồi cùng bàn tán
với nhau: Ông thầy này tới hồi chiều, chưa nói bài kinh nào hết cũng không
nghe thầy tụng “Sám hối sáu căn” vậy mà sao có thầy, tự nhiên chúng ta
thấy vui quá. Thế là suốt đêm họ cũng không ngủ nữa, vì vui mà thức. Sáng
họ rủ nhau chạy qua coi thầy có bị gì không? Qua thấy thầy vui vẻ, bình
thường, bà con cũng vui theo. Bấy giờ thầy nói:
- Bây giờ tôi
muốn gầy dựng lại chỗ này. Bởi vì trước kia đây là nơi chôn nhau cắt rún
của tôi. Do vậy, tôi muốn tạo một cái thảo am ở đây để có chỗ hương khói
cho giòng họ.
Mọi người hoan
nghênh, cùng nhau hỗ trợ thầy gầy dựng thảo am. Sau khi thảm am được dựng
xong, đêm đêm chư Thiên về đó, hào quang sáng tỏa cả vùng. Dù vị thầy đó
gầy dựng xong thì đi hóa đạo ở các nơi, không hề quay lại chỗ ấy lần thứ
hai nữa. Nhưng nhờ phước đức thầy đã gầy dựng được cảm nên như thế. Từ đó
về sau bà con trong vùng không ai bảo ai, đều đến thảo am hương khói rất
ấm áp. Họ càng phấn khởi khi đêm đêm thấy trên vùng thảo am có ánh sáng và
ngửi thấy mùi hương lạ nữa.
Cho nên chỉ
khi nào chúng ta sáng đạo, tự tại được với các pháp, làm chủ được mình thì
mới thực hiện được “hiếu đạo” một cách trọn vẹn. Tôi nêu lên gương hạnh
của những bậc đi trước để những ai muốn đền đáp ân thâm nghĩa trọng của
song thân thì phải nỗ lực phấn đấu tu hành như những người xưa. Có tròn
được nhân cách của mình, mới tròn đầy công đức. Đầy đủ công đức thì mọi sự
đều viên mãn một cách tốt đẹp, giống như vị thầy kia vậy. Thầy không nghĩ
mình có duyên về được quê hương, cũng không nghĩ phát hiện ra chỗ chôn
nhau cắt rún của ông bà cha mẹ ngày xưa, không nghĩ có chư Thiên theo hỗ
trợ, nhưng thầy thành tựu được tất cả. Bởi chư Thiên đó là ai? Là bà con
giòng họ của thầy, chứ không ai lạ. Do công đức tu hành của người đạt đạo,
nên cửu huyền được sanh thiên. Cho nên nghe thầy về họ tới hỗ trợ, thăm
viếng. Ánh sáng của họ khiến cho bà con giòng họ phấn khởi, cùng nhau gầy
dựng được ngôi Tam bảo nơi quê nhà.
Phật nói trong
Tam thiên Đại thiên thế giới, cầm mũi dùi chỉa xuống đất, không nơi nào mà
không đụng tới thân của Ngài. Tức muốn nói Ngài đã sanh đây chết kia, loay
hoay luẩn quẩn trong Tam giới này nhiều đời nhiều kiếp. Ngài bỏ thân thọ
thân, không có nơi nào là không có thân của Ngài. Chúng ta cũng là bà con
ruột thịt của Ngài, chứ có ai xa lạ đâu. Nhưng tại lâu quá rồi không gặp
nên quên! Đức Phật tự nhớ tự biết chúng ta là con cháu của Ngài, nên hết
lòng chỉ dạy. Đứa nào khôn thì ráng tu tập lên, còn đứa nào dại thì cứ bì
bõm trong chỗ sình lầy. Chúng sanh luân hồi sanh tử trải dài kiếp số vô
tận, sanh đây chết kia, đổi thân đổi họ đổi hình đổi dạng, nhưng tất cả
đều là bà con ruột thịt với nhau hết. Do đó chúng ta hãy sống thương yêu,
hết lòng giúp đỡ nhau, chớ vì sao lại não hại nhau?
Phật dạy người tu tập thiện tâm, đầy đủ hiếu hạnh thì dù là tại gia hay
xuất gia đều được an vui đời này đời sau. Do đó chúng ta nhớ hoàn thành
hiếu đạo, đầy đủ thiện tâm. Kế nữa, phải biết mục đích của việc tu hành là
để đạt được giác ngộ giải thoát, có giác ngộ giải thoát thì mới đủ năng
lực đưa cha mẹ ra khỏi bể khổ sanh tử. Cho nên nói
Hiếu là nguồn của trăm đức Hạnh là gốc của
con người.
Muốn hoàn
thành hiếu hạnh, chúng ta phải tu hành thế nào? Trong kinh Phật dạy
Phải phát tâm Bồ-đề. Điều này rất chắc thực. Người tu mà không phát
tâm Bồ-đề thì cứ luẩn quẩn trong vòng luân hồi mãi thôi. Sanh đây chết
kia, trả vay mãi không thoát ra được. Tâm Bồ-đề là gì? Có thể nói là mũi
tên bắn thủng ngoài tam giới, không vướng mắc vào lưới phúc báo nhân
duyên. Thành ra nói Phát tâm Bồ-đề tức là Phát tâm cầu thành
Phật.
Cầu thành Phật
chứ không cầu thành Trời thành Thánh gì hết. Phát tâm cầu giác ngộ giải
thoát, ra khỏi tam giới. Muốn vậy, điểm đầu tiên là phải tu thiền định. Do
thiền định thân tâm yên lắng, được an vui. Ta có an vui mới đem nguồn an
vui đến cho mọi người, trong đó có thân bằng quyến thuộc của mình. Như vậy
mới xứng đáng là người biết ơn và đền ơn đầy đủ. Nói ngược lại người biết
ơn và đền ơn là người có thiền định, trí tuệ, là người an vui giải thoát.
Có khi chúng
ta biết ơn mà không đền ơn được, vì không có cái gì để đền. Như vị thầy
tôi vừa kể, nếu thầy tu không ra gì thì về quê nói cái gì, bà con làng xóm
cũng không ai nghe, bà con đã mất không được phúc báo sanh thiên, làm sao
về hỗ trợ cho thầy. Không có những sự hỗ trợ ấy, thì Phật sự khó thành.
Quý vị nhớ ta làm nên một việc gì, luôn luôn nhờ có phúc hiện tại và luôn
cả những duyên phúc trong quá khứ hỗ trợ nữa. Cho nên trong nhà Phật có
nói: Một vị Phật ra đời ngàn vị Phật xuất thế để ủng hộ. Một vị
Bồ-tát thị hiện thì vô lượng vô lượng những vị Bồ-tát khác cùng có mặt để
hỗ trợ cho Phật sự của vị đó được thành tựu.
Muốn “sáng
đạo”, người tu thiền phải có thiền định, có trí tuệ, có an vui mới tự tại
đối với các pháp. Như thế mới có thể làm những việc công đức để đền đáp
lại ân nghĩa với những người mình đã thọ ơn. Bây giờ huynh đệ kiểm nghiệm
lại việc tu hành của mình xem đã có thiền định chưa? Ân nghĩa của chúng ta
quá nhiều mà không biết mình ngồi thiền có được định không? Hằng ngày mình
tu có tích cực không, có quyết liệt không, có đảm bảo mình thực sự an vui
không? Hay chúng ta còn nhăn nhó, còn lo lắng chuyện này chuyện nọ.
Thiền là gì?
Là không dính cái này, không mắc cái kia. Người vào thiền, được định, các
pháp không làm gì được họ, người đó tự tại đối với tất cả cảnh duyên. Nếu
kiểm nghiệm lại chúng ta chưa được thiền định thì phải cố gắng. Làm sao
đối với tất cả các cảnh duyên, ta không bị vướng mắc, không bị lụy bởi cái
này cái khác. Người tu được như thế mới dám nói đến đền ơn.
Điểm thứ hai
là không làm phiền chúng sinh, luôn sống trong niềm vui tu tập, gọi là
người Biết ơn và đền ơn. Không làm phiền chúng sinh là thế nào? Tức là
người có đầy đủ trí tuệ, sống bằng trí tuệ. Mọi sắp đặt trong đời sống đều
được soi sáng bởi trí tuệ nên cuộc sống yên xuôi. Người như thế có thể
sống ở chợ, có thể sống trong rừng, có thể sống ở núi non, chỗ đông người
cũng sống được, chỗ vắng người cũng sống được. Ở bất cứ chỗ nào cũng không
làm phiền lụy đến ai hết.
Người tu hành
mà còn làm phiền lụy người nọ người kia thì biết rằng người ấy chưa sống
được với lời dạy của các bậc Thánh. Các Ngài dạy rất rõ ràng cụ thể, đời
sống của người tu hành đầy đủ định tuệ thì không gây phiền phức nào đối
với chúng sanh. Đó là người luôn luôn sống trong niềm vui trọn vẹn của sự
tu tập. Do không gây phiền lụy đến chúng sanh nên công đức tăng trưởng,
lại có duyên lành với mọi người nên hay giáo hóa được tất cả. Đó là biết
đền tứ trọng ân.
Tôi biết có
một vị cư sĩ không bà con thân tộc, nhưng họ sống an nhiên trong một vùng
quê nọ. Không gia đình, không vợ con, không nhà cửa, không tài sản gì hết
nhưng lúc nào vị ấy cũng vui vẻ. Vì thế bà con trong vùng xem vị ấy như là
người thân của họ. Ai muốn làm gì vị ấy đến làm. Tới bữa ăn, ai cho ăn thì
ăn, ai cho tiền thì nhận, không cho thì thôi, không phiền hà chi. Nhờ thế
càng ngày mọi người càng thương mến. Nhờ được phước, vị ấy mạnh khỏe không
có bệnh hoạn chi nên cuộc sống thật an ổn. Một thời gian dài như vậy, từ
đời sống bình dị vị ấy tỏa ra một sức sống mãnh liệt đối với bà con xóm
làng. Tiếng lành đồn xa, nhiều người tìm đến để nhờ vị ấy phụ việc này
việc nọ. Vị ấy lúc nào cũng sẵn sàng, vui vẻ. Không biết người như thế có
tu hay không tu nhưng rõ ràng là họ sống rất tự tại.
Cho nên có
những người tuy không xuất gia, nhưng lại hành hạnh Bồ-tát. Họ không nói
mang chí nguyện cao cả chi hết, nhưng lại đem từ bi trí tuệ của Phật pháp
đi vào cuộc đời. Quả thực hành động, việc làm, cuộc đời của những con
người ấy rất dễ đi vào lòng người và có sức cảm hóa rất mạnh mẽ. Và trong
cuộc sống quanh ta, thật ra có rất nhiều những con người như thế. Như
những người phát tâm sưu tầm thuốc Nam, họ vào rừng vào núi kiếm thuốc về
cho bà con, mà không cần một lợi nhuận nào. Tối đến anh em bạn đạo trao
đổi đạo lý với nhau thật vui vẻ, hài hòa. Sống cuộc đời như thế thì hay
biết mấy!
Trong kinh A
Hàm kể lại:
Một hôm đức
Thế Tôn đến xin nghỉ nhờ nơi chỗ của một tu sĩ trong khu rẫy vắng. Vị ấy
nói:
- Ở đây, tôi
nghỉ đơn sơ như thế này, chỉ có một vạt tre thôi. Nếu Ngài muốn ở thì cũng
chịu cực nằm chung với tôi, chứ không thể hơn được.
Đức Phật nói:
- Được rồi.
Tối lại, đức
Phật quan sát xem vị tu sĩ này làm gì. Ngài thấy thầy hướng về Tinh xá Kỳ
Hoàn tọa thiền. Chờ thầy tọa thiền xong, tới giờ nghỉ đức Phật hỏi:
- Ông tu theo
ai? Thầy của ông là ai?
Vị ấy khai ra,
thầy của mình là đức Thích Ca Mâu Ni, nhưng lâu nay vẫn chưa được gặp
thầy. Chỉ nương theo pháp Phật dạy mà tu thôi, chưa đủ duyên về tới Tinh
xá Kỳ Hoàn đảnh lễ Thế Tôn nữa. Đức Phật hỏi:
- Vậy ông có
biết đức Thích Ca Mâu Ni chưa?
- Thưa Ngài,
thuở nay tôi nghe nói chứ chưa từng biết. Nghe nói đức Phật có ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, là bậc Thế Tôn trời người đều quý kính, nhưng
thực sự tôi chưa được gặp lần nào.
Bấy giờ đức
Phật chỉ cho vị tu sĩ kia phương pháp tu hành, mà tuyệt nhiên không nói Ta
là đức Phật. Song qua pháp tu của Phật nói, vị tăng kia nhận ra chính đây
là đức Thế Tôn. Cuối cùng thầy thưa cùng đức Phật:
- Xin hỏi, vậy
Ngài là ai?
- Ta là
Cù-đàm.
Bấy giờ vị tu
sĩ kia mới đảnh lễ đức Thế Tôn trong niềm cảm kích và ngạc nhiên vô cùng.
Tôi dẫn câu chuyện này để nói đến một điều là trong việc tu hành, có khi
chúng ta không cần phải chứng tỏ mình là gì gì cả. Quan trọng là tư cách,
phẩm hạnh đạo đức của mình có chân chánh hay không, tu hành có được giác
ngộ giải thoát không, có trí tuệ và từ bi tròn đầy hay không? Đó là những
pháp hành tiêu biểu cho giáo lý của đức Phật, mà đòi hỏi chúng ta phải
trải nghiệm, thân chứng trong thầm lặng.
Lại một điều
nữa, trong giáo pháp của Phật có rất nhiều phương tiện. Chúng ta không
nên bị ràng buộc vào bất kỳ một phương tiện nào hay hình thức nào. Cốt yếu
phải đạt được mục đích cứu cánh là giác ngộ giải thoát. Có người xuất gia
vào thiền viện tu tập, nhưng cũng có những vị cư sĩ tu tập rất đắc lực.
Nghĩa là làm sao có an lạc thực sự là tốt. Sở dĩ có an lạc thực sự là do
nền tảng tu hành đã vững chắc, họ làm chủ được, chớ không phải cái an lạc
nói suông ở miệng.
Chúng ta
thường nghe trong Phật pháp nói người tu hành chân chính, được an vui, làm
chủ được mình là người được Niết-bàn. Niết-bàn đó ngay hiện tại và khi bỏ
thân này cũng được Niết-bàn an vui thực sự. Niết bàn là Thường Lạc Ngã
Tịnh, là cái bất sinh bất diệt. Hòa thượng thường dạy chúng ta là hằng
sống được với tánh giác bất sinh bất diệt của mình. Người nào không bị
động, không bị lệ thuôïc, không vướng mắc vào tất cả cảnh duyên, người đó
có thể nói là an ổn nhập Niết-bàn ngay trong hiện tại. Nhà thiền gọi là
người đại lực lượng. Đảm bảo đó là người gầy dựng được Niết-bàn vĩnh viễn.
Sau cùng,
người tu hành sáng được việc của mình rồi, phải phát khởi lòng thương
tưởng đến tất cả chúng sinh. Đây chính là tâm từ bi rộng lớn. Tâm này
không phải là tâm của người cứ ngồi đó mà nói “Tôi từ bi! Tôi từ bi”, mà
tâm ấy phải được thể hiện cụ thể bằng hành động. Giống như chuyện bà Thanh
Đề. Khi phát khởi được tâm lượng rỗng rang rồi, thì nó trùm khắp. Với tâm
nguyện rộng lớn ấy, bà không chỉ muốn loài quỷ đói trong địa ngục ấy mà
tất cả các loại ngạ quỷ ở những nơi khác đều được hưởng những phúc lạc
trong ngày Tôn giả Mục Kiền Liên cầu Thánh tăng cứu độ cho bà chuyển tâm.
Nhờ thế mà bà mới được sanh thiên, tất cả chúng sinh cùng chung cảnh khổ
của bà cũng được sanh thiên hết. Nếu không phát được tâm rộng lớn ấy, thì
dù Bồ-tát Địa Tạng có dùng tích trượng phá tan địa ngục, địa ngục ấy vẫn
hình thành trở lại để giam giữ những chúng sanh không chuyển được nghiệp
của mình.
Như tôi đã nói
người gầy dựng được nền tảng đạo đức là người phát tâm Bồ-đề, thành tựu
được tâm Bồ-đề viên mãn, người đó là người biết thương tưởng đến tất cả
chúng sinh. Trong cuộc sống, huynh đệ chúng ta không ai được vẹn toàn trăm
phần trăm cả. Người được cái này thì thiếu cái kia. Cho nên chúng ta hoan
hỷ tha thứ, cảm thông, đùm bọc, để làm sao cùng được an vui. Mình được cái
gì thì cũng mong muốn mọi người được cái ấy. Vừa được bát cơm ngon, mình
muốn tất cả cũng đều được thưởng thức bát cơm ngon. Được đi trên cây cầu
bình yên không sợ gãy, mình muốn bà con cũng được đi trên những cây cầu
như thế.
Chúng ta cố
gắng làm sao mỗi việc làm, mỗi lời nói đều không làm khổ mình khổ người.
Cho nên cũng cần phải lưu ý đến khẩu nghiệp. Phật thường dạy, chúng ta
phải biết tịnh khẩu nghiệp, tức là giữ trong sạch nghiệp miệng của mình.
Khẩu nghiệp của chúng ta thật ra quan trọng vô cùng. Kinh nói “Phù sĩ xử
thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân, do kỳ ác ngôn”, nghĩa là “phàm
người xử thế, như búa bén nằm ở trong miệng, sở dĩ chém thân là do lời nói
ác”. Trong mười điều thiện hay mười điều ác, miệng chiếm hết bốn. Cho nên
tu cái miệng rất quan trọng.
Câu chuyện cô
Lộc Mẫu hơi dài, tôi lược kể đại khái thôi. Gia đình nọ có người con gái
rất đẹp. Thường thường cô ở nhà giữ nhà, mỗi ngày bà mẹ đem thức ăn đến.
Có một hôm bà già đem cơm tới trễ. Cô thán oán: “Mẹ ta ngày nay không biết
vì lẽ gì mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta chịu như thế
này. Lại nói: Mẹ ta ngày nay không bằng loài súc sinh. Ta thấy loài súc
sinh như con hươu, một khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ, nữa
là mẹ ta!…” Chỉ vì bà mẹ đem thức ăn đến trễ mà cô nổi sân phát ra những
lời nói ác như thế. Hậu quả là năm trăm đời cô bị đọa vào trong loài hươu
nai.
Nhưng nhờ nhân
duyên thế này. Sau khi cô phát ác ngôn, lúc đó có một vị Bích Chi Phật tu
trong vùng ấy, đi ngang qua trong giờ ngọ, khiến cho cô thấy. Cô phấn khởi
phát tâm cúng dường hết phần ăn của mình cho Ngài. Vị đại thánh kia cũng
hoan hỷ nhận sự cúng dường này. Sau khi nhận rồi Ngài thuyết pháp cho cô
nghe. Nên khi đã mãn báo sinh trong loài nai hươu, có một khoảng cô được
làm Hoàng phi, sinh ra toàn là hoa sen, đi tới đâu dưới chân cũng có hoa
sen đỡ. Đó là nhờ phúc cúng dường cho vị Bích Chi Phật..
Chúng ta thấy
rõ, cúng dường thì có phước nên được quả phước, nhưng nói ác vẫn không
tránh khỏi thọ nghiệp ác. Nhân quả lúc nào cũng phân minh như thế. Cho nên
tôi muốn nhắc chúng ta nhớ Tu cái miệng. giữ cái ý của mình. Trong
đạo Phật có những pháp tu lớn lao vô cùng, riêng tôi thì có những pháp tu
rất bình thường mà tu cho trọn vẹn thì cũng thành Phật như thường. Huynh
đệ chúng ta tu cái miệng, giữ cái ý, tức là tu cái tâm. Không có ác ngôn
là do từ thâm tâm, từ ý niệm của mình thanh tịnh. Đó chính là nền tảng của
việc tu hành.
Buổi nói
chuyện hôm nay, để tỏ lòng biết ân và đền ân sư trưởng, cha mẹ, đàn na thí
chủ của chúng ta, tôi xin nhắc nhở tất cả huynh đệ mình cùng nhau gầy dựng
được nền tảng đạo đức cho mình thật vững chắc. Gầy dựng bằng cách nỗ lực
tu tập cho sáng đạo, từ đó phát khởi đại từ bi tâm giúp cho tất cả chúng
sanh đều thoát khỏi lầm mê, để trở về nẻo giác. Đó chính là cách đền ân
cao đẹp và tròn đủ nhất của người con Phật.
Mong tất cả
quí vị nghe nhận, lãnh thọ và hành trì thật trọn vẹn, để hồi hướng phước
báo này về cho song thân và chúng sanh đều trọn thành Phật đạo. |