HOAN HỶ TU TẬP
Hôm nay tết
Nguyên đán, là ngày lễ truyền thống của dân tộc ta, đồng thời cũng là ngày
kỷ niệm đức Phật tương lai đại hỷ đại xả Di Lặc Tôn. Vì vậy chúng ta cùng
ôn lại một vài nét đặc biệt của Ngài để qua đó ta có những bài học, những
kinh nghiệm tu tiến.
Duyên lành lớn
nhất của tất cả huynh đệ chúng ta là gặp được Tam Bảo. Chúng ta có thầy
tổ, thiện hữu, có lý tưởng và nhất là có đường hướng tu tập. Nếu quyết tâm
và đầy đủ ý chí nhất định chúng ta tu sẽ có kết quả, được hưởng pháp vị an
lạc sâu xa của Phật pháp. Như chúng ta đã biết đức Phật Di Lặc tượng trưng
cho niềm hoan hỷ to lớn, từ những niềm vui đó, Ngài đem lại lợi ích an vui
cho chúng sanh. Vì vậy chúng ta học ở Ngài phương pháp tu hành buông xả,
gắng gổ hành trì để tâm tư cởi mở như ý. Có thế mới không bị ngã gục trước
mọi cảnh duyên.
Khó khăn lớn
nhất của chúng ta là thường quên đại nguyện, thiếu ý chí, do đó cảnh duyên
chung quanh dễ lôi kéo. Người có ý chí, vững tâm tu hành thì những trở
ngại chính là duyên thù thắng cho việc thực hiện hoài bão tu tập của mình.
Có người tuổi sáu bảy mươi hoặc có khi lên đến tám chín mươi, kinh nghiệm
sống trải dày dặn vô cùng nhưng vẫn bị phiền não cuốn trôi. Đó là vì quên
mình, quên đại nguyện nên bị phiền não dẫn dắt thôi.
Hôm nay điều
trước nhất tôi muốn nói, là chúng ta làm thế nào để hoan hỷ tu tập? Có khi
trọn ngày hoặc đôi ba ngày ta không nói gì, niềm vui tắt ngủm hàng tháng
trường hay nhiều hơn thế nữa. Niềm vui đã không có thì bao nhiêu họa hoạn,
bất như ý xảy đến khiến cho mình muộn phiền lại thêm muộn phiền. Vậy chúng
ta phải làm sao để niềm vui đừng mất. Có một niềm vui không bị bất cứ một
cảnh duyên nào khuất lấp. Phật dạy chúng ta phát triển niềm vui này bằng
công phu tu hành, bằng sự quyết tâm, bằng cả sinh mạng của mình đối với
pháp tu. Ta phải tự khắc tự hứa tu hành bao giờ bằng Phật mới vừa lòng
con. Nói như thế không có nghĩa chúng ta quá ôm đồm hay nói quá cao, mà
nói như thế để ta cố gắng vươn lên, thực hiện cho bằng được hoài bảo lớn
nhất trong đời tu của mình. Đó là giác ngộ giải thoát.
Muốn thực hiện
được điều ấy, trước nhất chúng ta phải có niềm vui, phải hoan hỷ. Từ niềm
vui, từ sự hoan hỷ đó chúng ta mới có thể tha thứ và buông bỏ tất cả. Chưa
có niềm vui, chưa hoan hỷ thì ta khó mở rộng lòng mình, nói gì tới buông
bỏ. Phải hiểu mọi vui buồn thương ghét không có gì quan trọng cả, chỉ có
giác ngộ giải thoát mới là chỗ nhắm đến duy nhất mà thôi. Đó là điều chúng
ta luôn luôn ghi nhớ thì mới có thể giữ vững đại nguyện. Có hoan hỷ, có
niềm vui rồi thì chúng ta mới nói đến vô ngã vị tha. Đây chính là niềm vui
thật sự. Thấy rõ như thế, chứng thực như thế mới có được nét hoan hỷ như
đức Phật Di Lặc.
Hình ảnh nổi
bật nhất nơi Ngài chính là nụ cười đại hoan hỷ. Một nụ cười bao la thương
yêu tất cả chúng sinh, không còn vướng mắc bất cứ điều gì. Chúng ta học
hạnh Ngài, thì phải buông xả cho được đại hoan hỷ như Ngài. Huynh đệ nào
còn có nét quạo quọ là chưa thực tập công phu tu tập của mình. Công phu ấy
không phải là cái gì trên trời trên mây, mà từ những việc bình thường,
huynh đệ gặp gỡ nhau, lúc ăn mặc ngủ nghỉ tiếp xúc làm việc… tất cả các
hành xử, chúng ta không tính toán hơn thua được mất, tâm thư thái tỉnh
giác, sẵn sàng tha thứ cho người, nhắc nhở mình luôn luôn quay lại xét nét
chính ta.
Đã là người tu
thì tối kỵ là tâm ganh ghét. Bởi có tâm ganh ghét thì không thể nào tha
thứ buông xả cho ai. Không buông xả được thì làm sao sống an vui hoan hỷ
đây? Phật bảo chúng sanh sống với tâm chân thật độ lượng, đừng sống với
thức tình vọng tưởng. Thân này đã không thật, cái mình cho là tâm suy nghĩ
hiểu biết cũng không thật, nó là bóng dáng của thức tình vọng tưởng. Thế
thì có gì để chúng ta ganh ghét đố kỵ nhau. Nếu sống với tâm thật, chúng
ta không có buồn giận thương ghét, sợ sệt ham thích. Thường ngày chúng ta
sống với tâm vọng tưởng cho nên chợt vầy chợt khác, chợt vui chợt buồn.
Cái đó không phải tâm ta. Đã không phải tâm mình thì chớ tin, chớ nghe
theo nó, nếu tin tưởng nó nhất định nó sẽ dẫn ta đi tới chỗ không tốt. Các
vị A-la-hán sau khi chứng quả vô sanh rồi thường nói: “Khi chưa chứng
Thánh, các ông chớ tin tâm mình”. Bởi vì tin tâm vọng tưởng giống như nuôi
giữ rắn độc trong nhà hay nói cách khác như nuôi ong tay áo nuôi khỉ dòm
nhà, nguy hại đến lúc nào không biết. Bao giờ thật sự yên, thực sự hoan hỷ
chúng ta mới tin tâm chân thật ấy chính là mình.
Có buông bỏ
tâm ganh ghét chúng ta mới hành được vô ngã vị tha. Tâm này không bỏ thì
tâm chân thật không thể nào hiện bày. Thành ra muốn chuyển hóa, thì phải
tống khứ các thứ cù cặn ra hết, thay vào đó những thứ tốt. Chúng ta nhớ
chiếc y ca sa mình đắp mang hình thức những đám ruộng. Ruộng ở đây là
ruộng phước điền, ruộng công đức, ruộng tu hành, ruộng định tuệ giải
thoát, chứ không phải ruộng cỏ gai, ruộng hôi xấu phiền não. Cho nên tu
tập là sửa đổi, ngày xưa mình tham sân tật đố, chứa nhóm bao nhiêu thứ
phiền não, thì bây giờ thay vào đó là từ bi hỷ xả. Ngày xưa ta lêu lỏng
ham chơi thì bây giờ chuyển đổi thành tụng kinh ngồi thiền, thay một giờ
si mê bằng một giờ thánh thiện giải thoát. Thay dần dần như thế miếng
ruộng của mình trở thành tốt đẹp, những thứ cỏ gai xấu xa bị nhổ bỏ hết,
bấy giờ ruộng công đức ra hoa kết quả, tốt tươi xinh đẹp biết bao.
Điều thứ hai
là chúng ta phải trị được những thứ loạn động của mình. Tâm còn loạn động
giống như nuôi khỉ trong nhà, nuôi ong tay áo. Bình thường thấy như thảnh
thơi an nhiên lắm nhưng có duyên gì không tốt thì ta rối loạn lên, mất hết
tự chủ. Phật dạy đối với tất cả những sự kiện đó không xem quan trọng, mà
phải phát huy định lực để dẹp tan tâm rối loạn. Lấy giới học để trị các
tâm xấu, lấy định học để khẳng định ông chủ của mình, lấy tuệ học để soi
thấu tất cả muôn pháp, không còn lầm lẫn thật giả nữa. Ai phát huy được ba
học này thì đến được bờ giải thoát, gọi là thành tựu tam vô lậu học.
Công phu tu
hành được như thế nhất định ta có niềm vui, có cuộc sống vô ngã vị tha.
Trong tất cả mọi sinh hoạt, thấy nghe rõ ràng nhận định thấu đáo, không bị
các duyên trói buộc ngăn ngại. Người tu hành mà thấy nghe không chuẩn,
nhận định không đúng thì hỏng đi đạo hạnh của mình, cho nên người tu phải
rất dè dặt chỗ này. Thà là không nói, còn nói thì phải phát xuất từ sự
tỉnh táo sáng suốt mới không tạo nghiệp. Tu hành cần phải như vậy.
Điểm thứ ba là
biết vận dụng trí tuệ quán chiếu, thấy được thực chất của các pháp. Nếu
chúng ta thiếu sự quán chiếu thì việc tu sẽ không đi tới đâu hoặc dễ rơi
vào tà kiến. Chúng ta vận dụng được trí quán rồi sẽ thấy bình an vô cùng,
niềm bình an đó không thể nào diễn tả hết được. Khi có được sự quán chiếu,
đầy đủ tỉnh lực ta thấy rõ ràng mọi sự kiện chung quanh một cách như thật,
không còn lầm lẫn nữa, nên ta không có phiền não, không bị khổ đau.
Có một vị thầy
nổi tiếng từ bi hiền lành, cả vùng ai cũng quý kính. Trong làng, có anh
Phật tử đó mến mộ, bỏ nhà đến chùa phát nguyện đời đời kết duyên với thầy,
xin được thừa sự, gần gũi tu học theo thầy. Được một hai năm, anh bắt gặp
thầy nổi quạo. Lần đầu chỉ quạo trên nét mặt, lần sau thấy thầy bực bội la
lớn tiếng. Thế là vị thầy từ bi không còn trong lòng anh nữa, anh chẳng
muốn làm gì dưới sự sắp xếp của thầy. Nói thẳng với thầy thì không dám,
nên anh hay cự nự với mấy huynh đệ, nhất là vị phân công cho anh mỗi ngày
quét sân. Anh tự nghĩ, mình vô đây để tu chứ đâu phải để quét sân, lại còn
gặp phải ông thầy chẳng ra gì nên phiền não lắm. Lần lần những thứ cù cặn
bên trong phát tiết ra ngoài, nó mọc nhánh mọc sừng, ra gai ra rễ cuối
cùng chịu hết nổi, anh ta cuốn gói đi. Đi đâu cũng không có chỗ hoàn bị,
nơi thiếu cái này, nơi thiếu cái kia… đủ chuyện trên đời. Anh chợt nhớ tới
thầy và tự nghĩ dầu sao ông cũng là thầy mình, thôi quay về sám hối với
thầy.
Vị thầy thấy
anh quay về, hỏi:
- Hồi đó ông
đi âm thầm không nói với tôi một tiếng, sao bây giờ lại quay về ?
Anh thưa:
- Bạch thầy
bây giờ con hiểu ra rồi, con xin sám hối thầy, thầy hoan hỷ tha thứ cho
con.
Ông thầy bình
thản gật đầu, gương mặt hoan hỷ như không có chuyện gì. Chừng đó anh mới
thấy thầy mình quả thật đáng quý, đã hành hạnh của Bồ-tát Di Lặc, nên mới
có thể tha thứ dễ dàng cho một người đệ tử đã có lỗi như anh. Từ thầy, anh
học được hạnh vô ngã vị tha. Thế là nhờ tâm hoan hỷ độ lượng của thầy, anh
đã được chuyển hóa, bỏ đi thói cao ngạo của mình, dốc lòng tu học rất tinh
tấn.
Cho nên công
phu tu hành ở giai đoạn thứ ba này là luôn hoan hỷ vận dụng trí tuệ quán
chiếu để có được cái thấy thật sâu sắc. Nếu chúng ta đã thành Phật, Bồ-tát
thì khỏi nói tu hành. Vì còn hụt hẫng chưa hoàn bị nên ta còn học còn tu,
còn quán chiếu. Nhờ có phiền não khi vầy khi khác, nên ta mới thức tỉnh,
biết soi lại mình nhận ra cái gì thật cái gì giả, vì vậy phiền não đối với
người tu là cơ hội để tiến đạo.
Sử dụng quán
chiếu tức là dùng trí dụng để tu. Từ tánh giác sáng suốt trùm khắp phát
sinh trí dụng hay chiếu soi các đối tượng chung quanh đời sống chúng ta.
Đối với chúng ta, thần thông là sử dụng được trí tuệ của mình, phát huy
được trí dụng phá tan vô minh, chứ không phải bay lên trời lên mây để trốn
nghiệp, trốn phiền não. Cho nên nói tu thiền cần phải quán chiếu để thấy
rõ. Chữ quán là quán xét, chữ chiếu là soi rọi, quán chiếu là quán xét soi
rọi cho tới nơi tới chốn thật tánh của các pháp..
Giai đoạn thứ
tư là vượt đối đãi, không nghĩ thiện không nghĩ ác, tự tại vô ngại, tức là
giải thoát vậy. Ở đây nói giải thoát nghĩa là không vin theo, không dính
mắc. Ví dụ ngửi thấy mùi của thức ăn, biết đó là mùi vị ngang chừng đó
thôi, đừng nghĩ món đó làm cho ai ăn, mình có không. Nếu khởi nghĩ như
thế, mà mình không có phần thì sẽ phiền não ngay. Do không nghĩ, không
vọng tưởng trên mùi vị, nên không có phiền não, không tạo nghiệp. Ngửi mùi
thơm biết rõ mùi thơm, vậy thôi, đó là sống với tánh giác rồi.
Tánh giác của
chúng ta không bị hạn cuộc nơi các trần, cũng không thể dùng suy nghĩ phân
biệt mà chia chẻ được. Tánh giác là sự sáng suốt trùm khắp mà không dính
vào đâu hết. Người sống được với cái tánh giác không mắc kẹt nên không cần
tháo gỡ gì cả. Chúng ta vì tập nhiễm vô minh phiền não lâu đời nên bây giờ
tháo gỡ là tháo gỡ tập nhiễm, chứ không đụng gì đến tánh giác. Bao giờ tập
nhiễm hết, tự nhiên tánh giác hiện bày tròn đầy. Nói tu hành là giai đoạn
chưa xong việc, chứ đã xong việc thì vượt ngoài hai bên, không có pháp để
tu và cũng không có người hay tu.
Nói thế để
chúng ta thấy tất cả sự kiện chung quanh không có gì thật hết, không thật
mà mê thì đi trong luân hồi sanh tử không có ngày cùng. Cho nên biết phước
nghiệp không thật, không có tướng mà có sức mạnh vô kể. Chỉ có trí tuệ mới
có thể đối trị được chúng. Vì vậy muốn đến được chỗ rốt ráo viên mãn,
chúng ta phải tạm mượn phương tiện tu hành. Một lúc nào đó ngồi thiền, ta
chợt nhớ ra “À!” một tiếng rồi cười vang, thế là tất cả được mở tung, mới
biết mọi việc xưa nay ta cố công theo đuổi chỉ là chùm sương khói mà thôi.
Sự vật vô
thường, con người luôn thay đổi, nếu không tìm lại được chính mình thì
ngàn đời muôn kiếp chúng ta trôi dạt trong sanh tử khổ đau. Dù khoa học có
lên đến tận mây xanh, con người văn minh tiến bộ đến thay trời làm mưa làm
gió, nhưng rồi tất cả cũng không thoát khỏi định luật thành trụ hoại không
hay sinh lão bệnh tử. Như vậy cội gốc đau khổ của con người vẫn còn. Chỉ
cái không sanh diệt là an vui vĩnh cửu, vậy tại sao chúng ta có sẵn mà
không chịu nhìn nhận, lại nỡ lòng xua đi, để phải chịu bao nhiêu kiếp tăm
tối.
Thành ra giai
đoạn thứ tư là vượt khỏi sự đối đãi sanh diệt của thế gian, sống vô ngã vị
tha trong tánh giác sẵn có của mình. Chừng ấy tâm ta luôn hoan hỷ vì không
còn phiền não, có thể nói hoàn toàn thanh tịnh. Cho nên trên đường tu,
chúng ta dè dặt cẩn thận đối với tất cả cảnh duyên, tất cả pháp tu đừng
nắm giữ gì cả. Còn nắm là còn khổ, không thể giải thoát được. Phật dạy
không phải chỉ tu những pháp tà mới gọi là ngoại đạo, người tu chánh đạo
mà cố chấp vẫn gọi là ngoại đạo như thường. Bởi vì pháp của Phật chỉ là
phương tiện đưa chúng ta đến bờ chân thật, không phải cứu kính. Trong
những bản kinh lớn như kinh Lăng Già, kinh Hoa Nghiêm, kinh Thủ Lăng
Nghiêm Phật đều dạy, ai chưa buông được thì đó là tà ma ngoại đạo, chứ
không phải đệ tử Như Lai.
Trong kinh
Pháp Hoa đối với những vị đại đệ tử đã chứng quả vô sanh, Phật thường nói
đây chỉ là hóa thành, không phải Bảo Sở, các ông cần phải tiến lên, không
nên an lòng cho mình đã đủ. Khi Phật nói điều đó 500 Tỳ-kheo tăng thượng
mạn, đứng dậy bỏ đi, đức Phật im lặng không nói một lời, vì biết niềm tin
của những vị này chưa đủ, nên có giữ lại cũng không lợi ích gì.
Kiểm lại việc
tu hành của chúng ta ngày nay xem có rơi vào trường hợp đó không? Thường
ta hay tự tôn hoặc tự ti, nghĩa là cho mình đã tuyệt vời hơn hết hoặc luôn
nghĩ mình không thể thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Cả hai trường hợp này đều
là bệnh, làm chướng ngại việc tiến đạo của chúng ta. Hóa thành dù có an
vui vẫn là không thật, không nên dừng lại ở đó, phải khắc tỉnh tiến lên.
Trong nhà thiền có câu “Đầu sào trăm trượng cần tiến bước”, nghĩa là tới
chỗ cao vời ấy cần phải vọt lên nữa mới được.
Cuối cùng tôi
muốn nhắc nhở tinh thần gắng gổ phấn chấn cho tất cả huynh đệ chúng ta.
Không nên có thái độ mù mờ ù lì một chỗ mà phải phấn chấn lên. Hòa thượng
thường dạy huynh đệ chúng ta đang leo lên núi, chưa tới nơi thì không có
quyền đứng lại, đứng lại rất nguy hiểm. Mệt thì ngừng một tí, rồi tiếp tục
bước lên, chừng nào tới đỉnh tha hồ ngồi hóng mát bốn phương trời, thấy
khắp mười phương mới biết ta đã toàn tánh mạng. Còn bây giờ trong lúc đang
tu, không để cho một niệm tạp xen vào làm trở ngại bước tiến của mình.
Hoặc như hình ảnh đường xa gánh nặng, trời trưa nắng gắt. Muốn mau đến
nơi, chỉ có việc thảy hết đồ đạc trong gánh ra, dù ngọc ngà trân bảo cũng
không thể bảo toàn tánh mạng khi sức đã kiệt. Người khôn sáng muốn đi tới
nơi phải biết rõ điều này.
Chúng ta còn
gánh nhiều thứ lắm, nào là sư phụ của tôi, sư anh, sư chị, sư em… đủ thứ
lý do để ta biện luận rằng đây là những người mình cần phải thương mến đùm
bọc nhau tu hành. Thật ra ta đang gánh đó chứ, dù sắp ngã gục giữa đường
vẫn không muốn bỏ, như vậy thì biết bao giờ tới nơi ! Cha mẹ, anh em, Thầy
tổ, bạn hữu cũng không thể thay được sanh lão bệnh tử cho nhau đâu, đừng
bận bịu chuyện ấy chi cho mất công. Mỗi người tự lo cho mình là đã thành
tựu cho nhau. Cho nên hành giả tu thiền phải dũng mãnh như chúa tể sơn
lâm, rống một tiếng là cây cỏ rạp sát, muôn thú vỡ hồn mất vía. Được thế
mới mong đảm đang việc lớn.
Hôm nay kỷ
niệm ngày Phật Di Lặc đản sanh, chúng ta học theo gương hạnh của Ngài,
luôn từ bi hoan hỷ tha thứ tất cả. Tu Phật là phải thực hiện được tinh
thần vô ngã vị tha. Bằng trí dụng của mình, chúng ta thường xuyên chiếu
soi lại chính mình để phá tan mọi mê lầm tăm tối, nhận lại trọn vẹn mặt
mắt thật xưa nay của ta. Thực hiện trọn vẹn như vậy là thể hiện niềm vui
vô ngã vị tha, và đỉnh cao của công phu chính là sự giác ngộ giải thoát.
Chúc toàn thể
đại chúng hưởng được một mùa Xuân Di Lặc bằng chính tâm hoan hỷ tràn đầy
của chính mình. |