ĐỊNH HƯỚNG TUỆ GIÁC QUA SỰ TU TẬP CỦA CHÚNG TA
Hôm nay kỷ
niệm ngày đản sinh lần thứ 2543 của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Giờ
này trên khắp năm châu, những người con Phật đang cúi đầu dưới đài sen,
thành kính dâng lòng mình lên đức Thế Tôn với lời tự khắc tự hứa “Chúng
con nguyện đời đời noi theo sự giáo hóa của đức Phật tu hành để được giác
ngộ như Ngài”.
Vì vậy đề tài
chúng ta sẽ nhắc đến ở đây là định hướng tuệ giác của người con Phật. Tuệ
giác ấy được thể hiện qua năm loại nhãn quan: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ
nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn. Năm loại nhãn quan này là diệu dụng của tánh
giác, tùy trình độ tu tập của mỗi người mà năng lực có được khác nhau.
Sau khi thành
đạo rồi, đức Phật thốt lên lời này “Lạ thay, tất cả chúng sanh đều có đức
tướng trí tuệ của Như Lai, nhưng vì sao ngu mê đánh mất đi, để bị trôi lăn
trong luân hồi sinh tử không có ngày cùng”. Đây là lời nói đầu tiên dưới
cội Bồ-đề sau khi đức Phật thành tựu quả vị chánh giác. Các Thiền sư cũng
luôn nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ bỏ quên tánh giác. Người tu phải sáng
suốt, tỉnh táo, buông bỏ tất cả những niệm tưởng lăng xăng để nhận lại
tánh giác của chính mình. Nhận được tánh giác rồi tức đầy đủ trí tuệ đức
tướng như Phật, Bồ-tát, người ấy sẽ không bao giờ bị trôi dạt trong vòng
luân hồi sanh tử nữa.
Trước tiên nói
về “Nhục nhãn”, tức đôi mắt bằng máu thịt của chúng ta. Thế gian dùng con
mắt này để nhìn ngắm lựa chọn theo tâm phân biệt của họ. Cho nên khả năng
của Nhục nhãn rất hạn chế và không chính xác. Nó tùy thuộc vào ý thức phân
biệt và nhãn căn tốt hay xấu của mỗi người. Tuy nhiên, đối với người đã
nhận ra và sống được với tánh giác, dù đang ở giữa cuộc đời này nhưng có
đôi mắt sáng, không còn lầm tất cả cảnh duyên chung quanh nữa. Một chữ lầm
này mà chúng sanh đã tạo bao nhiêu nghiệp nhân bất hảo, để phải chịu nhiều
đau khổ trong luân hồi sanh tử. Vậy hiệu năng đầu tiên của người tu Phật
là có đôi mắt trí tuệ không lầm tất cả hiện tượng chung quanh.
Người Phật tử
Việt Nam, trong giờ phút thiêng liêng này cũng chí thành đối trước Thế
Tôn, tự nguyện rằng “Chúng con không bỏ quên, không lầm mê nữa, nguyện xin
hồi đầu tỉnh giác nhận ra cái thật của mình để được thể nhập tánh giác.
Chúng con nguyện dùng trí tuệ nhận biết rõ đâu là thật, đâu là giả để cuộc
sống an lạc. Từ đây cho tới ngày hoàn toàn giác ngộ thành Phật, nhất định
chúng con không bị lui sụt nữa”. Đó là giai đoạn thứ nhất.
Thứ hai là
“Thiên nhãn” tức đôi mắt chư thiên. Đôi mắt này nhìn tinh tế thấu suốt hơn
Nhục nhãn. Hiệu năng của nó đặc biệt hơn, nghĩa là chúng ta hằng sống với
tánh giác, không chạy theo pháp trần, không bị cuốn lôi bởi bất cứ cảnh
duyên nào thì đôi mắt tuệ của chúng ta sẽ thấu suốt hơn, có thể biết quá
khứ vị lai, biết được những gì đã qua và sẽ đến của tất cả chúng sanh. Nói
thế không có nghĩa là dùng Thiên nhãn để bói toán kiết hung, xem quá khứ
vị lai mà chúng ta phải hiểu hiệu năng của Thiên nhãn như vậy với người tu
hành đúng pháp.
Sở dĩ chúng
sanh bị luân hồi sanh tử không có ngày cùng là vì quên tánh giác, bỏ quên
trí tuệ đức tướng của mình. Bây giờ thức tỉnh luôn luôn hằng giác thì các
duyên trần bên ngoài không thể phủ lấp tánh giác nữa. Nói cụ thể người có
công phu tu hành đến giai đoạn thứ hai này thì định tỉnh và có trí tuệ
thông suốt tất cả. Đừng nghĩ rằng chỉ có các bậc Bồ-tát, các bậc Thánh mới
được như vậy, tất cả chúng ta đều được như vậy, với điều kiện ta y như lời
Phật dạy, hành trì và thể nhập được tánh giác của chính mình. Vì vậy người
có công phu đến đây thì không còn lui sụt nữa, nên gọi là bậc bất thối
chuyển.
Thứ ba là Tuệ
nhãn, tức con mắt trí tuệ thấu đáo, thấy được lẽ thật của muôn pháp. Đến
đây công phu tu hành thâm sâu chắc thực hơn nữa. Người tu nếu nhận định
đúng, công phu mỗi ngày mỗi tăng tiến thì nhất định sẽ có Tuệ nhãn. Trong
quá trình tu tập, không ít hành giả bị thoái chuyển bởi những nghiệp tập
của mình. Cho nên người chiến thắng được mình, làm chủ được mình dứt bỏ
những thói quen tật xấu, những chủng tử đã huân tập từ nhiều đời xứng đáng
gọi là người đại bản lĩnh, là bậc trượng phu. Có tu mới thấy nhẹ nhàng, an
vui vì nhìn tất cả mọi sự mọi vật bằng con mắt trí tuệ thì đâu còn phiền
não nữa.
Nếu người tu
chưa điều phục được vọng tưởng, còn bị động thì còn phiền não nên rất dễ
thoái chuyển. Điều này hiện thực trong cuộc đời, trong từng tâm niệm và cả
trong lúc chúng ta hành trì pháp Phật. Bởi vì chạy theo vọng tưởng thì
không phút giây nào ta hài lòng với người với cảnh, đôi khi với ngay cả
chính mình. Chỉ người tu Phật, nhận được cái gốc của mình, làm chủ rồi mới
thoải mái tự tại trước mọi cảnh duyên biến đổi. Do đó tất cả động cơ tạo
nghiệp đều dừng. Dừng nghiệp tức là chấm dứt dòng sanh tử. Đây là một vấn
đề hết sức quan trọng, bởi vì ta học hiểu nhẫn đến rất thích thú pháp Phật
dạy, nhưng khi hành trì mới thấy cay đắng, không phải dễ.
Phật chỉ những
chỗ ách yếu nhất trong việc tu hành không ngoài tâm ta mà có, nhưng nếu
chúng ta chưa thực hiện được, chỉ hiểu suông, nghe suông thôi thì không có
lợi lạc gì. Do đó người hành trì đến giai đoạn này phải là người thật sự
bình ổn, nhờ con mắt trí tuệ định hướng cho việc tiến đạo không còn thoái
chuyển nữa. Thật ra việc tu đạo khó khăn lắm, có những người đi được một
phần ba đường thì thoái chuyển, có những người được nửa đường thì thoái
chuyển, có những người đã hơn nửa đường vẫn bị thoái chuyển. Vì sao? Vì
chưa nhận được cái thực của chính mình nên chưa đủ lòng tin. Cho nên chỗ
này rất quan trọng.
Chúng ta phải
làm sao bước từng bước vững vàng, tiến được đến chỗ chân thật bình ổn rồi
hãy nói đoạn đường mình đã đi qua. Nghĩa là khi ta đủ lực, bình tỉnh sáng
suốt, không còn vướng mắc một tí gì trong lòng, mới biết chỗ bình thường
nhật dụng của mình không sai lạc, chừng đó mới dám nói với người. Phần
nhiều kẻ chưa tu được đến nơi hay vỗ ngực xưng tên, chứng tỏ ta đã được
như thế, nhưng khi tiếp duyên xúc cảnh không làm chủ được, nên khổ vẫn
hoàn khổ. Được ít tưởng nhiều, đó là bệnh chung của đa số người mới học
đạo. Thành ra giai đoạn thứ ba của người tu hành là đạt được trí tuệ bất
thoái, có định hướng rõ ràng cho việc tu tập đến ngày giác ngộ viên mãn.
Những dây mơ rễ má chung quanh không làm gì được người này nữa, tạm gọi là
có chút tin vui. Tuy nhiên đoạn đường còn lại thành tựu sớm hay muộn tùy
thuộc vào sự nỗ lực của mỗi người.
Trong kinh kể
lại, có một Bà-la-môn đến hỏi đức Phật:
- Trong giáo
pháp của Thế Tôn, nếu áp dụng tu hành thì tất cả mọi người đều được thành
tựu hay có người thành tựu, có người không thành tựu?
Phật trả lời:
- Có người
thành tựu, có người không thành tựu.
- Bạch đức Thế
Tôn, tại sao như thế?
Phật nói:
- Người nào
nghe pháp của ta quyết tâm hành trì liên tục, không thoái chuyển thì người
đó chắc chắn sẽ được thành tựu. Còn người nghe rồi hẹn mai hẹn mốt, không
chịu hành trì thì dù nghe bao nhiêu lần, được những pháp yếu đặc biệt gì,
vẫn không bao giờ thành tựu.
Cho nên chủ
yếu là việc thực hành. Chúng ta không ỷ lại hay trông chờ vào ai, mà tự
mình phải hạ quyết tâm. Thành Phật hay không là do mình, còn pháp yếu tất
cả chúng ta đều đủ duyên học hiểu nhiều rồi. Nếu bị ngoại duyên ràng buộc,
làm trở ngại công phu hằng ngày của chúng ta thì dù có học hiểu bao nhiêu,
kết quả vẫn không được gì. Phải biết tất cả lời dạy của đức Phật là do
chính Ngài thân chứng, tự thể nghiệm, tự thành tựu, sau đó Ngài mới đem ra
chỉ dạy lại chúng ta. Vì vậy đó là sự thật được thể nghiệm một cách triệt
để, thế thì chúng ta nghe mà không thể nghiệm được thì làm sao biết được
lợi lạc thiết thực của pháp. Tuệ nhãn từ công phu tu hành mà có. Cho nên
hành giả đến đây là do kết quả tu tập của mình, chứ không phải từ bên
ngoài mà được.
Phật tử chúng
ta nói về hiểu thì đã hiểu, nhưng nói về hành thì còn lăng xăng lắm. Cho
nên hiểu mà không sâu sắc, hành mà không hưởng được kết quả thiết thực
trong Phật pháp. Đã thế thì sẽ ngược xuôi trên ngôn cú, hình thức, hiện
tượng bên ngoài, chưa thể nhập vào nội tại tâm chân thật của mình. Như thế
chưa gọi là hiểu đạo thấy đạo. Phải một phen gắn bó, thấy tột, không thoái
chuyển nữa thì thân này và tất cả cảnh duyên bên ngoài chẳng còn giá trị
gì nữa, vì ta đã nhận được cái chân thật cao quý gấp trăm vạn lần.
Thứ tư là Pháp
nhãn tức con mắt pháp. Con mắt này giúp các bậc tu hành tiếp thu chánh
pháp rõ ràng và giáo hóa chúng sanh thành tựu. Sau khi hành giả đã đến chỗ
không thoái chuyển, tu hành có đạo lực, thẩm thấu Phật pháp rồi thì việc
trước mắt là làm lợi lạc tất cả chúng sanh. Tạo phương tiện hướng dẫn giáo
hóa hoằng pháp lợi sinh làm sao cho tất cả chúng sanh đều được an lạc. Đó
là lòng từ bi phát sinh từ trí tuệ. Đến giai đoạn này con mắt pháp muốn
lợi lạc chúng sanh hiện bày. Vì vậy người tu đúng chánh pháp, càng tu càng
mở rộng lòng mình ra, càng tu càng hiền, càng thương người. Cho nên ta đã
bình an thì sử dụng được tất cả pháp một cách lợi lạc, chan rải lòng từ bi
đến với tất cả chúng sanh mà không hề thấy mệt mỏi. Đây là giai đoạn được
con mắt pháp. Hành giả đến được chỗ này có thể nói công phu đã rất thâm
hậu vậy.
Cuối cùng là
Phật nhãn. Phật nhãn là con mắt hoàn toàn sáng suốt, trùm khắp, gồm thu và
vượt qua bốn loại mắt trên. Có thể nói từ thiền định được giác ngộ giải
thoát và đầy đủ con mắt này. Đây là con mắt của Phật, của những bậc đã tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, có trí tuệ và từ bi tròn đầy. Ở đây
tôi trở lại vấn đề thiền định một chút. Người lắng sâu trong thiền định là
người bất động đối với các pháp và thấu suốt được tất cả các pháp. Đến
giai đoạn này dùng con mắt tuệ giác chiếu soi trùm khắp, không ngăn ngại
không bờ mé.
Tuy hiện thời
chúng ta chưa đạt đến chỗ này, nhưng trong công phu tu hành ta có thể
nghiệm thấy sự thông sáng mở ra từng chút từng chút trong quá trình tu tập
của mình. Bao giờ chúng ta không bị vướng mắc bởi bất cứ thứ gì, yên lắng
hoàn toàn, thì con mắt này hiển hiện rỗng rang sáng suốt trùm khắp. Sở dĩ
chúng ta chưa có Phật nhãn là vì cảnh duyên còn làm trở ngại. Nếu tâm
chúng ta dứt hết các vọng lự, thường thấy biết rõ ràng nhưng không khởi
phân biệt, an trụ nơi cái linh tri chân thật thường hằng thì con mắt Phật
ngay đó chứ không đâu khác.
Chỗ này Hòa
thượng Viện trưởng thường ví dụ như gương sáng đặt ở trước mặt, hết bóng
này đến bóng kia hiện ở trong gương, nhưng khi tất cả hiện tượng đó qua
rồi thì gương sáng vẫn là gương sáng. Gương không có tâm lưu giữ bóng,
bóng cũng không có ý để hình ở trong gương. Cả hai đều vô tâm, chỉ tùy
duyên ứng hiện, không lưu lại dấu vết. Đó chính là chỗ tâm cảnh nhất như,
trong sáng nhi nhiên. Chỗ này các Thiền sư đã mượn hình ảnh con nhạn bay
qua đầm nước, bóng nhạn in trên mặt đầm. Con nhạn không có tâm lưu bóng
trong đầm, đầm nước cũng không có ý giữ bóng nhạn. Con nhạn bay qua thì cứ
bay qua, đầm nước trong vẫn đầm nước trong. Nói theo triết học thì chủ thể
khách thể, mỗi thứ ở vào vị trí của mình, không cái nào xâm lấn cái nào
hết. Khách thể không xâm lấn chủ thể, chủ thể cũng không có ý đồ xâm lấn
khách thể. Trong nhà thiền nói đây là chỗ tâm cảnh nhất như vậy.
Cho nên người
đã làm chủ, đầy đủ trí tuệ thì thể hiện tròn đầy tính chất như như bất
động của mình đối với các pháp. Chỗ này thấy được liền thấy, rất nhanh rất
giản dị. Không thấy được thì thôi, tuyệt đối không thể lấy tâm tìm cầu suy
nghĩ mà lãnh hội được. Người được như vậy có thể gọi là Thiền sư, tự tại
đối với các pháp. Đến khi công đức tròn đủ, lợi mình lợi người đã xong thì
gọi là Phật. Cho nên được con mắt này là Phật nhãn, hoàn toàn sáng suốt
không còn mê lầm tối tăm nữa.
Từ Nhục nhãn
cho đến cuối cùng là Phật nhãn trải qua một quá trình tu tập tăng tiến,
chứ không thể bỗng dưng mà có được. Người tu thiền phải thực sự nếm trải
mới có các định hướng tuệ giác như đã nêu. Tuy nói lớp lang từ mắt thứ
nhất cho tới mắt thứ năm, nhưng không nhất thiết phải như vậy. Người nào
nhận và sống được với tánh giác liền có Tuệ nhãn ngay. Hoặc người đã nhiều
đời sâu trồng chủng duyên Phật một nghe ngàn ngộ, ngay đó liền mở toang
Phật nhãn, thể nhập pháp thân giác ngộ giải thoát, và rộng độ vô lượng
chúng sanh. Chúng ta không thể quyết đoán được điều này. Tùy theo mức độ
công phu, chúng ta có được những năng lực thuộc Nhục nhãn, thuộc Thiên
nhãn, thuộc Tuệ nhãn, thuộc Pháp nhãn hay thuộc Phật nhãn.
Thêm một điều
nữa, chúng ta cũng không thể nhìn hình thức bên ngoài mà kết luận về mức
độ tu chứng của mỗi người. Không luận người già hay người trẻ, trí thức
hay bình dân mà chỉ chú trọng trên tánh linh. Người nào công phu có hiệu
năng thì được lợi lạc an ổn. Người nào công phu không có hiệu năng thì còn
bị vướng mắc khổ đau. Người thành tựu được các pháp thì niềm tin rất kiên
cố. Sở dĩ ta chưa tin là vì mình chưa nhận được chỗ thấu đáo, chưa phát
huy được trí tuệ Bát-nhã.
Các nhà Nho
xưa thường nói: “Sáng nghe đạo chiều chết cũng vui”. Lời nói này thể hiện
niềm tin vững vàng. Còn chúng ta học đạo mấy mươi năm mà vẫn sợ chết nghĩa
là sao? Vì chưa vững niềm tin. Tin cái gì? Phật nói thân này hư giả mà
mình chưa tin chắc. Phật nói chúng sanh có tánh giác bất sanh bất diệt
mình cũng chưa tin chắc vì chưa nhận ra. Bởi tu mà không vững niềm tin nên
kết quả không rốt ráo, không được lợi lạc thiết thực bao nhiêu.
Đức Thế Tôn là
một con người như bao nhiêu con người bình thường khác, có cha mẹ, có thân
tộc. Nhưng khi chứng kiến già bệnh chết thống khổ của kiếp người không một
ai thoát ra được, Ngài trăn trở khoắc khoải. Sau khi có vợ con, Ngài vẫn
cảm thấy nỗi khổ luôn đeo đẳng trong thân phận con người. Đằng sau lớp son
phấn lụa là, hiện nguyên hình nhơ nhớp của chiếc thân này với mồ hôi, đàm
dãi… không còn gì đẹp đẽ nữa. Chứng thực như vậy nên cuối cùng Ngài quyết
định tìm đường giải thoát. Từ nỗi trăn trở đó và với một ý chí tuyệt vời,
đức Phật đã đạt được sở nguyện của mình bằng thiền định và trí tuệ, Ngài
hoàn toàn giác ngộ giải thoát và thành Phật.
Tấm gương của
đấng Giáo chủ đang sáng soi đó, tại sao chúng ta không nghĩ mình cũng có
thể tu tập và được giác ngộ giải thoát như Ngài. Bao giờ thấy rõ như vậy
ta mới vững niềm tin nơi khả năng của mình. Niềm tin trong đạo là niềm tin
chánh pháp, niềm tin làm chủ được mình. Được vậy rồi dù hiện tại thân
nghiệp báo của chúng ta không tốt, mình cũng tin rằng ta có thể thành
Phật. Cho nên không ai là không tu được.
Điểm quan
trọng nữa là yếu tố siêng năng. Tinh tấn có một sức mạnh, một năng lực rất
phi thường. Như đức Phật suốt sáu năm khổ hạnh trong rừng, không một niệm
giải đãi. Cho đến thân thể chỉ còn da bọc xương, Ngài vẫn không hề thối
chuyển trên con đường tìm đạo giác ngộ. Công phu tu hành nếu không có sự
tinh tấn làm chất xúc tác thì khó có thể đạt được mục đích cứu kính. Vì
vậy chúng ta phải siêng năng tu hành liên tục, chừng nào bằng Phật mới vừa
lòng con.
Việc tu hành
chính là sự tỉnh thức ngay nơi những sinh hoạt bình thường. Cho nên chư Tổ
thường nhắc “Hãy nhìn dưới gót chân mà đi”. Từng bước đi ta niệm thân, ý
thức hơi thở ra vô rõ ràng, không để pháp trần lôi dẫn. Cứ công phu liên
tục như vậy, nhất định chúng ta sẽ tiến tới cùng. Phần nhiều chúng ta cũng
có quyết tâm, nhưng trong điều kiện thường thôi. Nếu gặp trường hợp khó
khăn ta rất dễ bị lung lay, vì vậy trên bước đường tu tập khó đạt được mục
đích cuối cùng. Chúng ta phải có sự khẩn thiết, mỗi đêm dâng hương lễ Phật
thành tâm nguyện cho con được đầy đủ tỉnh lực, siêng năng liên tục mới
mong việc tu có kết quả như ý.
Với người tu
thiền, phải tâm tâm niệm niệm, khẳng định liên tục thì mới thành công. Cho
nên Hòa thượng thường nhắc đến ý chí, tâm trường viễn và tâm kiên cố là
những điều kiện thiết yếu giúp hành giả đạt được giác ngộ viên mãn. Người
ta thường nói không có thành công nào mà không đánh đổi bằng mồ hôi nước
mắt, huống gì việc tu hành thành Phật mà muốn dễ dãi được sao?
Chữ “niệm” là
nhớ chớ không có gì lạ. Thường chúng ta không nhớ hoặc nhớ rồi lại quên.
Cho nên công phu không đạt được kết quả bao nhiêu. Trước Phật dâng hương
thì nhớ, nhưng lạy Phật xong rồi trở ra làm việc thì quên. Quên tánh giác
của mình mà lại nhớ chuyện khác. Nhớ thương nhớ giận, nhớ ăn nhớ mặc, nhớ
tốt nhớ xấu, nhớ thành nhớ bại, nhớ đủ thứ chuyện trên đời thì làm sao nhớ
Phật được. Cho nên công phu đòi hỏi chúng ta phải có sự chú tâm, nhớ một
việc duy nhất thôi. Nhớ tánh giác, nhớ Phật chứ không nhớ cái gì khác. Chỉ
nhớ một việc ấy thì dù có gặp trở ngại, ta cũng tập trung được định lực để
vượt qua.
Như từ đây
muốn về thành phố Hồ Chí Minh, phải qua những đoạn đường gồ ghề hoặc bằng
thẳng, chung quanh có phố thị, hoa quả, cảnh trí mỗi đoạn mỗi khác. Nếu
chúng ta muốn về tới thành phố trót lọt, thì dù đoạn đường như thế nào ta
cũng cứ đi, không để tâm nhìn ngắm, không la cà nơi này chốn nọ. Khẳng tâm
như vậy, đầy đủ ý chí nghị lực như vậy nhất định ta sẽ về được tới nơi.
Bằng ngược lại, chẳng những không đến nơi an toàn mà giữa đường có khi bị
tai nạn vây khốn, không thể lường trước được. Những thứ mời mọc đó đây
giống như vọng tưởng điên đảo của chúng ta. Chúng chợt hiện chợt mất, nếu
ta buông cái này bắt cái kia thì biết chừng nào mới an lạc. Cho nên cần
phải chú tâm, phải khẳng định thì việc tu mới thành công.
Điểm cần lưu ý
nữa là định lực phải tập trung thống nhất. Ví dụ các vị tu Tịnh Độ, niệm
Phật chuyên nhất không xen tạp mới được Phật tiếp đón về thế giới Cực Lạc.
Nếu không như thế, nay tu pháp này mai tu pháp nọ thì đắc lực đến đâu cũng
không có kết quả. Người tu thiền cũng vậy chỉ một đường thẳng tắt, làm sao
định tâm nhận ra và sống được với tánh giác, làm sao cho trí tuệ trùm
khắp. Giả dụ như chúng ta đang tu như thế, có ai rủ rê tu pháp khác linh
thiêng mầu nhiệm lắm, ta vẫn thản nhiên, không để ý không lung lay gì cả.
Tập trung như vậy, trước sau như một mới mong thành công.
Điểm sau cùng
là tuệ lực. Tuệ lực là gì? Tức là sức mạnh của trí tuệ siêu việt tối
thượng, vượt qua tất cả mọi vô minh ám chướng, sáng soi thấu suốt thực
tướng muôn pháp. Nói tóm lại trong công phu tu hành, bắt đầu từ con mắt
thường ta thấy được định hướng tu hành, thấy được đường đi và nắm vững tất
cả sự kiện rồi, thì quyết tâm hạ thủ công phu. Trí tuệ sẽ phát triển dần
theo một chiều hướng nhất định, cho đến lúc tuệ giác tròn đầy, ta có đủ
năm thứ mắt như trên là công phu đã thành tựu viên mãn. Muốn thế, chúng ta
phải có niềm tin vững chắc, siêng năng liên tục, đầy đủ ý chí nghị lực,
phát tâm kiên cố trường viễn. Hội đủ các điều kiện như thế, việc tu chắc
chắn thành công.
Chúng tôi nêu
lên vài điểm cần thiết để bổ sung cho định hướng tu hành của người con
Phật nhân ngày kỷ niệm đức Giáo chủ ra đời. Từ những điểm này, kinh qua
quá trình tu tập của mỗi người, chúng tôi tin rằng tất cả chúng ta đều sẽ
được giác ngộ giải thoát. Tuy nhiên tùy nơi mỗi hành giả mà kết quả sự tu
mau chậm đúng sai khác nhau. Điều này giống như câu trả lời của Phật cho
vị Bà-la-môn ở trên. Người học pháp khéo bảo trì công phu liên tục thì
được giác ngộ giải thoát. Còn hiểu mà không áp dụng thì trọn đời chẳng
được lợi lạc gì.
Hôm nay nhân
ngày kỷ niệm đức Phật đản sanh, chúng ta nguyện đem hết công phu tu tập
của mình làm pháp dâng lên cúng dường đức Thế Tôn. Đó là phương pháp cúng
dường cao đẹp nhất, đầy đủ công đức nhất và có ý nghĩa nhất của người con
Phật chúng ta.
Kính mong toàn
thể đại chúng được khai mở tuệ giác, như pháp mà cúng dường mười phương
chư Phật, để gọi là một chút đền đáp tứ trọng ân. |