VUI TU
Buổi sinh hoạt
đạo lý hôm nay, chúng tôi sẽ nói về những niềm vui của người tu. Trong quá
trình tu hành, có những lợi lạc, phấn khởi như thế nào đều tùy theo công
phu của từng người. Và chắc chắn rằng không có quá trình tu hành nào không
có những niềm vui, những kết quả lợi lạc thiết thực.
Riêng về tu
thiền, nếu nắm vững phương pháp, đường lối và sắp đặt thời gian hợp lý thì
việc thực tập tu thiền sẽ giúp cho thân tâm chúng ta được nhiều an lạc.
Ngược lại, nếu thực hành không đúng, chẳng những không thấy an vui mà đôi
khi còn sinh bệnh tật phiền não nữa. Vì vậy khi chọn pháp môn tu thiền,
chúng ta cần nắm vững đường lối, cách thức và luôn gần gũi minh sư, để
tránh trường hợp sai lạc trong lúc dụng công.
Hôm nay chúng
tôi nói về những niềm vui trong lúc tu tập để chúng ta cùng chia xẻ, cùng
phấn khởi với những bước tiến bộ chung, từ đó huynh đệ sẽ có niềm tin và
hăng hái hơn lên trong việc tu tập. Như ta đã biết nghiệp tập của chúng
sanh thì nhiều lắm, những thói quen những chủng tử gây tạo từ nhiều đời,
khi tu tâm yên lắng một chút thì nó hiện ra. Nếu không có cách hóa giải,
tiêu dung thì ta sẽ thấy hoảng sợ và không dám tu nữa. Cho nên có một số
vị bảo tu nhiều đổ nghiệp là vậy.
Vậy chúng ta
tu tập như thế nào để có niềm vui, niềm tin đối với pháp tu? Trước nhất,
ta phải định tâm đối với tất cả những cảnh duyên ồn náo. Đây là điều hầu
hết Phật tử phải đối diện, không chạy trốn đi đâu được. Làm sao để định
tâm? Vấn đề là ở chỗ đó. Nghiệm kỹ ta sẽ thấy muốn định tâm trước mọi cảnh
duyên, chúng ta phải tỉnh giác. Nhờ tỉnh giác ta mới sáng suốt để ổn định
các sự kiện chung quanh. Nhưng nói định tỉnh, nói sáng suốt thì phải làm
sao, đây cũng là một vấn đề.
Ai không muốn
sáng suốt, tỉnh giác nhưng những thứ lầm mê ở đâu không biết, nó cứ quấy
nhiễu mình. Cho nên Phật dạy phải biết được sào huyệt của giặc mới có thể
đánh tan chúng. Bình thường chúng ta mắc kẹt ở chỗ nào, đắm nhiễm thứ gì
thì ngay nơi đó phăng tìm kẻ giặc đã quấy nhiễu mình. Trong các kinh đều
nói, các căn của chúng ta là nơi phát sinh phiền não mà cũng là gốc của
muôn pháp lành. Vậy phải ngay nơi sáu căn mà tu. Ngoài ra trên tinh thần
tu tập, chúng ta phải luôn phấn khởi nỗ lực mới có thể hóa giải được phiền
não, những bất an bất ổn trong tâm.
Như chúng tôi
đã từng nói, hiểu Phật pháp thì nhất định ta hiểu rồi, nhưng hành được hay
không mới là điều đáng nói. Liên tục hành trì một cách bền bĩ đúng pháp,
không phải là chuyện dễ. Bản thân chúng tôi vẫn còn gặp trở ngại và nhiều
khuyết điểm chưa được khắc phục, nên cũng cần phải nỗ lực phấn đấu nhiều
lắm. Nhiều huynh đệ rất ham tu nhưng khi gặp trở ngại lại không bền lòng,
không vững tâm nên dễ thoái thất. Nhiều vị hơi xem thường tập khí, xem
thường sự duyên chung quanh, nên cuối cùng bị chúng xỏ mũi dẫn đi không
hay.
Chúng ta biết
rõ ràng thân này là giả, tâm duyên các cảnh không thật, vô thường sanh
diệt. Biết như vậy nhưng khi đối diện với chúng mới thấy thật sự mình chưa
làm chủ được. Cho nên thân tâm giả mà phiền não dường như không giả, vì
vậy mới có buồn, có giận, có chảy nước mắt dài dài. Tôi có một người huynh
đệ thường hay tự ti mặc cảm vì hoàn cảnh gia đình nghèo dốt, mặc dù anh ta
học rất giỏi, có bằng cấp cao. Lòng tự ti mặc cảm ấy giống như cái chày
sắt, nên mỗi khi làm việc hoặc tiếp xúc với ai, nó cứ nện xuống đầu anh
khiến anh cảm thấy dường như mọi người khinh khi xem thường mình. Cho nên
cuối cùng anh rất đau khổ, phiền muộn suốt trong cuộc sống đầy danh vọng
địa vị của mình.
Với người như
thế, tôi nghĩ chỉ có tu mới gột rửa được hết những mặc cảm sai lầm đó
thôi. Trong một lần gặp gỡ nói chuyện, tôi hỏi anh mặc cảm như thế để làm
gì, được gì thì anh bảo không biết. Rõ ràng tất cả chỉ là mộng mà ta lại
chìm trong đó để khóc để cười, thật tội! Cứ lao theo mặc cảm đen tối để
tâm bất an là điều không thể hiểu nổi của chúng sanh. Anh ta nói tôi biết
mình tự gầy dựng phiền não cho mình, nhưng bỏ không được. Nó là kỷ niệm,
là dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời của tôi. Thế thì anh cứ ôm lấy để mà khổ
chứ còn biết làm sao hơn!
Nếu chúng ta
cũng như anh bạn ấy thì Phật pháp thật khó áp dụng. Không cởi mở, không có
cái nhìn thông thoáng đối với hoàn cảnh của mình và mọi người thì không
sao xả bỏ những định kiến sai lầm của mình. Học Phật pháp, hiểu Phật pháp,
nói Phật pháp, viết Phật pháp thành văn, nhưng không hóa giải được phiền
não trong lòng mình thì tất cả các việc kia cũng chẳng dính dáng gì. Con
người một khi đã chấp chặt thì khó bỏ khó quên, những gì làm cho họ đau
lòng đôi khi được ghi nhớ sâu đậm hơn là những việc tốt đẹp. Vì vậy mà
chúng sanh lăn đi lộn lại vay trả, trả vay mãi không thôi. Nhà Phật gọi đó
là hoặc loạn, chữ “hoặc” tức mê lầm không sáng, chữ “loạn” tức lăng xăng
điên đảo. Do hoặc loạn mà tâm rối ren, bất an nên không định tỉnh không
thấy được lẽ thật.
Tu hành mà cứ
khổ hoài thì không tu được, thụ hưởng cũng không tu được, phải vui mới tu
được. Cho nên người tu được là người bao dung, độ lượng, biết thương yêu
và tha thứ. Những gì đáng bỏ thì bỏ đi, chỉ giữ tâm trong sạch bình an
thôi. Thế gian cho rằng bỏ hết không còn gì là mất tất cả, nhưng với người
tu trong lòng lọc sạch tất cả phiền não cù cặn thì an lạc tràn đầy. Điều
này nếu vị nào có sự phấn đấu trong tu tập sẽ thấy rất rõ. Ví dụ như bữa
nay mình thấy trong người khó chịu, muốn bệnh nên tăng giờ ngồi thiền thêm
nửa tiếng, dù chân đau ta cũng không xả. Cố gắng như vậy, một chút xuất
hạn mồ hôi tự nhiên nghe nhẹ trong người, hết cảm. Nhờ thế ta cảm thấy vui
vẻ và niềm vui đối với pháp môn vững chắc hơn. Đó là kết quả từ sự nỗ lực
phấn đấu của ta vậy.
Từ những kinh
nghiệm đó, chúng ta có phương pháp để đối trị phiền não một cách cụ thể.
Nếu ta chỉ khó với người, mà không khó với mình, thì không thể tự điều
phục, tự chiến thắng mình nổi. Như ngồi thiền khoảng một tiếng rưỡi mình
thấy đau chân quá, nên mới một tiếng liền tìm lý do gì đó để xả sớm. Tu
như thế làm sao khắc phục được những vọng tưởng điên đảo, những phiền não
thâm căn cố đế của mình. Cho nên Lục Tổ dạy thường tự xét lỗi mình, đừng
dòm dõi lỗi người để tập trung quay lại mình, nghiêm chỉnh đối với mình
mới thành tựu đạo nghiệp được.
Nếu bản thân
mình không chịu yên thì không ai có thể giúp chúng ta yên được. Ta nguyện
cầu Phật, Bồ-tát gia hộ cho con được bình yên mà ta không tự bình yên thì
Phật Bồ-tát không gia hộ được. Các Ngài chỉ gia hộ bằng cách dạy bảo cho
mình cách thức tu tập để tự bình yên. Chúng ta không thực hành, không làm
theo sự hướng dẫn đó thì không bao giờ bình yên được. Với người tu thiền
điều kiện trước nhất là phải yên định. Có yên định mới khắc phục được
những tư tưởng ồn ào, lăng xăng làm cho tâm ta giao động nhọc nhằn. Đó là
điều thứ nhất.
Điều thứ hai,
khi ta đã được yên định rồi phải nghĩ tới huynh đệ đồng tu, động viên giúp
đỡ bạn hữu cùng được an lạc như mình. Niềm vui càng lớn, càng tăng trưởng
chừng nào thì càng quí càng hay chừng nấy. Quên đi những riêng tư của
mình, bỏ lại việc cá nhân, tập trung hướng dẫn mọi người cùng được yên
vui, giải thoát là những việc làm của người con Phật.
Ví như ta đến
vùng sông nước, được đi trên cây cầu bình an liền ước mong mọi người đến
đây cũng được đi trên cây cầu an toàn thế này, không phải lội qua chỗ sình
lầy nhơ nhớp dưới sông. Đây chính là chân tinh thần vô ngã vị tha trong
giáo lý Phật đà. Chúng ta có pháp tu, cũng muốn những người chung quanh có
pháp tu, ta được vui vẻ cũng mong ước mọi người cùng vui vẻ. Vì vậy chư vị
Bồ-tát luôn tích cực đi vào cuộc đời làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh,
không hề chán mỏi. Đó là điểm thứ hai.
Trong đời sống
của chúng ta, nếu kẹt ở chỗ bất an bất ổn thì sẽ mắc mứu dài dài. Nếu trụ
chỗ vui vẻ an lạc thì tâm ta phấn khởi cởi mở. Như trong gia đình một vài
người thì ít sinh sự, nhưng khoảng chín mười người trở lên là bắt đầu có
vấn đề dài dài. Buổi sáng sớm vừa mới ăn xong, mà có ai khơi mở cái cù cặn
là rối rắm, tối tăm y như trời chiều nắng gắt, ai cũng cảm thấy bực dọc vô
cùng. Nhưng nếu mở trúng chỗ an ổn lợi lạc thì mọi người cùng vui vẻ hết,
đó mới đúng là bình minh tươi sáng mát mẻ.
Việc tu hành
cũng vậy, nếu mình khéo một chút thì bản thân được an vui tiến bộ và mọi
người cũng thế. Còn ta tu mà cứ nhăn nhó ủ rủ hoài thì huynh đệ chung
quanh sợ lắm. Như Phật tử đi chùa, làm những việc phúc lợi, được quý thầy
hướng dẫn tu tập, về nhà phấn chấn đối xử với mọi người vui vẻ tốt đẹp, tự
nhiên tất cả mọi người trong gia đình đều thích, đều chịu nghe theo mình.
Chứ đi chùa về mà quạo quọ, hết la người này đến mắng người kia, thì dù có
nói Phật trời gì người ta cũng chạy tuốt. Cho nên việc tiếp cận trong đời
sống rất quan trọng, nó thể hiện lực tu bên trong của mỗi người.
Người ta bảo
“ăn cơm có canh, tu hành có bạn”, câu ấy thông thường thôi nhưng nói lên
được tầm thiết thực của sự hỗ trợ, động viên của thiện hữu tri thức. Do đó
khi chúng ta quyết tâm chọn hướng tu hành rồi thì phải khéo léo trong cách
hành xử với mọi người. Được vậy đạo tràng của chúng ta mỗi ngày mỗi vui,
mỗi tăng tiến, mỗi đông đảo. Nếu sự khéo léo động viên của chúng ta có kết
quả, những người chung quanh cảm thông và cùng tu hành tức Phật pháp thịnh
hành. Không luận đạo tràng nào, tổ chức đã lâu năm hay còn mới mẻ, nếu các
thành viên trong đó tu hành được lợi lạc thì đạo tràng ấy xem như thành
công tốt đẹp.
Đó là tôi muốn
nói những việc làm đem lại niềm vui cho nhiều người, tạo sự phấn khởi
chung đối với việc tu hành, nhất là trong mối quan hệ tương giao hằng
ngày. Bởi vì không phải lúc nào Phật tử cũng lo tu tập riêng được, mà còn
các việc xã hội, những quan hệ chung quanh đời sống, nếu người khéo léo
thì chẳng những bản thân tu được mà còn hỗ trợ cho bạn bè cùng tu.
Một khi đã có
niềm vui trong sự tu thì chúng ta sẽ là người chiến thắng. Chiến thắng cái
gì? Chiến thắng tất cả những hấp lực lôi cuốn của ngũ dục, chiến thắng
những bất an bất ổn trong lòng mình. Với người có tâm tu hành, phải có lực
dụng mới chiến thắng được, bởi việc tu thật ra khó lắm. Ví dụ ta vừa
thoáng nghe một câu không hay về mình là buồn giận liền, vì đạo lực yếu
nên ta dễ bị cảnh duyên sai sử.
Thế nên trong
nhà thiền dạy vừa dấy niệm liền buông, nhưng ta đâu chịu buông ngay, phải
buồn phiền mệt mỏi lắm rồi mới chịu buông. Tai nghe tới tên mình, mắt thấy
ai chỉ chỏ về hướng mình là có vấn đề, tự nhiên như vậy. Cho nên ý thức
phân biệt hiểu biết càng khôn ngoan chừng nào thì đối với việc tu hành
càng trở ngại chừng đó. Nếu chúng ta không tĩnh tâm thì không thể dẹp tan,
không thể chiến thắng các thứ chướng ngại ấy. Bởi vì mắt thấy, tai nghe
theo vọng tưởng của mình chứ không phải thấy nghe đúng sự thật nên phiền
não phát sinh. Chiến thắng nghĩa là chúng ta thấy nghe đúng như thật, do
đó không bị vọng tưởng lay chuyển, không mắc mứu bởi những hiện tượng
chung quanh. Có khi người ta không nói về mình, không chỉ đến mình mà ta
đã tưởng tượng trước, rồi tự sinh sự, tự buồn phiền. Cho nên Phật dạy
chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất.
Khi chiến
thắng được mình, làm chủ được mình rồi thì chúng ta có lập trường kiên
định, không phải là người dễ nghe dễ tin. Tức chúng ta không nghe theo các
thế lực bên ngoài, không tin thần quyền, mặc khải mà chỉ tin nơi chính
mình. Nghe việc gì, thấy việc gì có liên quan đến mình cũng không vội dao
động. Đó là ta đã có sức mạnh, có trí tuệ, không bồng bột sôi nổi như hồi
còn mê lầm ngông cuồng. Lúc ấy nhờ sự định tĩnh, không chạy theo ngoại
duyên, chúng ta giải quyết mọi việc thật sáng suốt, nhanh nhẹn hợp tình
hợp lý. Đó chính là người sử dụng được năng lực trực giác của chính mình.
Phật dạy trên
thế gian này, những gì có hình tướng đều không thật, vậy ta chạy theo để
làm gì ? Một sự nghiệp gầy dựng ba bốn mươi năm, chỉ một cơn nổi giận, một
cái hờn lòng thôi có thể làm tiêu tan tất cả. Điều này ai cũng có cảm nhận
hết. Với con người cũng vậy, ngày nay anh thương mến tôi nhưng ngày mai
anh cũng có thể ghét bỏ tôi, chuyện ấy rất bình thường. Bởi Phật đã nói
tâm ta vốn bất thường, cho nên sự thay đổi là điều không bao giờ đổi thay.
Nếu không nắm vững nguyên tắc này của cuộc đời, chúng ta sẽ mất ăn mất ngủ
vì những chuyện “bình thường” ấy.
Nói đến đây,
tôi nhớ lại một hình ảnh của mình lúc nhỏ. Năm đó tôi là tăng sinh sống
chung với mấy chục huynh đệ trong một già lam. Tôi được sắp nằm gần một
thầy hơi khó tánh. Hôm ấy, không hiểu sao tôi lại để nhằm ca nước của mình
qua đơn của thầy ấy. Ăn cơm xong, về liêu thấy ca nước, thầy lớn tiếng
hỏi: “Ai để ca nước trên đầu đơn của tôi?” Lúc đó tôi giật mình nhận ra
cái ca để nhầm, tôi vừa mở miệng định xin lỗi thì vèo một cái, ca nước bay
lên đầu, mặt mày tôi ướt sũng. Ngớ người ra, tôi đứng chết trân, cố gắng
lắm một lúc sau tôi mới nói được: “Tôi để nhầm chứ không cố ý, thầy hoan
hỷ cho”. Nói xong, tôi ra ngoài.
Buổi chiều đó
vào đại học văn khoa, nghe thầy giảng những bài thơ của Huy Cận. Bình
thường với tôi vị thầy này là giảng sư hấp dẫn nhất, nhưng hôm đó trong
đầu tôi không vô được một chữ, tự nhiên tôi thấy hôm nay ông thầy giảng
không có duyên chút nào. Tối về lại nằm kế người huynh đệ vừa tạt ca nước
lạnh vào mặt mình, tôi không sao ngủ được. Nằm đó cứ ậm ừ ậm ực, hôm sau
cáo bệnh tôi xin phép đi vài hôm. Về chùa gặp lại huynh đệ nhỏ nói chuyện
vui chơi, tự nhiên thấy nguôi ngoai. Mấy hôm sau bình tĩnh lại, tôi thấy
mình dở quá, tu hành bao nhiêu năm mà không làm chủ được, có một ca nước
thôi mà trôi khỏi trường đến mấy ngày. Nghĩ vậy, tôi hổ thẹn xách gói trở
về. Hôm ấy tôi còn mua một ký kẹo chia cho anh em mỗi người ngậm một viên
cho vui.
Sau này, mỗi
lần nhớ tới người huynh đệ nằm cạnh đơn ngày xưa, tôi luôn tri ân như một
vị nghịch hạnh Bồ-tát, đã giúp tôi thức tỉnh trước những cảnh trái ý
nghịch lòng. Có vậy, ta mới biết đạo lực mình tới đâu để mà tiến lên chứ.
Qua lần ấy, tôi suy nghĩ thật ra có vào trong rừng tu, mình cũng không thể
tránh khỏi những thử thách, những trở ngại. Chủ yếu là tâm ta có tỉnh giác
hay không thôi. Nếu bị bản ngã vây phủ thì dù sống trên trời ta vẫn phiền
não như thường. Cuộc đời là một trường va chạm, những tổn thất, những sự
kiện, những hình ảnh đều có giá trị đối với người biết tu.
Người luôn xét
nét lại mình là người khôn ngoan nhất trong cuộc đời này. Biết ta dở nhưng
không bỏ cuộc, vươn lên đi tới, đó là thái độ của bậc trượng phu. Thấy
được lẽ thực cũng từ mình, mà quờ quạng trong đêm tối ảo hóa cũng tự mình
thôi. Cho nên Phật mới dạy chiến thắng được mình là chiến thắng tất cả.
Vừa rồi có một vị đến đây xin tu, hỏi ra mới biết phiền não ở nhà nên muốn
vô chùa. Nói chuyện chơi một hồi tôi bảo: “Thôi, đạo hữu ơi! Tu trong lúc
tâm không yên không được đâu. Đạo hữu về xem lại tình hình trong nhà, tìm
hiểu đả thông đi, chừng nào bình yên thực sự thì vào đây tu với anh em.
Bây giờ chưa được”. Đạo hữu ấy nghe lời về, rồi sau đó im ru, chẳng biết
có còn muốn tu nữa không? Nhưng dù gì miễn vị ấy bình yên là tốt.
Phật nói người
làm chủ được mình là người giàu sang muôn hộ. Trong kinh Pháp Hoa, Phật kể
chuyện người cùng tử bỏ nhà đi tha phương từ nhỏ. Trên đường khổ sở đói
khát vô tình anh lưu lạc về đến chốn cũ, nhưng không nhận ra được nhà mình
cũng chẳng biết cha già nên lại bỏ chạy. Ông Trưởng giả tìm đủ mọi cách để
đem con về và giả dạng người hốt phân để được gần gũi anh. Lâu ngày quen
dần và bắt đầu có sự cảm thông, ông mới nói thật với anh: “Ta là cha con,
tất cả sự nghiệp gia sản trong nhà này đều là của con. Con hãy nhận lấy và
giữ gìn vì cha đã già, cha chỉ mong có mỗi ngày này”. Tin đây là sự thật,
chàng cùng tử bấy giờ trở thành Trưởng giả giàu sang vô kể.
Phật bảo chúng
ta cũng vậy, có của báu mà không biết, lang thang trong luân hồi sanh tử
nhiều đời nhiều kiếp, luống chịu biết bao thăng trầm. Bây giờ nếu chịu
quày đầu nhận lại thì kho báu sẵn đủ, giàu sang khôn kể. Tại sao chúng ta
còn chần chừ chưa chịu nhận lại kho báu nhà mình. Được gặp Phật pháp, có
điều kiện trao đổi tu tập mà chúng ta không cố gắng nhận ra tánh Phật của
chính mình thì thật không còn biết nói sao hơn! Phật dạy tất cả chúng sanh
đều có tri kiến Phật nên đều có thể thành Phật. Chúng ta biết mình có khả
năng thành Phật, vậy tại sao không sống lại với Phật tánh của mình, để
không còn đau khổ trong trầm luân sanh tử nữa. Đó là điều mê lầm đáng
thương nhất của chúng sanh.
Chúng ta tu
tập thế này là đang trong giai đoạn lần hồi làm quen với ông Trưởng giả,
để từ đó nhận lại gốc gác của chính mình. Vậy trước nhất là phải tự ổn, tự
yên đối với tất cả các cảnh duyên bên ngoài. Chư Phật, Bồ tát chỉ cho mình
những phương pháp thực hành để ta tự làm chủ mình. Sau đó phát huy, động
viên cho tất cả huynh đệ đồng chí đồng hạnh đều được như thế. Muốn thế,
từng bước chúng ta buông bỏ vọng tưởng, cố chấp, tự ti mặc cảm để chiến
thắng lấy mình. Chúng ta biết rõ lẽ thực của các pháp không là gì hết, do
duyên hợp tạm có, vì thế chúng hư giả. Thân này cũng vậy, chỉ một hơi thở
ra không hít vào là kể như không còn nữa, nên ta không chạy theo nó, không
sợ mất nó, không sợ xấu sợ khổ nữa. Đó là giải thoát rồi.
Người phát huy
được tuệ giác của mình, trước nhất là hết khổ, sau đó mới nói đến các khả
năng lợi ích mọi người. Tuy nhiên hiểu và nói thì dễ nhưng thực hành rất
khó, chúng ta phải cố gắng nhiều, cần tu tập có phương pháp, gần gũi thầy
bạn lành, tạo hòa khí để vui tu. Ta làm chủ được, thấy được thực chất các
vấn đề rồi thì tâm an ổn, cuộc sống an nhàn thảnh thơi, không phải trăn
trở mất ăn mất ngủ vì những chuyện không đâu. Đó là lợi ích thiết thực của
sự tu hành.
Người tu chúng
ta nếu thiếu đạo lực, thiếu sự tu tập, công phu không liên tục thì không
khi nào làm chủ được mình, không khi nào bình ổn vui sống, gặp sự cố gì
cũng hoảng sợ giao động. Tu như vậy có khác gì người không tu, cho nên
chúng ta phải quyết tâm, tự sách tấn răn nhắc mình nỗ lực. Ở trong pháp
Phật, chuyên cần siêng năng vui vẻ, không khởi niệm lười mỏi, được vậy con
đường giác ngộ giải thoát nhất định không xa. Khi nào tâm ta bình thản
trước mọi thay đổi mà vẫn đầy đủ lòng từ, thương yêu mọi người, đó là ta
đã thành tựu đạo giác ngộ.
Người xuất gia
hành trì Phật pháp được lợi lạc như thế, người tại gia cư sĩ hành trì Phật
pháp cũng được lợi lạc như thế. Chủ yếu tất cả chúng ta nhận được tâm là
chủ, hằng sống với tánh giác của mình, thì dù là ở đây hay đi cõi nào, ta
cũng an vui giải thoát. Bởi vì bấy giờ ta là ông Trưởng giả giàu có vô
tận, chứ không phải là gã cùng tử lang thang nghèo khổ nữa, thì muốn gì mà
không được.
Chúc tất cả
đều nhận lại được kho báu nhà mình, để huynh đệ cùng chung hưởng niềm vui
bất diệt có trong mỗi chúng ta. |