TRÒN ĐỨC NHẪN ĐỂ TU
Tinh thần
nhẫn nhục trong nhà Phật được xem như một yếu tố rất quan thiết của người
tu hành. Nếu như sự nhẫn chịu của chúng ta còn non kém, không hoàn chỉnh
thì việc tu khó đi đến kết quả viên mãn. Vì vậy chúng ta phải làm sao Tròn
đức nhẫn để tu.
Trong kinh
dạy, nhẫn là mẹ của tất cả các công đức nên có nhẫn mới thành tựu được đạo
nghiệp. Vì vậy nhẫn là đỉnh cao để chúng ta hướng đến thành công. Nếu chưa
đầy đủ đức nhẫn huynh đệ chúng ta cần phải kiện toàn cho đầy đủ. Vì khi
đầy đủ đức nhẫn, dù đi chưa tới đích nhưng chúng ta đã có điểm tựa vững
vàng, mình có thể quan sát rõ ràng đường đi cũng như chỗ đến. Chỉ cần
quyết tâm và trí tuệ sáng suốt nữa là xong.
Để thực hiện trọn vẹn được công phu chúng
ta cần phải khẳng định niềm tin nơi chính mình. Người xưa làm được, ta làm
được, đó là điều tất yếu. Tổ Qui Sơn nói: “Người xưa trượng phu thì ta
cũng trượng phu”. Người xưa với chúng ta không khác. Nếu có khác là hôm
nay chúng ta có quá nhiều thuận lợi, quá thông minh, nên dễ phóng tâm, dễ
kẹt với trần cảnh nên cũng dễ bị ràng buộc. Đó là hơn mà hóa ra lại tệ,
hơn cái tệ. Nếu biết nhìn thẳng, nói thẳng, thực hiện thẳng thì ta cũng sẽ
thành tựu như người xưa.
Trong thời đại văn minh hiện nay, cuộc
sống sung túc hơn ngày xưa nhiều, chúng ta ít gặp khó khăn về mọi mặt, do
đó đức nhẫn cũng ít được trui rèn. Tuy nhiên môi trường quá thuận lợi càng
làm cho chúng ta phải có đức nhẫn nhiều hơn, đó là an nhẫn tri túc, không
dám hưởng thụ nhiều. Là người tu, những gì không cần thiết, không có lợi
cho đời sống phạm hạnh, làm vướng víu bận bịu cho công phu, thì ta phải
gạt ra bớt. Cho nên đời sống vật chất nhiều thì đời sống tinh thần đạo đức
thiếu. Hai phương diện này thường tỷ lệ nghịch với nhau. Tại vì khi đam mê
thụ hưởng vật chất là tăng trưởng lòng tham, tăng trưởng tạo nghiệp ác,
nên dĩ nhiên đạo đức phải bị tuột dốc thôi. Điều này cũng dễ hiểu. Cho nên
người chân tu phải nhẫn với thuận cảnh cũng như nghịch cảnh mới được.
Người xưa không có miếng đất cắm dùi mà
nhảy thẳng vào đất Như Lai, thật sự an ổn. Còn chúng ta bây giờ nhiều mẫu
đất thênh thang, mà không nhảy vô đâu được hết, chỉ đi lòng vòng bên ngoài
thôi. Nhìn cây cảnh, núi non, trời trăng mây nước mà không nhảy vào chỗ an
ổn thực sự, nên cứ bất an hoài. Người thâm nhập lý đạo, khi nhìn vào một
cảnh nào đó vẫn không bị cảnh ấy kéo lôi, tâm không dao động, không vướng
mắc. Điều này tế nhị một chút chúng ta sẽ thấy. Lúc nào lòng rỗng rang,
mọi thứ chung quanh không làm gì được ta. Nghe âm thanh, gió mát, mọi thứ
hiện bày trước mắt đều an lạc, đều là Phật pháp. Ngược lại, khi trong lòng
ngổn ngang trăm mối, lúc đó dù cho quạt máy quạt vù vù mình cũng thấy nổi
nóng như thường. Trời mưa thì bực bội sao mưa hoài, trời nắng thì hậm hực
sao nắng quá … Bởi trong lòng không yên nên mọi thứ bên ngoài cũng rối
tung lên. Nên Phật nói tâm làm chủ tất cả là vậy, do tâm mà các cảnh đổi
khác.
Nguồn thiền tại Việt Nam được khai sáng
đầu tiên bởi tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài được truyền thừa từ Tam tổ Tăng Xán
ở Trung Quốc. Sau khi Tam tổ truyền tâm ấn cho, dạy Ngài nên qua phương
nam truyền bá Thiền tông. Vâng lời thầy Ngài đến Việt Nam, gầy dựng chiếc
nôi Thiền tông đầu tiên tại trung tâm Luy Lâu, tức chùa Dâu bây giờ, ở phủ
Thuận Thành, Bắc Ninh. Trung tâm thiền thứ hai do tổ Vô Ngôn Thông cũng từ
Trung Quốc truyền sang, khoảng thế kỷ IX. Vô Ngôn là không nói, vì Ngài
thâm trầm ít nói mà hiểu biết thâm hậu nên có danh hiệu như thế.
Ngài đến pháp hội của Thiền sư Bách
Trượng, nghe vị tăng hỏi:
- Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại
thừa?
Tổ Bách Trượng trả lời:
- Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự
chiếu.
Ngay câu trả lời này Ngài hoát nhiên đại
ngộ. Qua sự đối đáp của tổ Bách Trượng với một vị tăng khác mà Ngài ngộ
đạo, thật là trí tuệ quá nhạy bén, chớ không phải thường.
Từ câu trả lời này, chúng ta có thể soi
thủng được chỗ nào không, có tuệ nhựt tự chiếu không? Cái nghe, cái ghi
nhận của chúng ta chỉ hời hợt bên ngoài, vì chạy theo lời nói, âm thanh để
suy tư phân biệt nên không có mặt trời trí tuệ chiếu soi. Với người có
công phu thâm hậu, một phen nghe liền nhảy thẳng vào chỗ an ổn. Ngược lại,
kẻ đa ngôn đa lự chạy theo thinh sắc, không vào được chốn ấy thì mang gông
đội cùm suốt đời suốt kiếp.
“Tâm địa nhược không” là đất tâm nếu không
thì “tuệ nhựt tự chiếu” tức mặt trời trí tuệ tự chiếu. Đất tâm chúng ta
đầy các thứ tạp nhiễm, làm sao ánh sáng trí tuệ chiếu thủng hết đây? Nhảy
vô đất tâm thanh tịnh mát mẻ không được thì phải đi bộ chứ sao bây giờ!
Làm cách nào để nhảy vô chỗ này? Tâm chúng ta nếu không phiền não, không
vướng mắc gì hết thì nhảy vô được thôi. Bởi vì chính mình làm cho nó đầy ứ
các thứ ô uế, thì bây giờ cũng phải chính mình làm cho nó không. Đâu thể
hồi xưa mình làm nó nhơ uế rồi bây giờ nhờ ai lọc lừa giùm được.
Hồi ta chưa biết gì hết, chừng bốn năm
tuổi bố mẹ dẫn vô trường mẫu giáo, vừa thả tay ra mình khóc ầm trời đòi
dính với mẹ, liền với bố không tách rời được. Tâm địa bấy giờ có gì đâu.
Đến khi lớn lên một chút có bạn bè nọ kia, rồi dài dài cho tới về sau thôi
thì mặc tình tiếp thu, nuôi dưỡng, phát huy không biết bao nhiêu vấn đề
của cuộc đời. Tâm ta đầy kín đủ thứ thế sự. Nào là văn hóa, văn minh, khoa
học kỹ thuật… Bây giờ nó thành một cái kho. Vị nào càng lớn tuổi thì cái
kho ấy càng lớn, chắc bằng khuôn đất 52 mẫu này. Đó là nói theo hình thức
giới hạn cho vui thôi, chớ cái kho ấy vô tận, bao nhiêu nó cũng chứa hết,
ngổn ngang hàng trăm hàng vạn thứ, cái này chồng lên cái kia, cái kia tống
lên cái nọ.
Bây giờ làm sao chúng ta rọi ánh sáng trí
tuệ vào đó cho nó tan hết. Nào là thương, ghét, cây, đá, nhà lầu, xe hơi,
địa vị, tiền tài, sắc đẹp v.v… cho một pha vào là quét sạch hết. Đó là
ngọn đèn tâm. Một khi tâm ta sáng lên thì bóng tối ngàn năm lui mất. Cho
nên Tổ dạy “đất tâm nếu không” là mở cửa cho chúng ta vào. Ngộ là gì? Là
nhận ra. Người xưa chỉ một câu nói thôi, liền thấy được cửa vào, đó là nhờ
biết dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi. Hòa thượng Viện trưởng thường dạy,
tánh giác của chúng ta, dù mình có cố tình nhuộm nó với các thứ tạp nhiễm
thế gian, nó vẫn không bao giờ ô nhiễm. Ô nhiễm là các thứ rác rưởi bên
ngoài thôi, chớ tâm ta luôn luôn trong sáng thanh tịnh. Cho nên chỉ cần
dứt trừ các thứ bên ngoài kia thì bản tâm hiện tiền, không chạy tìm kiếm ở
đâu xa.
Lời đáp của tổ Bách Trượng về pháp môn đốn
ngộ của Đại thừa là như thế. Ngài Vô Ngôn Thông một phen nghe qua liền
ngộ, đây gọi là đốn ngộ. Chữ “Đốn” là nhanh chóng, vượt qua, thẳng tắt.
Thế nên dòng thiền thứ hai có mặt ở Việt Nam chúng ta là thiền Vô Ngôn
Thông. Ngài đến làng Phù Đổng chùa Kiến Sơ khai mở dòng thiền tông. Bây
giờ ngôi chùa đó vẫn còn. Tổ Vô Ngôn Thông đến đạo tràng này, thể hiện
triệt để sở trường của mình là biết mà không nói. Đây là chỗ tôi rất
thích. Chúng ta đừng mặc cảm mình không biết nói gì hoặc nói năng không
lưu loát nên không thể hành đạo, hóa đạo. Thưa, không phải đâu. Cốt ở tâm
giác ngộ, triệt ngộ hay không thôi.
Mỗi vị đều có một sở trường, vị nào nấu ăn
ngon thì ngộ đạo rồi sẽ dùng tài nấu ăn của mình, nấu được cơm Hương Tích.
Tất cả thức ăn qua tay vị này đều biến thành trân tu thượng vị cúng dường
chư Phật, Bồ-tát. Cúng dường chúng sanh ăn cũng khiến chúng sanh được lợi
lạc. Phật pháp bất ly thế gian pháp. Thiền là gì? Là sự sống tỉnh thức,
thể hiện tràn đầy, đi đứng nói năng, ngồi nằm tiếp xúc gì, đều tuệ nhựt tự
chiếu. Nếu lòng mình bình thản không bị ràng buộc lỉnh kỉnh bởi bất cứ thứ
gì thì đất tâm rõ ràng là không.
Khi tu chúng ta cố gắng phát huy sở trường
của mình. Tuy nhiên, chủ yếu nhất vẫn là đức nhẫn. Thiếu đức nhẫn chúng ta
không thể phát huy, kiện toàn được sở trường của mình. Nhẫn là chịu đựng,
âm chữ Hán có kèm theo chữ nhục, nhưng không phải chịu nhục như người ta
thường nói. Người nhẫn nhục là người có sức mạnh, gầy dựng vững chắc nền
tảng công phu tu tập. Có thể nói, tu bất cứ hạnh nào nhưng thiếu nhẫn cũng
không thành tựu cả. Chúng ta nhẫn tùy theo phương thức, hoàn cảnh, điều
kiện, làm sao luôn luôn nội tàng đức nhẫn ở bên trong.
Ở nước ta có chuyện Quan Âm Thị Kính, trải
qua nhiều lần oan khiên thấu trời nhưng bà đều nhẫn được hết. Từ đòn roi
tra tấn cho đến lời mắng chửi thậm tệ của người đời, bà đều vượt qua tất
cả. Nhưng khó làm hơn cả là bồng đứa con của Thị mầu vào chợ xin sữa nuôi
nó. Chấp nhận tiếng đời dị nghị, chớ không nỡ để một sinh linh phải chết
vì bị mẹ bỏ như thế. Đó là những điều kiện thành tựu đức nhẫn của bà. Ngày
nay người ta ca Bồ-tát Quán Thế Âm đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn là nhờ
những đức nhẫn ấy của Ngài.
Làm sao để có sức nhẫn như thế? Phải gầy
dựng từ nội tàng trải qua một thời gian dài, nó mới phát thành năng lực
đặc biệt. Quí vị đừng nghĩ với hoàn cảnh bây giờ chúng ta không nhẫn được,
làm được chứ. Thời nào cũng có những người gan dạ vô cùng. Như bây giờ
người ta dám ngồi trên phi thuyền đổ bộ lên nguyệt cầu, lên hỏa tinh, thổ
tinh v.v.. rõ ràng người thời nay gan dạ và sức chịu đựng rất lớn. Vừa
hiểu biết vừa có một sức chịu đựng. Tôi nghe nói muốn đổ bộ xuống nguyệt
cầu, phải từ trong phi thuyền mẹ bắn ra, mới đáp xuống được nguyệt cầu.
Chỗ đó hoàn toàn khác địa cầu của mình, qua vùng khí quyển lạnh cắt da,
mêng mông thiên địa, phiêu lưu ghê gớm. Vậy mà con người vẫn dám làm, thế
tại sao chúng ta tu không dám gan dạ buông xả, loại trừ các tập khí xấu
của mình.
Tới chiếc nôi Thiền tông thứ ba là ngài
Thảo Đường, tức vào thời vua Lý Thánh Tông khoảng thế kỷ XI, XII. Và cuối
cùng là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần, một dòng thiền thừa hưởng
tất cả tinh ba của các phái thiền kia, nhào nặn lại thành một phái thiền
thuần túy Việt Nam. Ngày nay Hòa thượng đang phục hưng lại dòng thiền này.
Các vị Phật tử thời Trần và các thiền tử mười phương tập trung về Yên Tử
tu hành đạt đạo dưới sự trực tiếp hướng dẫn của Sơ Tổ Trúc Lâm, tức Điều
Ngự Giác Hoàng.
Bây giờ nhìn lại hoàn cảnh, điều kiện sống
của chúng ta, huynh đệ đều biết mình có rất đầy đủ các phương tiện tu
hành. Nhưng còn thiếu một cơ dụng gì đó để chúng ta vào được chỗ chân
thật. Các Thiền sư thường nói: “Ngộ được thì ngay đó liền ngộ, không ngộ
được thì suốt kiếp mang lông đội sừng”. Nói nghe dữ dằn như thế. Đừng nói
suốt kiếp mang lông đội sừng, nội những bức xúc rối rắm trong lòng cũng đủ
làm cho chúng ta khổ lắm rồi. Tu hành không có niềm vui ngay trong hiện
đời đã thấy chuốc quả khổ. Thế nên Hòa thượng thường khuyên Tăng Ni siêng
năng sám hối. Sám hối để chi? Để những nghiệp tập nhiều đời, do vô minh ta
lỡ gây tạo, bây giờ sám hối để được mười phương các bậc thiện hữu tri thức
phủ giám, hỗ trợ cho mình vơi nhẹ đi. Đồng thời cũng để tự mình răn chừa
những lỗi lầm cũ, không gây tạo vướng kẹt nữa.
Nếu chúng ta tu hành không ngộ đạo, không
vào được chỗ an ổn, cũng nên nhờ những trợ duyên của chư Phật, Bồ-tát, các
bậc thiện hữu tri thức giúp mình có thêm sức mạnh, thêm nhẫn lực để tiến
tu. Không nhảy vào được đất thật thì ta mang gánh những hình thức mê muội
này hoài. Như trời trưa nắng gắt, gánh nặng đường xa, bấy giờ muốn cho
gánh nhẹ đi mau thì bỏ bớt đồ đạc không cần thiết đi. Người khôn là người
thảy ra, thảy hết ra. Thảy đến cái gánh cũng quăng luôn mới được thảnh
thơi leo núi.
Tôi nói thế không có nghĩa bảo quí vị bỏ
hết thời khóa tu tập bình thường. Mà chúng ta phải nhẫn nhục chịu đựng
những thương tổn, không chấp thân này tâm này của mình, buông xả hết để
vượt qua chính mình. Thành công của người tu là sống bình thường trôi chảy
trước tất cả những hiện tượng thuận nghịch của cuộc đời. Người đã kiện
toàn công phu, đức nhẫn rốt ráo sẽ có một nội tại thâm hậu, trầm lắng. Khi
nhìn lá cây, nhìn con người, sự vật… cũng đều có sự thâm nhập.
Ở đây tôi hay bày đá, hòn non đồ v.v… vì
đá cứng tượng trưng cho định vị. Những ngọn đèn đá thắp sáng trong bóng
đêm tăm tối tượng trưng cho trí tuệ phá tan vô minh. Tuy nhiên đó cũng chỉ
là những hình ảnh biểu trưng bên ngoài thôi, chính yếu là ở lòng mình. Tâm
có định tỉnh rồi, thì thấy đá thấy đất gì cũng vững vàng, bất động. Cho
nên các Thiền sư nhìn cảnh vật bằng tâm, chớ không nhìn bằng mắt. Còn
chúng ta chẳng những nhìn cảnh vật, mà nhìn mọi thứ trên đời đều bằng đôi
mắt phàm tục, phân biệt tốt xấu này nọ, nên sanh ra điên đảo sai lầm.
Ngày xưa, thiếu gì các Thiền sư nhìn cây,
nhìn đá, nhìn hoa đào nở… ngộ đạo. Biết đâu những cảnh duyên này sẽ là
những duyên tố tích cực, hỗ trợ cho việc các thiền tăng hay tất cả huynh
đệ trong đạo tràng này có thể phát huy được trí tuệ của mình, đất tâm bỗng
rỗng rang sáng suốt. Được vậy thì quý biết chừng nào! Nhân cảnh bên ngoài
mà nhận ra ông chủ bên trong của mình. Ông chủ là cái gì? Là những thấy
nghe hiểu biết luôn có sẵn nơi sáu căn của chúng ta đây, nhìn cảnh duyên
cảnh thì ông chủ mất, nhìn cảnh biết mình hay có cái thấy biết thì ông chủ
hiện tiền. Ngay đó nhận ra ông chủ thì vĩnh viễn không còn bị các cảnh
duyên kéo lôi nữa.
Công phu của chúng ta bây giờ là nhân cảnh
duyên, nhân đời sống, nhân thân này mà ta nhận ra ông chủ của mình, để
sống như thật sống. Nhận được ông chủ, hằng sống với ông chủ thì tự tại
giải thoát. Chúng ta sẵn đủ tánh giác như người xưa, không thiếu gì hết,
lúc nào cũng có nhưng vì quên thôi. Ngài Huyền Sa dạy chúng thế này:
“Những bậc lão túc các nơi nói tiếp vật lợi sinh, vậy bỗng gặp một người
có ba thứ bệnh đến, làm sao tiếp? Người bệnh mù cầm chùy, dựng phất y
chẳng thấy. Người bệnh điếc thử ngữ ngôn tam muội y chẳng nghe. Người bệnh
câm dạy y nói thì nói chẳng được. Phải làm sao tiếp? Nếu tiếp không được,
Phật pháp trọn không linh nghiệm.”
Ngài Huyền Sa đưa ra một cái cơ đặc biệt
để nghiệm người. Có thể trở về với chúng ta, bây giờ mình có mù không?
Không mù. Chúng ta có điếc không? Không điếc. Chúng ta có câm không? Không
câm. Vậy chúng ta có được tiếp chăng? Hãy nghe tiếp thoại: Có vị tăng đem
việc trên hỏi Vân Môn, Môn bảo: “Ông lễ bái đi”. Tăng lễ bái đứng dậy, Môn
lấy cây gậy đưa tới, tăng liền lùi ra sau. Môn bảo: “Ông chẳng mù”. Môn
gọi: “Lại gần đây!” Tăng lại gần, Môn bảo: “Ông chẳng điếc”. Môn dựng cây
gậy lên, hỏi: “Hội chăng?” Tăng thưa: “Chẳng hội”. Môn bảo: “Ông chẳng
câm”. Ngay đó vị tăng liền có chỗ vào.
Người xưa cũng thấy như thế nhưng các Ngài
ngộ, ngày nay chúng ta cũng thấy như thế sao không ngộ? Mình không mù,
không điếc, không câm nhưng tâm không sáng nên không thể vào được chỗ chân
thật an ổn. Chúng ta có được diễm phúc là các giác quan không bị hỏng, đó
là thuận duyên để tiến đạo. Vì con đường trở về với cái chân thật từ sáu
giác quan này mà thôi. Huynh đệ người lớn kẻ nhỏ, ai cũng thấy nghe bình
thường hết là có đầy đủ của báu rồi. Nếu quí vị không thấy nghe rõ ràng
thì những ngày Hòa thượng thuyết pháp, quí vị không có lên Giảng đường
ngồi làm chi?
Nói tóm lại, chúng ta không thua người xưa
trên các giác quan, chỉ thua trực giác nhạy bén bên trong thôi. Vì sao
thua? Vì quen chạy theo trần cảnh bên ngoài hoài, không chịu dừng lại nên
không nhận được chính mình. Những gì chúng ta đem vô, ôm giữ rồi phát huy
từ thời bé thơ cho tới bây giờ, bỏ ra không được thì thử hỏi bao giờ đất
tâm mới trống không? Muốn bỏ những thứ đó thì cũng tự chúng ta, chớ không
ai thay thế được hết. Bao giờ quí vị nhận thấy như thế, mới được tự tại.
Thường chúng ta cục bộ trong một quá
trình, một giới hạn nào đó nên không có được cái thấy toàn bích toàn
triệt. Quả thực mình là người không thông, nhưng có cái tật không chấp
nhận mình không thông. Bởi thấy mình thông nên sanh chuyện, đụng chạm,
phiền não. Các giác quan của chúng ta có sự nhận biết nhưng rất hạn hẹp.
Ta lại cho đó là cái thấy biết thật của mình nên thành ngăn ngại, chết
đứng một chỗ. Bây giờ mở thông ra, đừng chấp cứng nữa thì đất tâm sẽ
không. Mở thông ra đến mức độ người ta nói mình con bò cũng được, không
thấy tức giận chút nào cả. Mà quí vị nghiệm xem, họ nói con bò nhưng mình
có mọc sừng, mọc đuôi đâu mà đính chính, cãi vã. Hoặc có người đem con bò
tới nói đây là con trâu, mình nói sao đây? Nếu cãi lại đây là con bò thì
chắc một hồi đấu khẩu. Đấu khẩu không xong thì thụi nhau, thụi nhau không
đủ liền rủ thêm anh em bà con tới ẩu đả. Thế là oan khiên với nhau đời này
qua đời khác, khổ không có ngày cùng.
Chỗ hóa giải của người tu chúng ta là đả
thông ngay chỗ đó. Thôi thì con bò cũng được, con trâu cũng được. Tính
chất của nó là gì? Là giả danh, giả tướng. Hãy để cho đất tâm được không
thì mặt trời trí tuệ mới soi chiếu. Chứ “con bò” biết chiếu chỗ nào, mà
“con trâu” cũng không có chỗ chiếu nữa. Rõ ràng cố chấp vào chuyện hơn
thua phải quấy thì không thể sáng suốt, lấy gì soi chiếu được. Chúng ta
càng học Phật pháp, càng phải thâm nhập lý thượng thừa của Phật pháp.
Những gì huyễn hóa không thật không nên đắm trước. Những gì chân thật
không sanh không diệt phải nhận lấy để sống với nó. Chúng sanh thường đi
ngược lại điều này, cái giả cho là thật, cái thật lại quên mất, vì vậy
Phật nói chúng sanh si mê điên đảo. Bây giờ mở rộng tâm ra để đừng lầm lẫn
nữa, có thế ta mới bình thản sắp đặt ổn định cho cuộc đời của mình.
Nên nhớ các
giác quan của mình không thiếu, không thua ai cả. Từ xưa đến nay mọi người
đều bình đẳng như nhau. Mỗi thời đại sự hiểu biết con người có thay đổi,
song nhìn chung tất cả đều là thế trí sanh diệt, không chân thật. Nếu
chúng ta chấp cứng cố định ngang đó, tê liệt ngang đó thì phải giải phẫu
khối u xơ đó đi. Giải phẫu cái hiểu biết sanh diệt thế gian thì mình bằng
người xưa, biết hết mọi thứ mà không chấp gì cả. Đả thông khối u xơ đó thì
mặt trời trí tuệ chiếu soi. Đây là mặt trời trí tuệ không sanh không diệt,
chớ không phải mặt trời bình minh sáng mọc lên chiều lặn xuống. Mặt trời
trí tuệ đây là mặt trời của mình, một khi ánh sáng này chiếu soi thì phá
tan mọi bóng tối vô minh, phiền não trần lao đều tan biến hết. Chúng ta
vẫn sống, vẫn sinh hoạt mọi thứ, ăn mặc, ngủ nghỉ, tiếp xúc nhưng tâm trùm
khắp, không bị hạn cuộc, kẹt dính ở bất kỳ chỗ nào. Nhà thiền thường nói
tánh giác trùm khắp, tâm thể rỗng rang sáng suốt chính là mặt trời trí tuệ
này vậy. Từ đó chúng ta phăng ra và nhảy vào chỗ an ổn thôi.
Trở lại đức nhẫn. Tôi nêu lên những phần
trên để chúng ta chuẩn bị công phu của mình. Làm thế nào phải đủ nhẫn lực
để phẫu thuật tất cả u xơ còn cù cặn trong lòng mình, cho mặt trời trí tuệ
chiếu sáng. Đồng thời mình cũng vững vàng như núi như non, đừng bị động
bởi những thứ lăng xăng bên ngoài.
Muốn thế, cái nhẫn thứ nhất là thuận sanh
nhẫn. Thuận sanh nhẫn là không kiêu căng tự đắc khi được khen ngợi, đây là
những bệnh thông thường của chúng ta. Có người tu được trong điều kiện
thuận, có người tu không được. Ví dụ như được người ta công kênh, mình hiu
hiu tự đắc, thành ra không tu được. Bây giờ làm sao trong chỗ thuận ta vẫn
bình thường, điều này khó chớ không phải dễ. Người tu khi gặp thuận duyên
phải biết tự kềm chế, không ỷ lại, không tự cao, làm chướng ngại công phu
của mình. Đây gọi là thuận sanh nhẫn.
Thứ hai là nghịch sanh nhẫn. Như người
thiếu phước sinh ra trong gia đình nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu
học hành, cực khổ trôi giạt, làm thuê làm mướn vất vả, những người như thế
mặc cảm lớn lắm. Với họ chỉ có Phật pháp mới khai thông nổi thôi. Mặc cảm
là những u xơ rất độc, đừng cho dao rựa vô đó, không khéo nó di căn một
cái là nín thở liền. Những người này ngó xuống là phủng đất, ngó lên là
thủng trời, chứ không ít. Trong hoàn cảnh như thế, người tu phải biết nhẫn
nhục gọi là nghịch sanh nhẫn. Không bực tức, thù ghét trước sự bạc đãi
khinh khi của người khác.
Nhiều người bảo: “Chửi có lý do tôi nhịn
được, chứ chửi vô lý làm sao nhịn được?” Người ngu ngốc mấy cũng không
thích nghe lời chửi. Nếu hiền lành không chửi lại cũng nói móc vài câu
hoặc sùng sùng trong bụng, nhất định không bao giờ bình thản được. Đây là
những thứ cù cặn trong công phu tu hành của mình. Là người tu chúng ta
phải bỏ đi, phẫu thuật nó đi. Bằng mọi cách chúng ta phải trị nó, trị một
lần không xong đâu, phải trị nhiều lần mới được. Tụng kinh, niệm Phật,
ngồi thiền v.v… là những cách thức sơ đẳng nhất để trị các thứ bệnh u xơ
này. Người khá hơn trong khi làm việc, đi đứng nằm ngồi gì cũng trị nó. Có
thế mới giữ được thế an bình của đất tâm. Nếu mình không trị được nó, nhất
định nó sẽ nội kết thành khối và làm cho ta đau khổ thôi.
Hòa thượng ân sư thường dạy, những dấy
niệm, tơ tưởng vọng động đều phải buông bỏ hết, đó là cách trị nó. Mà muốn
buông bỏ nó, chúng ta phải có định tỉnh, sáng suốt. Do định nó không kéo
lôi được, do sáng suốt biết nó là không thật, nó không dối gạt lừa mị ta
được. Cho nên trong nhà thiền thường dạy định tuệ song tu. Chúng ta kiện
toàn đầy đủ định tuệ thì việc tu tiến lên dễ dàng, không khó khăn gì. Định
tuệ này không thể kiếm ở đâu hết, không thể nhờ ai cho được mà từ chúng ta
gạn lọc hết những cấu uế trong tâm, thì định tuệ sẵn bên trong liền hiện
tiền.
Thứ ba là nội pháp nhẫn. Tức không bị
phiền não che khuất, tâm luôn luôn thanh tịnh sáng suốt. Thường thường tâm
chúng ta luôn bị bức xúc, dằn vặt bởi việc nọ việc kia trùng trùng lớp
lớp. Cho nên cái nhẫn thứ ba là nhẫn phiền não. Muốn nhẫn phiền não phải
làm sao? Mặt trời trí tuệ soi thì phiền não mới tan. Tâm không thì mặt
trời trí tuệ tự chiếu, giống như ta bật công tắc điện đèn sáng lên thì tăm
tối tự rút lui. Cho nên muốn hết phiền não thì đừng nuôi nó nữa, để tâm
trống không đi. Không nghĩ hơn nghĩ thua, không chấp ta chấp người, ngay
đó còn gì nữa mà phiền não.
Lại nữa, phiền não đâu có thực mà kéo lôi
được mình. Tuy nó làm khổ ta nhưng nó không thực. Nếu biết bản chất phiền
não hư dối không thật, nó sẽ không làm khổ ta nữa. ai không nắm được
nguyên tắc này thì bị nó làm khổ dài dài. Nó không thật mà làm khổ mình
mới là kỳ, nếu nó thật thì thôi chết. Tâm không buông bỏ được phiền não
thì chẳng thể làm gì nổi, đừng nói tới tu. Bước ra cửa, thấy cái cửa đóng
không đàng hoàng là phiền não. Ngồi vào bàn, mấy tài liệu của mình ai
quăng đâu hết cũng phiền não. Vô ăn cơm, cơm sống lại phiền não… Trời đất
ơi, cái gì cũng phiền não, quả thực là nguy hiểm. Nó không thật mà sao làm
khổ mình dữ vậy! Cho nên người có chút công phu phải xoáy mạnh vào sào
huyệt này của chúng, xem nó là gì? Có thế mới mong nhảy vào chỗ đất không,
làm chủ được phiền não.
Thứ tư là ngoại pháp nhẫn. Tức chiến thắng
mọi khó khăn đói rét lạnh nóng, nhân duyên thời tiết bên ngoài v.v…. Chiến
thắng được những thứ này gọi là ngoại pháp nhẫn.
Tóm lại, chúng ta tu hành cần phải thực
hành các pháp nhẫn trên một cách thuần thục. Cảnh thuận nhẫn, cảnh nghịch
nhẫn, phiền não nhẫn, đói rét lạnh nóng nhẫn. Được vậy còn sợ khó khăn gì
trên đời này nữa. Giả dụ như ai chở vô nhà mình năm bảy chục xe hàng phiền
não, cũng chẳng ăn thua gì. Người nắm vững nhân quả, dễ thực hành pháp
nhẫn. Vì sao? Vì biết nhân trước như thế nên bây giờ quả như thế. Ngày
trước ta gây nhân thiếu gạo, cướp gạo của người ta, bây giờ mình thiếu
gạo, không có gạo ăn là phải rồi, cho nên nói nhẫn mà thật ra có gì đâu
phải nhẫn. Mình làm mình chịu, công bằng thôi, ức hiếp chi mà phải nhẫn.
Nhân trước mình chửi bới người ta bây giờ người ta chửi lại, chuyện đó
đương nhiên có gì đâu mà phiền. Nhờ thấy như thế nên ngay khi nhẫn ta cũng
không nghĩ mình nhẫn. Đó mới thật là người hành hạnh nhẫn nhục ba-la-mật.
Với tư cách người tu nhất là tu thiền,
chúng ta ngồi bình tĩnh lại thấy rõ nhân như thế, đưa đến tình trạng quả
báo như thế. Đã biết nhân quả báo ứng không sai chạy thì ta đừng gây nhân
xấu nữa, rõ ràng vậy. Nhân chính ta gây thì quả chính ta nhận, không có đổ
thừa. Được vậy ta có đầy nhẫn lực vượt qua các chướng duyên, tâm không
phiền hận não loạn. Từ đó dần dần đất tâm sẽ không, trí tuệ sẽ phát sáng.
Như sống trong tập thể, anh em cùng một
liêu mấy chục vị. Tất cả đều được phát mền xanh, riêng có hai ba anh đắp
mền len là có vấn đề rồi. Tại sao mình đắp mền chỉ mà huynh đó được mềm
len? Ta chỉ so sánh mà không cần tìm hiểu nguyên do. Tại Thầy đó bệnh hay
họ có những điểm nào ưu nên được xử đặc biệt hơn. Nếu không có những
nguyên nhân trong đời này thì cũng có nguyên nhân của đời trước, chớ không
phải ngẫu nhiên. Theo nhân mà quả tương ưng.
Hoặc, tới tết Trung Thu ai cũng có bánh,
còn mình không có. Thế là ta quay mặt vào vách không thèm dòm ai hết,
nhưng không phải quay mặt như Tổ sư, mà quay mặt để phiền não! Những tâm
lý nho nhỏ như vậy thôi, nhưng nếu chúng ta không chịu tu, không tỉnh
sáng, đất tâm của chúng ta không rỗng rang sáng suốt thì chúng ta sẽ bị
chết đứng ở chỗ tối tăm ấy mãi.
Tóm lại, muốn tròn đức nhẫn để tu, chúng
ta phải chịu đựng được tất cả những hoàn cảnh thuận cũng như nghịch. Lòng
thanh thản rỗng rang thì mới tu được. Chứ còn cứ nhìn hiện tượng này hiện
tượng kia thì nhất định chúng ta không tu được. Huynh đệ chúng ta cố gắng
phấn đấu chỗ này, nội tại mà tôi muốn nói là chúng ta điều phục được những
phiền não, để có sức mạnh bên trong. Còn hiện thân và các cảnh bên ngoài
thì tùy theo nghiệp duyên chúng ta đã tạo mà có những quả báo tương ưng.
Bây giờ tu rồi thì cố gắng chuyển hóa nghiệp cũ, chứ biết làm sao hơn.
Mong rằng với những lời nói chân tình,
những kinh nghiệm nhỏ nhoi gởi đến quí huynh đệ, đạo tràng chúng ta sẽ
vững tiến trong công phu tu hành của mình, xứng đáng là đệ tử của Phật Tổ,
của Hòa thượng ân sư. |