TRỊ NHỮNG TẬP KHÍ
Buổi sinh
hoạt này chúng tôi sẽ nói về tập khí. Đối với người tu, tập khí là chướng
duyên ngăn trở bước tiến đạo. Nó chính là những chủng tử từ nhiều đời còn
tồn đọng lại trong chúng ta. Muốn trừ nó chúng ta phải có công phu miên
mật, liên tục và đặc biệt phải tế nhị mới phát hiện được tập khí của mình.
Hòa thượng
dạy “Người tu chúng ta trong giai đoạn công phu phải trải qua những thử
thách, những khó khăn”. Giai đoạn ban đầu chúng ta thấy khó khăn, gần như
không thể tiến nổi. Nhưng rồi ta cũng tiến nổi, vượt qua được. Tuy nhiên
những thử thách về sau càng nhiều hơn, những thứ cù cặn sâu kín ở trong ta
từ từ ló dạng. Lúc này là lúc ta phải có tâm kiên cố, có sự chuẩn bị thật
kỹ lưỡng, phải mạnh mẽ dứt khoát lắm mới được. Như ta đã thấy có những vị
tu hành từ thời bé thơ cho đến năm mươi tuổi, vẫn có thể trở lại thế tục,
bởi những hình ảnh, những sự kiện thế tục chi phối. Tại sao? Vì không trừ
bỏ được tập khí nên cuối cùng bị chúng kéo lôi.
Những hiện
tượng này xảy ra không phải ít. Có người tu thời gian ngắn, hoăïc có người
trải qua thời gian rất dài, nhưng bất thần họ bỏ đạo trở về đời sống thế
tục. Có những người trở về thế gian, không phải vì bị cuộc đời mê hoặc,
nhưng vì không tiến đạo được nên họ không tu nữa. Đây là do tập khí này
chỉ đạo, mà đương sự không có năng lực để đối kháng chống trả lại. Bởi thế
nên cuối cùng đành im lặng quay lại con đường ngày xưa mình đã bỏ đi.
Cho nên nói
đến tập khí là nói đến những cái gì sâu kín, cù cặn bên trong chúng ta,
rất khó bỏ khó trừ. Những loại tập khí vi tế bên trong, ta không thấy
dáng dấp nó ra làm sao nên rất khó phát hiện. Nhưng đủ duyên, có điều kiện
hoặc do chúng ta sơ hở một chút, nó sẽ ngoi lên. Khi nó hiện ra, chúng ta
không tỉnh giác phát hiện được để tiêu dung hoá giải nó đi, dần dần chúng
sẽ hiện ra nhiều hơn và dẫn dắt mình đi. Theo Hán tự, chữ “Tập” là nhóm
họp, chữ “Khí” là hơi hướm còn tồn đọng lại. Tập khí là những hơi hướm tồn
đọng nhóm họp lại, và khi chúng đã kết cấu với nhau thì sẽ tạo ra một xung
lực dẫn ta đi theo nó.
Nhân nói về
tập khí, tôi nhớ lại câu chuyện này. Một hôm Phật ở tại Tinh xá Kỳ Hoàn,
Tôn giả Xá Lợi Phất thấy đức Thế Tôn đi thiền hành, Ngài cũng cùng đi phía
sau đức Phật. Bỗng có con chim bồ câu bị con chim cắt đuổi bắt rất gấp.
Chim bồ câu liền bay vào cái bóng của đức Phật, tự nhiên nó an lành hết
run sợ. Khi bóng của đức Phật đi qua, tới bóng của Tôn giả Xá Lợi Phất đi
tới thì con chim lại run sợ, không an lành như được núp dưới bóng của Thế
Tôn. Sự kiện này chính ngài Xá Lợi Phất chứng kiến rõ ràng.
Ngài nghĩ
“Nói về nghiệp tập, về tham sân si… những thứ này, quả thật trong lòng
Ngài không còn nữa vì đã chứng quả A-la-hán rồi. Vậy tại sao con chim bồ
câu lại sợ sệt khi đến gần Ngài, nó không an ổn như khi đến gần đức Thế
Tôn?” Do đó Ngài đem trình lên đức Phật. Sau khi trình lên, đức Thế Tôn
mới nói: “Vì tập khí của ta đã dứt sạch, còn tập khí của các ông chưa hoàn
toàn dứt sạch. Bởi vậy nên các loài thú khi đến gần các ông nó vẫn còn sợ
sệt”.
Như vậy tập
khí gốc từ những chủng sâu dầy, nhiều đời của chúng ta. Đối với các bậc
Đại thánh, các Ngài đã thành tựu chánh giác mà tập khí cũ còn chưa hết,
chưa hoàn toàn dứt sạch. Thế thì đối với chúng ta như thế nào? Chắc nó dầy
lắm, thật là dầy cho nên mình thường sống trong tăm tối. Bây giờ muốn trừ
dẹp chúng đòi hỏi chúng ta phải có tâm kiên cường, dứt khoát và phải sáng
suốt để bảo vệ gìn giữ tâm tu hành ấy cho đến nơi đến chốn.
Người tu
Phật nào cũng phải có trí tuệ sáng suốt mới được. Người xưa nói Tu mà
không học là tu mù. Hiện nay trong đạo của chúng ta, có một số vị hành đạo
không đúng với chủ trương đường lối của Phật dạy, do đó người bàng quan
cho rằng đạo Phật có hiện tượng mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan nghĩa là
tin mà không biết, tin mà không có trí tuệ, không sáng suốt; từ đó bày đặt
ra những hình thức tà vạy làm mê hoặc quần chúng nên gọi là mê tín dị
đoan.
Cho nên
người tu Phật dứt khoát phải có sự sáng suốt, biết rõ chủ trương đường lối
sự tu hành của mình. Không thể tu mà không nhận rõ, không biết pháp tu
cũng như công phu tu hành của mình ra sao. Không nên như vậy. Tất cả chúng
ta phải có kinh nghiệm, hiểu biết từ sự hỗ trợ của các bậc thiện hữu tri
thức trước, kế đó là sự hiểu biết từ kinh nghiệm tu tập của bản thân mình.
Muốn vậy bước đầu chúng ta phải học Phật pháp, tìm hiểu, suy gẫm ghi nhớ
rồi mới thực hành.
Nói tới điểm
này có nhiều vị phê bình: Tại sao tu thiền lại còn phải học? Chúng tôi xin
nhắc lại, trước đây Hòa thượng đã từng dạy: Con đường tu học do Ngài hướng
dẫn chúng ta là con đường Thiền Giáo đồng hành. Vì vậy người tu thiền
trước tiên cũng phải học kinh, luật, luận, sử, ngữ lục… tất cả các lời dạy
của các vị thiện hữu tri thức cũng như các Thiền sư. Học để làm gì? Để
chúng ta hiểu. Người xưa tu như vậy, làm như vậy, nói như vậy, bây giờ
chúng ta cũng tu như vậy, công phu như vậy, sinh hoạt như vậy. Khi học
hiểu rồi, bản thân mình hay những người chung quanh ứng dụng tu tập đúng
hay sai, ta biết, để trên con đường đạo chúng ta không bị lệch lạc và đạt
được kết quả tốt.
Trở về vấn
đề tập khí. Muốn trị tập khí sâu dày chúng ta phải có tu. Chỉ có tu mới
trị được tập khí của mình. Không thể cầu nguyện mà hết tập khí, cũng không
thể làm công kia việc nọ mà hết tập khí, mà bản thân chúng ta phải có công
phu. Công phu này bắt nguồn từ chỗ mình nhận hiểu đạo lý, nhận hiểu lời
Phật dạy, các bậc thiện hữu tri thức chỉ dẫn. Từ đó chúng ta áp dụng và sẽ
được lợi lạc thiết thực. Phần này nói nghe giản dị nhưng thực hành đòi hỏi
phải có thời gian nhiều lắm. Đặc biệt chúng ta phải khiêm hạ, sáng suốt
mới mong thấy rõ và trị được những tập khí, bảo vệ được công phu tu hành
của mình.
Có những tập
khí hư xấu mà chỉ ta tự biết, tự nhận thôi. Ta không dám nói với ai hết,
kể cả những bậc thầy mà mình nương tựa. Những tập khí ta trình bày được
chỉ là dáng dấp bên ngoài thôi. Còn rất nhiều và thật nhiều những cù cặn
sâu sắc bên trong, mình chưa dám lôi đầu điểm trán nó trước mặt mọi người,
để cầu sự hỗ trợ chỉ giáo của các bậc thiện hữu tri thức, nhằm trị nó một
cách quyết liệt nhất. Chỉ khi nào ta bị u đầu chảy máu rồi mới đến trình
với thầy con đã lỡ như vậy, như vậy… Khi ấy chuyện đã rồi, còn chỉ dạy
được gì nữa. Cho nên chúng ta thường chỉ trình thầy giải quyết những việc
ngọn ngành thôi, chớ nội dung cốt lõi thì không dám trị thẳng. Đó là lý do
ta tu hoài mà vẫn không tiến.
Từ đó nghiệm
thấy, việc tu hành ta cũng muốn nhưng chưa có thực tâm. Chưa thực tâm để
trị bệnh và giải quyết vấn đề sinh tử. Vì yếu đuối nên ta tu học, hành đạo
mà còn trong tinh thần lập lờ lập lững. Do đó kết quả thiết thực chúng ta
không hưởng được. Người xưa tọa thiền thì được định, chúng ta bây giờ cũng
tọa thiền nhưng rất ít người được định. Tại sao? Vì không kiên quyết dứt
trừ tập khí. Người xưa cũng là con người, cũng từ cha mẹ sanh, có sự sống
như chúng ta ngày nay. Trong tăng đoàn các ngài cũng sống chung đụng, phải
đối diện, giải quyết mọi vấn đề theo pháp quy. Chúng ta bây giờ cũng thế.
Có điều hồi xưa các ngài được đức Thế Tôn trực tiếp chỉ dạy cách thức tu
tập theo từng căn cơ, từng nghiệp tập nên các ngài dễ nỗ lực hơn chúng ta.
Tuy nhiên, điều chánh yếu vẫn là sự nỗ lực của tự thân. Các ngài sau khi
nhận đề mục thiền quán của Phật rồi, liền vào rừng hoặc đến chỗ nào vắng
vẻ, chuyên tâm thiền định, không chạy theo các duyên lự nên công phu dễ
thành công. Có nhiều vị chưa đầy ba tháng mùa hạ đã chứng A La Hán rồi.
Còn thì
chúng ta bây giờ phát tâm tu hành rất đông, nhưng ít thấy kết quả vì không
chuyên tâm như người xưa. Chúng ta bị các việc tạp chi phối nhiều quá.
Sáng ra là đi chợ, nấu cơm, sắp đặt việc nọ việc kia, tiếp duyên xúc cảnh
đủ thứ. Nghĩa là mình chưa hoàn toàn buông xả nên chưa bình thản an ổn
được. Đó là chưa kể còn có những cái mình luôn luôn phải bảo thủ giữ gìn
nữa... Duyên lự như vậy thì làm sao dứt trừ tập khí được!
Nói chung
trong cuộc sống, trong sinh hoạt này bản thân mình cũng chưa hài lòng với
mình nữa, làm sao đối với bạn bè chung quanh ta có thể tha thứ cho họ
được. Đó chính là sự tồn tại của tập khí ở bên trong, nó biểu hiện ra
ngoài bằng những lo lắng rộn ràng của chúng ta xoay quanh cuộc sống này.
Ví dụ ta có một thói quen không thích người khác đi trước mặt mình mà quơ
tay, múa chân. Cái không thích đó nằm ở đâu? Trong bụng, cần cổ, đầu gối
hay tay chân? Chỗ nào không biết, nhưng bất thần có huynh đệ nào đi trước
mặt mình mà quơ tay, múa chân là ta tỏ thái độ không thích liền. Đó chính
là tập khí. Một lần đi kiểu ấy ta chỉ thấy khó chịu, nhưng nếu hai ba lần
liên tiếp là mình tỏ thái độ ngay. Nghĩa là tập có đủ tay, đủ chân, đủ
mắt, đủ mũi, đủ lời lẽ để phô diễn ra bên ngoài. Nên biết tập khí chỉ làm
khổ nhau mà thôi.
Chư Tổ dạy,
ngay khi ông ngồi thiền là Phật hiện ra đó, ta cũng không chấp nhận nữa.
Hà huống ngồi đó mà mổ xẻ người này đi cong lưng, người kia đi ưỡn ngực…
đủ thứ vấn đề. Qua đó đủ thấy chúng ta còn quá nhiều thứ cù cặn. Tập khí
không trừ bỏ được, sẽ mất rất nhiều thời giờ trong đời sống tu hành của
mình. Ăn không ngon, ngủ không yên, tiếp duyên xúc cảnh, mọi thứ sắp đặt
hằng ngày đều không trọn vẹn, lơ lơ lửng lửng ba mớ, đại khái như thế thôi
không có sự tỉnh táo sáng suốt nào cả. Đó là biểu hiện cho chúng ta thấy
bên trong của mình chưa trong sạch, còn cặn bã của tập khí nhiều lắm.
Như câu
chuyện con chim bồ câu núp dưới chiếc bóng của đức Thế Tôn, nó hoàn toàn
an ổn là vì Ngài đã dứt sạch tập khí từ vô lượng kiếp. Cũng là người, là
cái bóng mà rõ ràng bên trong của đức Phật đặc biệt hơn chúng ta. Đó là
công đức của vị đã dứt sạch mầm tạo nghiệp, không gây nhân đau khổ cho
chúng sanh nữa nên chúng ở gần bên hoàn toàn được an ổn, không chút sợ
hãi. Suy nghiệm hình ảnh này chúng ta sẽ thấy, trong cuộc sống hằng ngày
mình còn nhiều chủng tử nghiệp xấu đối với chúng sanh quá, những thứ cù
cặn bên trong còn dày đặc, nên con chim gần ta chưa thể tin tưởng rằng
mình không bao giờ làm thương tổn nó.
Hòa thượng
thường dạy, gốc của sự khổ là vọng tưởng điên đảo. Ở đây tôi muốn nói
nguồn gốc của sự khổ là cái thấy ở bên ngoài, không chịu khiêm hạ nhìn lại
mình. Người khiêm hạ nhìn lại mình sẽ có nhiều lợi ích, trước nhất là thấy
được tập khí của mình. Hoặc ham ăn, ham ngủ, ham nói dóc, ham làm việc tào
lao… Ta phải thấy được những tập khí xấu của mình mới có thể khắc trị nó.
Ví dụ mình ham ngủ, nhưng nhớ Phật dạy người tu không thể ham ngủ, vì đó
là nhân của si mê, nó sẽ dẫn mình đi vào loài súc sinh. Biết rõ như vậy
nên phải lo trị bệnh tham ngủ của mình. Tìm cách nào đó cho tỉnh, uống cà
phê đen hoặc rửa mặt, chấn chỉnh tinh thần cho mạnh.
Trong sử kể
lại, ngày xưa Tôn giả A Na Luật nghe Phật thuyết pháp thường ngủ gục. Một
hôm Phật quở: “Này A Na Luật, ông tu để làm gì, ai bắt buộc ông tu? Có
phải bị nợ nần nhiều nên ông trốn đi tu không, hay vì làm thuê làm mướn
vất vả quá mà đi tu?” Tôn giả thưa: “Bạch Thế Tôn! Không. Con là một hoàng
tử nên không làm thuê làm mướn vất vả, cũng không thiếu nợ ai hết. Con tu
là vì cảm kích công đức của Thế Tôn, giáo pháp của Thế Tôn”. Phật bảo:
“Ông tu vì muốn hiểu biết giáo pháp để khai mở trí tuệ cho được giác ngộ.
Vậy tại sao lúc ta đang dạy, ông lại ngồi ngủ?”
Từ đó Ngài
ăn năn hổ thẹn, nhất định không bao giờ nhắm mắt nữa. Bằng mọi cách Ngài
thức để công phu, đến nỗi hai con mắt sưng vù và sắp hư. Trước tình trạng
ấy, đại chúng trình lên đức Thế Tôn. Phật đến thăm và hỏi: “A Na Luật, hai
con mắt của ông bây giờ thế nào rồi?” A Na Luật thưa: “Bạch Thế Tôn, vì
con không hề chợp mắt nên hai con mắt đau”. Bấy giờ đức Phật mới kêu thần
y Kỳ Bà đến trị hai con mắt cho A Na Luật. Kỳ Bà xem qua và thưa với Thế
Tôn: “Đức Phật lệnh cho A Na Luật ngủ một chút thì con mới trị được. Nếu
Tôn giả cứ mở mắt hoài như thế này thì con đành bó tay”. Đức Thế Tôn mới
bảo: “A Na Luật! Ông dụng công vừa phải thôi, cần phải nhắm mắt nghỉ một
chút, Kỳ Bà mới có thể cứu chữa đôi mắt cho ông được”.
Tuy Phật
khuyên thế, nhưng vì trót đã thệ nguyện nhất định không bao giờ nhắm mắt
nữa nên A Na Luật dứt khoát không ngủ, dù chỉ một chút. Ngài tuyên thệ
“Nếu chưa chứng Thánh quả, thà là tan thân mất mạng, chớ không thể để cho
cái tập khí ham ngủ này kéo lôi”. Bởi dứt khoát như vậy nên hai con mắt
của Ngài bị hư. Nhưng bù lại, sau đó không lâu Tôn giả chứng được Thánh vị
nên không cần đến hai con mắt phàm tục ấy nữa, vì Ngài đã có thiên nhãn.
Với lực dụng và thần thông của Lục thông, Ngài có thể thấy suốt vũ trụ vạn
hữu rõ ràng như thấy một trái xoài trong lòng bàn tay, không bị một chướng
ngại nào. Trong mười vị đại đệ tử của đức Phật, Ngài được danh hiệu là
thiên nhãn đệ nhất.
Mùi vị ham
ngủ thì chúng ta đã có nếm, nhưng phấn đấu dứt trừ nó để đạt được kết quả
sau cùng như ngài A Na Luật thì chúng ta không dám sấn sướt. Vì thiếu năng
lực, thiếu gan dạ nên chúng ta thua giặc tập khí ham ngủ, danh từ chuyên
môn trong nhà thiền gọi là ma hôn trầm. Nói thật, trong huynh đệ mình chưa
ai dám làm như Ngài. Ngồi thiền cũng ngồi, buồn ngủ cũng tìm cách này cách
kia để vượt qua, nhưng ta chưa bao giờ dám thệ nguyện như Tôn giả A Na
Luật, do đó đời này không chứng Thánh quả là phải rồi.
Đức Thế Tôn
cũng thế, lúc ngồi dưới cội Bồ-đề, Ngài tuyên thệ “Nếu như không đạt được
quả Vô thượng thì nhất quyết không rời khỏi chỗ ngồi này”. Ta cũng chưa có
năng lực của người tráng sĩ chặt tay ở Tung Sơn thuở nào để cầu pháp an
tâm. Thành ra mình vui vẻ trong giai đoạn bình thường thôi, chớ khó một
chút là nhăn mặt, là khóc rồi. Tu khổ quá tu sao tu được! Ai nấy cũng
chuẩn bị cơm gạo trong cốc của mình thật đầy đủ, thân thể thật khỏe mạnh,
đi bác sĩ hàng tháng theo dõi sức khỏe coi thử có bị u nhọt ở đâu không?
Quanh năm suốt tháng ta loay hoay với bao nhiêu đó việc, nên công phu
không dám sấn sướt. Nói ra điều này thật là xấu hổ!
Vì không
nhận diện hết tập khí, hoặc đã nhận được nhưng không đủ bản lãnh dứt trừ
nó nên việc tu hành của mình luôn gặp chướng ngại. Bây giờ làm sao chúng
ta tự phấn đấu sấn sướt công phu, thời giờ không đợi chờ chúng ta đâu. Tất
cả ai rồi cũng bước tới tuổi xế chiều, gần kề cái chết mà mình không thể
làm chủ được thì có phải nguy khốn chưa? Thế nên chúng ta còn đợi gì nữa
mà không chịu gắng gổ tu, còn đợi gì nữa mà không lôi đầu những nghiệp tập
xấu dở trong tận cùng tiềm thức ra để đối trị nó. Ngay bây giờ mình không
an tâm, không làm chủ được, đợi đến lúc hấp hối huynh đệ đến hộ niệm làm
sao làm chủ được.
Làm chủ được
hay không là ngay bây giờ đây, đối với cơm ăn áo mặc, mọi thứ chung quanh,
ta đã buông xả được hết chưa? Ta có mạnh dạn dứt khoát cắt đứt những thứ
đó thì đảm bảo ngày ra đi tự tại. Lúc đó dù huynh đệ có đến hộ niệm hay
không đến mình cũng an nhiên vui vẻ mà đi thôi. Các Thiền sư ngày xưa sống
một cuộc đời rất an nhàn, bỏ nhà không nhà học đạo, lấy trăng sao làm ngọc
bích. Không cần phải người thân, không cần phải lễ lượt gì cả. Muốn được
như vậy, ngay bây giờ chúng ta phải trị được tập khí. Có năng lực, có nội
tại vững vàng chúng ta mới sống an vui và chết nhẹ nhàng thanh thản.
Lúc khỏe
mạnh sức lực dồi dào, chúng ta không nỗ lực tu, đến khi già yếu việc làm
chủ khó khăn vô cùng. Ăn cơm còn phải có người đút nữa thì làm sao tự chủ
nổi với cái thân này, việc công phu nói đến làm chi nữa. Đã như vậy thì
đường đi phía trước mờ mờ mịt mịt, không biết sẽ ra sao. Cho nên bây giờ
phải tích cực cho chính mình, phải làm sao hoàn bị giai đoạn xuất gia của
mình. Cho nên tuổi trẻ là giai đoạn tốt nhất để thực hiện công phu tu tập.
Quí vị đừng để trễ, trễ thêm một chút nữa là khó khăn vô cùng.
Ngoài việc
điều thân, còn phải loay hoay với ba mớ vọng tưởng luôn quấy rầy mình nữa.
Nội tập khí của thân thôi trị cũng đã hết hơi, lại còn vọng tưởng tức tập
khí của tâm. Dính dấp vào cuộc đời này quả thật có sung sướng gì! Đó là
chưa kể đến tập khí tà kiến. Tà kiến là mình chưa hoàn toàn làm chủ đối
với các pháp, mà tự thấy dường như mình đã làm chủ được. Nếu trong giai
đoạn tu hành chúng ta rơi vào tà kiến như vậy thì việc tu thật cách xa
muôn trùng. Nói gọn lại tà kiến là cái thấy sai lệch đối với chánh pháp.
Người tà
kiến tuy miệng nói hết thảy không, nhưng đối cảnh thì thường bị ràng buộc,
người này thường tự gạt mình một cách nguy hại mà không biết. Đây cũng là
một loại tập khí. Kiểm lại công phu của mình, chúng ta thấy đối với giáo
lý thông thường ta có hiểu, có nhận; đối với công phu ta có tu chút chút.
Nếu không bị động bởi những thứ chung quanh, cũng không chấp vào công phu,
sống bình thường không thấy mình chứng đắc gì hết. Người có công phu tu
hành như thế hy vọng hóa giải được những tập khí về tà kiến, nếu có.
Có những
niệm dấy khởi ta buông được, nhưng có những niệm ta buông hoài không được.
Tại sao? Các Thiền sư thường dạy nếu trí tuệ chưa hiện tiền thì chúng ta
chưa trị được những vọng tưởng đó. Quả thực như vậy, chỉ khi nào trí tuệ
đầy đủ mới hóa giải được chúng. Ví dụ có người chửi cha mình, nếu không có
trí tuệ ta sẽ dùng lời gì đó nặng nề hơn để chửi lại họ. Bây giờ học Phật
rồi, ta đừng dùng cách ấy mà hãy nhớ trong kinh Phật có dẫn sự kiện: Như
người không có răng, lưỡi ngắn, môi dưới sứt chỉ còn một phần ba thôi, họ
sẽ phát âm chửi cha mình ra sao? Nếu phân tích cụ thể như thế, chúng ta sẽ
giảm đi ý muốn trả đũa lại. Kế đến cộng thêm công phu buông bỏ nữa thì ta
có thể giải quyết ổn thỏa được. Cách này gọi là dùng trí dụng để tu.
Trí dụng
kiếm ở đâu? Không thể kiếm ở đâu được hết, mà tự nơi chúng ta có cái nhìn,
cái hiểu, sau đó áp dụng giải quyết mọi việc trong cuộc sống hằng ngày,
gọi là trí dụng hiện tiền. Phật nói trí này tất cả chúng sanh đều có sẵn,
không phải đầu tư vốn liếng bên ngoài, nhưng với điều kiện vọng tưởng lặng
xuống nó mới hiện ra. Nếu chúng ta không phát huy được trí dụng này thì
phiền não dài dài, tu hành ít có niềm vui lắm. Cứ hướng theo hình thức bên
ngoài, chúng ta sẽ thấy cuộc đời này bất bình đẳng, từ đó mình sanh ưu
não. Ngược lại dùng trí quán để xem xét thật tướng của các pháp thì tất cả
chúng sanh đều bình đẳng như nhau. Thế nên người nào tu sống với trí quán
này sẽ thấy cuộc đời an vui, hạnh phúc, không có gì phải muộn phiền thất
vọng cả.
Hiểu như vậy
tự nhiên sẽ hóa giải được tất cả. Tự quay lại nhìn sâu hơn một chút là cái
nhìn trí tuệ, không bị tác động bởi hình thức bên ngoài. Nhà thiền gọi đây
là phản quan, từ hiện tượng quay về bản thể, cái nhìn này rất cần thiết
đối với chúng ta. Nếu chúng ta có được cái nhìn như vậy sẽ được bình an.
Mỗi người
đều có viên trạm thường tính, tức là chơn tâm. Cái viên trạm thường tính
đó rất sáng suốt, được cất trong một ngôi nhà có sáu cửa. Ánh sáng đó phát
ra sáu cửa tức là sáu căn của chúng ta. Muốn tiếp nhận cái viên trạm
thường tính này thì phải ngay cửa sáu căn nhìn lại, mới nhận được cái viên
trạm thường tính hay là chơn tâm của mình. Người nào từ sáu cửa mà nhìn ra
ngoài thì chỉ thấy đường sá, xe cộ, người thương, kẻ ghét, chớ không thấy
được chơn tâm của mình. Đó là tinh thần Phật dạy trong kinh Lăng Nghiêm.
Các Thiền
sư đời Trần dạy chúng ta phải phản quan tự kỷ. Chỉ một chút xíu đó thôi,
hễ nhìn ra là khổ đau, là tạo nghiệp. Còn quay lại chiếu soi chính mình
thì sẽ được bình an. Lục tổ Huệ Năng khi được Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang
tới chỗ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền nhận ra mình có cái tâm
chân thật. Ngay lúc đó Ngài quá thích thú thốt lên “Đâu ngờ tánh mình xưa
nay thanh tịnh, đầy đủ, rỗng sáng…” Tánh giác này tất cả chúng ta đều có
đủ. Nhưng có điều mình cứ lao ra ngoài nên không nhận được của báu trong
nhà, chỉ biết ở bên ngoài. Của báu trong nhà không biết, chỉ biết chuyện
tào lao của người khác thì cái biết đó không cần thiết, nếu không nói là
vô ích.
Từ những
hiện tượng trong cuộc sống này, nếu chúng ta quay trở về nhận lại cái chân
thật của mình, thì lợi ích trước nhất là trị được các tập khí. Kế đến là
loại trừ được tà kiến. Người tu trước nhất là tu cho mình, sửa đổi những
gì không hay trở thành hay tốt. Tu sửa mình được rồi mới dạy bảo hay chỉ
dẫn người khác tu được. Cho nên ngày nào trị được những bệnh của mình,
ngày đó tôi rất vui. Dù cho nhà bếp nấu ăn rất dở, ăn không được gì hết mà
tôi cũng thấy vui thích trong lòng. Ngược lại ngày nào có những cù cặn bên
trong, mình không đủ lực trị nó thì ngày đó dù mâm cao cỗ đầy, ta vẫn thấy
bất lực và buồn bã làm sao!
Đối với tất
cả những dấy niệm, ta làm chủ được, không bị nó kéo lôi thì thích thú,
cuộc sống của mình có giá trị. Còn mình chưa làm chủ được, bên ngoài bị
ngoại cảnh kéo lôi, bên trong bị vọng tưởng vây khốn bởi quá khứ, vị lai,
thương ghét tốt xấu v.v… lúc đó cuộc sống của ta thật khốn đốn, thật vô
nghĩa, không có giá trị gì cả. Khi sống đã như vậy, nói gì đến lúc chết,
tâm thần hôn mê hoảng loạn, khổ sở gấp muôn ngàn lần.
Huynh đệ
chúng ta khi họp lại năm bảy người, trước sau gì cũng có chuyện phê bình
anh này, chỉ trích chị nọ. Ít khi nào ta gặp nhau chỉ ngồi cười thôi, giữ
tâm thanh tịnh không thị phi chuyện thế sự bên ngoài. Ai vừa nêu ra vấn đề
gì là ta có ý kiến ngay, phải thế này, thế kia v.v… Thời gian kéo dài bao
lâu ta cũng có đủ ý kiến để đóng góp như thường. Tôi mong sao có một buổi
họp mà tất cả huynh đệ chúng ta ngồi yên nhập định bất động thì hay biết
mấy. Hiện tại bây giờ chúng ta còn ồn ào quá.
Người huynh
trưởng dẫn đạo chúng ta thường là người luôn luôn trực tiếp bên mình để
hướng dẫn, nâng đỡ chúng ta cùng tu. Người đó không có môi mép, không có
răng lưỡi, không phát biểu gì cả mà việc nào cũng đả thông hết. Người này
chấm dứt mọi tà kiến. Chúng ta đừng quan niệm tà kiến là những ma mị bên
ngoài. Tà kiến là những cố chấp của mình, cho thế này, thế nọ, phải như
vậy, như kia. Bỏ hết những ý kiến riêng tư, đừng nghĩ mình là gì hết thì
sẽ yên thôi. Như vậy mới giữ được công phu tu hành.
Cho nên
chúng ta phải luôn luôn soi rọi xét nét, quán chiếu, công phu thường
xuyên. Để tiêu hóa những phiền não, để lòng mình mát mẻ thanh lương như
nước cam lồ từ cành dương của Bồ-tát Quán Thế Âm rưới lên, chúng ta phải
trừ bỏ hết tập khí mới được. Người tu chúng ta luôn luôn mong mỏi mình
được an tâm, vui vẻ mà những điều kiện chính để được an tâm không có thì
làm sao thành tựu được sở nguyện. Cho nên chúng ta phải sáng suốt, bình
tĩnh trị các tập khí của mình, phá vỡ những quan niệm sai lầm đối với
chung quanh, đối với các pháp. Chủ yếu hằng ngày chúng ta hóa giải những
bực bội trong tâm bằng sự thiền định liên tục. Đi cũng thiền, ngồi cũng
thiền, nói nín động tịnh gì cũng thiền. Đỉnh cao của người tu thiền là như
vậy.
Người có trí
tuệ là có năng lực chủ đạo phá tan vô minh. Người có trí tuệ là người đơn
độc không bằng hữu, tức là đối với tất cả các pháp không dính mắc, không
để nó kéo lôi. Đơn độc là như vậy, không bằng hữu là như vậy. Trên đoạn
đường tu hành của chúng ta, sự siêng năng liên tục cũng là một yếu tố mang
tính quyết định. Tức là gan dạ và quyết tâm là điều không thể thiếu được.
Có nhiều vị nói với tôi: “Tại sao con tu hoài mà cũng trầm trầm như vậy?”
Tôi có thể đáp ngắn gọn là tại vì chưa hội đủ điều kiện.
Có ai dám
nguyện với Phật cho con nhiều phiền não không? Không ai gan như vậy đâu.
Ta cứ tạo duyên cho mình phiền não, rồi lại nguyện với Phật cho con hết
phiền não, làm sao mà hết được? Nguyện một đường làm một nẻo, thì đáp số
không bao giờ đúng với sở nguyện của mình. Cho nên tôi định nghĩa con
người trí tuệ hơi lạ một chút: Người trí tuệ là người sống cô độc, không
có bằng hữu. Người tu chúng ta phải sống cô độc nghĩa là quay trở lại với
chính mình, không tiếp duyên bên ngoài. Chớ không phải nói sống cô độc rồi
huynh đệ về đóng cửa hàng rào hết, như vậy không được. Đơn độc ở đây là
đơn độc trong tâm của mình. Những hình ảnh thuộc về quá khứ không thật,
quên đi! Những hình ảnh của tương lai chưa đến, đừng nghĩ tới. Sống với
chính phút giây hiện tại này, đây gọi là sống đơn độc, sống trí tuệ. Kinh
Kim Cang, Phật đã dạy: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể
được, tâm vị lai không thể được”. Thành thử ở đây những dấy niệm nào của
quá khứ, ta biết đây là bọn bằng hữu đã qua rồi, cho nó đi luôn. Những ước
vọng của tương lai, ta biết nhóm này là bằng hữu của vị lai chưa có mặt,
cho nó đi luôn thì yên. Người tu có trí tuệ là phải như vậy, chứ không
phải học nhiều kinh, có nhiều bằng cấp. Sống được với tánh giác, làm chủ
được mình, là người có trí tuệ.
Định của
người có trí tuệ là luôn tỉnh sáng trong mọi sinh hoạt, nấu cơm, đi chợ
mua thức ăn, đổ bê tông, làm tất cả công việc mà bất động, không bị lay
động mới là định của thiền tông. Trong kinh nói “Na-già đại định” chính là
định này. Không phải chúng ta đóng cửa, bịt lỗ tai, che mắt lại, không
thấy bên ngoài, không tiếp xúc với ai hết mới được định. Ở trong đại định
vẫn sinh hoạt bình thường. Tu nghĩa là sửa đổi cách thức sống của mình như
thế nào để đừng bị những lăng xăng bên ngoài kéo lôi, phiền não lắng yên,
mọi thứ đều an bày, các pháp là như thế.
Như như bất
động đối với các pháp nghĩa là, mình là mình, các pháp là các pháp. Tôi
không để tâm vọng chạy theo cảnh duyên, dính mắc cảnh duyên. Cũng không
cho cảnh duyên kia ập vào tâm, làm đảo lộn cái bình thường. Tâm, cảnh
không dính nhau là như như, là thiền. Chúng ta tu để được như như. Hòa
thượng thường dạy chớ vọng tưởng, là đừng bị những cảnh duyên bên ngoài
kéo lôi. Bỏ thân này mà chúng ta chưa được như như, thì sẽ bị nghiệp kéo
lôi. Chính nghiệp kéo lôi đó là gốc của luân hồi sanh tử.
Như trong
kinh Nhân Quả nói: Người gây tạo những nghiệp nhân bất hảo, khi mất thân
này, họ thấy bên ngoài trời chuyển sấm sét giống như cọp beo gầm hét rền
trời. Họ sợ quá, không biết chạy đi đâu, cuối cùng thấy những chỗ lùm bụi
liền núp vào để trốn. Vừa vào đó liền thọ thân sau. Mở con mắt ra thì thấy
mình mang lông đội sừng hoặc làm bò làm chó, làm rắn làm rít… khổ sở vô
cùng. Kinh nói Bồ-tát cách Ấm còn phải ngán, huống là chúng ta không chuẩn
bị gì hết, tới lúc đó nguy khốn biết bao!
Các huynh đệ
thử nghiệm xem mình có được như như không? Hằng ngày công phu tu hành như
thế nào? Chúng ta phải chuẩn bị thôi, ông ba mươi không cho hẹn đâu. Những
ai ngoài năm mươi, sáu mươi thì thấy gần đến giai đoạn thọ thân sau rồi
đó, không chịu chạy nước rút, còn chấn chờ gì nữa. Nếu hồi trước có thiếu
nợ ai thì bây giờ vui trả hết đi, người ta đòi mình còn mừng nữa, chớ đừng
sợ. Trả hết nợ mới thảnh thơi hưởng an vui chứ! Trong kinh Địa Tạng, Phật
nói rõ ràng, chí thân như cha với con gặp nhau cũng là nghiệp. Của ai nấy
mang, gông ai nấy chịu, đường ai nấy đi, chứ không giúp đỡ gì cho nhau
được.
Trả hết
nghiệp rồi đừng huân nghiệp mới nữa, là một cách trừ tập khí. Luôn sống
trong tỉnh thức, việc nào ra việc ấy. Đừng có ăn cơm mà trong đầu nghĩ
lung tung, miệng tụng kinh mà tâm chơi rong. Có lời nguyện thế này “Tâm
tôi rộng lớn, siêng năng không biết lười ắt sẽ làm lửa tắt. Nếu như chết
thân này mà chưa làm tắt được ngọn lửa, thì thọ thân sau quyết làm cho tắt
mới thôi”. Lửa đây là lửa phiền não, những vọng tưởng lăng xăng. Chúng ta
tu hành nguyện đời này và mãi mãi, phải dập tắt cho được lửa phiền não thì
mới yên lòng.
Lại nguyện
thế này nữa: “Nguyện con có chí hành đạo, quyết vượt mọi khó khăn, dù phải
dời núi lấp biển cũng không bao giờ thối chí. Lời nguyện này xuất phát từ
những ý chí quyết liệt để giúp cho chúng ta có sức mạnh phá tan phiền não,
dứt trừ sạch tập khí, thẳng bước tiến đạo. Nếu nguyện thì nên nguyện như
thế, chớ không thể nguyện lúc tôi chết có mẹ tôi đứng bên, có người thương
tôi tới khóc, bạn bè phúng điếu hương hoa đèn nến thật nhiều… Mình nguyện
nương từ lực Bát-nhã của chư Phật mà hành đạo cho đến khi nào đạt đạo mới
thôi!
Sau cùng tôi
nhắc lại lời Hòa thượng dạy chúng ta: Người tu phải có tâm kiên cố, trường
viễn, có ý chí mãnh liệt, không biết mệt mỏi. Hằng ngày thường dùng trí
tuệ quán chiếu lại mình, xem công phu có tiến bộ không? Có ý chí, có quyết
tâm, có trí tuệ thì nhất định chúng ta tu hành sẽ thành công. |