TU TẠO ĐỨC TƯỚNG TỪ BA NGHIỆP
Hôm trước tôi
đã nói về phát tâm Bồ-đề có ba hạng, nhưng cuối cùng chỉ quy về tâm Bồ-đề
của Phật. Hôm nay tôi sẽ nói tiếp nguyên nhân nào phải phát tâm như vậy.
Theo tinh thần
kinh Ưu Bà Tắc giới, Phật khuyến khích người Phật tử tại gia tu hành để
thành Phật, chứ không có mục đích nào khác. Tâm Bồ-đề Phật là tâm Bồ-đề
siêu vượt hơn tất cả các loại tâm Bồ-đề. Phật tử có thể đặt vấn đề tại sao
tâm Bồ-đề là tâm giác mà còn có thấp cao? Thưa vì đây là giai đoạn tu
nhân, căn cứ vào giai đoạn này mà triển khai cho đến rốt ráo là tâm Bồ-đề
của Phật, nên trên trình tự thì có thấp có cao, song chỗ cứu kính siêu
vượt không còn cao thấp nữa.
Kinh Ưu Bà Tắc
dạy muốn tu tâm Bồ-đề Phật phải tu ba mươi hai tướng. Ba mươi hai tướng
thì quá nhiều, ở đây tôi chỉ đơn cử một vài điểm để chúng ta dễ nắm chủ ý
mà tu thôi. Có thể nói ba hai tướng là thành quả của tâm từ bi. Tâm này
Phật tử chúng ta ai cũng có, hoặc nhiều hoặc ít. Như thấy một sự cố gì
hoặc cảnh khổ đau chung quanh các bạn hữu, mình có lòng trắc ẩn, thương
tội nghiệp và tìm cách giúp đỡ. Đó là cánh cửa đầu tiên của tâm từ bi. Đã
có được tâm đó, nếu đủ duyên phát triển lòng tốt ấy tức là chúng ta dần
dần khai mở tâm từ bi. Tuy nhiên, cũng có người khởi lòng thương nhưng
không phát triển lòng thương ấy thành hiện thực, nên tâm từ bi bị tắt lịm
từ phút ban đầu, do đó họ không có cơ hội gầy dựng được Bồ-đề tâm của
mình.
Bây giờ chúng
ta tu tức là tạo cơ hội sao cho tâm từ phát triển, không để nó tắt lịm.
Tùy nghi, tùy hoàn cảnh, chúng ta cố gắng như thế nào để lòng thương người
thương vật một cách bình đẳng có điều kiện phát triển. Ta nói Phật tâm,
chân tâm hay Bồ-đề tâm là tấm lòng của mình đối với anh với chị, với tất
cả mọi người chung quanh phải chân thành đồng đẳng. Hướng tu hành theo
Phật đạo là như vậy. Muốn thế phải có trí tuệ, hằng quán chiếu, hằng thức
tỉnh. Tỉnh đề làm gì? Tỉnh để thấy đâu là thật đâu là giả, đâu là việc nên
làm, đâu là cái không cần thiết bỏ đi, thì việc thương người giúp người
mới không phạm phải sai lầm. Bởi vì chúng ta chưa phải là bậc đã toàn tỉnh
toàn giác, mà còn khi tỉnh khi mê, nên phải thức tỉnh ta mới có được sự
vững vàng của định và tuệ. Có định tuệ rồi thì việc tu học mới chân chính,
có thành quả tốt đẹp.
Ở đây muốn nói
thành quả tâm Bồ-đề là thành quả tu tập từ tâm từ bi. Nghĩa là từ tâm từ
bi mà tu hành, kiên cố bền chí như thế sẽ thành tựu được giác tâm hay tâm
Bồ-đề Phật. Ta thực hiện tâm từ bi ngay trong cuộc sống này trong từng
phút từng giây, từng tâm niệm. Khi công đức đã được đầy đủ tâm từ phát
triển dần thành từ vô lượng tâm, bi vô lượng tâm… nhất định chúng ta sẽ
đạt được tâm Bồ-đề của Phật.
Như tôi đã
từng nói, không phải đợi đến lúc ngồi thiền, tụng kinh, lễ Phật mới là tu,
mà bao giờ cũng có thể tu được hết. Muốn vậy chúng ta phải tỉnh, tỉnh là
khoa đầu tiên để áp dụng thành tựu công phu tu hành của mỗi người. Người
thường tỉnh thường giác thì sự tu hết sức nhẹ nhàng giản dị mà công đức vô
lượng vô biên. Giả dụ có người cưu mang một sự việc trong lòng, năm ba năm
chưa giải quyết được. Một hôm gặp được vị tăng tu tập giác tâm có kết quả
đáng kể, qua trao đổi một vài lời, vị tăng đánh đúng điểm ách yếu của
người kia, nên giúp họ cởi mở được những gì lâu nay nặng nề trong lòng,
nhờ thế họ nhẹ nhàng vui vẻ. Đó là sự đả thông từ chính công phu tu tập
của hành giả, công phu giản dị mà kết quả cao thì sự chỉ dạy cũng giản dị
và kết quả cũng cao. Việc này rất có ý nghĩa đối với người tu đạo.
Nhiều vị tu
hành thấy nhẹ nhàng đơn giản như không ra gì nhưng thành quả rất lớn nên
chỉ một câu nói thôi, các vị có thể giúp cho người ta thoát khổ. Từ một ý
niệm tốt, ta biết nuôi dưỡng hình thành thì sẽ tạo được những công đức
lành rất lớn lao. Vì vậy chúng ta đừng bao giờ xem thường những ý niệm
thiện của mình dù thật nhỏ.
Tất cả chúng
ta hiện sống đây, thường cho tâm mình là những ý niệm lăng xăng như khỉ
vượn chuyền cành. Nhà thiền gọi đó là vọng tưởng, chứ không phải tâm thật
của ta. Chúng không thật, do bóng dáng của các trần tồn đọng lại trong tâm
ta thôi. Nhưng vì si mê chúng ta cho nó là thật, lấy đó làm sự sống nên
rồi khổ. Ví dụ như ta đang mang thân này nhưng lại không làm chủ được nó.
Vì đây là thành quả của những nhân tố mình đã gầy dựng trong lúc không
tỉnh sáng nên bây giờ phải gánh hậu quả như thế. Vậy mà ta cũng còn mê
lầm, chấp nó là thật, là của mình, rồi vì bảo vệ nuôi dưỡng nó mà phải tạo
không biết bao nhiêu nghiệp mới nữa. Cứ thế, con người lẩn quẩn mãi trong
vòng trầm luân sanh tử.
Ngày nay biết
rõ như vậy, những nợ nần gì đối với thân này, chúng ta vui vẻ trả, không
luyến tiếc đắm trước nó nữa, trả hết nợ mình sẽ khỏe. Người con Phật thì
phải có cái nhìn đúng như Phật dạy. Chúng ta giải quyết tất cả những nợ
nần cũ một cách đầy tinh thần trách nhiệm, hết sức gan dạ. Đó là thái độ
bản lĩnh của người chân chánh tu hành theo Bồ-tát hạnh vậy.
Chúng ta nghe
nói Bồ-tát hạnh hay Bồ-tát đạo thì nghĩ rằng đó là cái gì lớn lao mình
không thể làm được. Không phải đâu. Bồ-tát là gì? Bồ-tát là giác hữu tình,
là một chúng sanh giác ngộ. Nếu bây giờ chúng ta sống bằng tâm giác, không
gây nhân tăm tối nữa là sống với hạnh Bồ-tát. Tu hạnh Bồ-tát là hướng tu
thành Phật. Thường ta không dám nghĩ mình tu hạnh Bồ-tát, vì nó lớn lao
quá đi. Thật ra, tất cả những thành quả lớn lao đều bắt đầu từ những sự
cỏn con mà ra. Việc tu cũng vậy, hành Bồ-tát đạo là làm tất cả các công
việc tầm thường nhất trong cuộc đời bằng một tâm tỉnh sáng. Thế thôi.
Từ những tâm
niệm tầm thường mà chúng ta biết sửa đổi để thăng tiến, từ những ngôn ngữ
bình thường mà chúng ta phấn đấu tu tập, đó là hướng đi đến con đường Phật
đạo. Đừng nghĩ đến thời gian, nơi chốn mà phải phát đại nguyện bao giờ tất
cả chúng sanh hết khổ, ta mới thành Phật. Phải có một từ tâm mãnh liệt như
vậy mới có thể tiến trên con đường Phật đạo được.
Có khi nào
chúng ta thắp hương lạy Phật với nguyện lực như thế chưa? Chắc là không
dám rồi, ta sợ lắm. Không biết mình tu ra sao mà nói nghe dữ dội quá. Có
nguyện thì nguyện nhỏ như vầy thôi: Nguyện cho con mạnh giỏi, cầu gì được
nấy, gia đình bà con hết bệnh hết khổ. Vì nguyện bé quá nên không gõ cửa
tâm Bồ-đề được, thành ra càng tu càng chẳng đi đến đâu. Bây giờ chúng ta
phải mở rộng lòng ra, xem tất cả mọi người đều là huyết thống, ruột thịt
của mình. Đó là chúng ta biết chuyển hướng tu hành, chuyển tâm nguyện của
mình theo hướng Bồ-tát đạo để rồi tiến lên Phật đạo.
Một ngày chúng
ta giác ngộ được bao nhiêu phút bao nhiêu giây, thì mình là Bồ-tát bấy
nhiêu đó thời gian. Chúng ta đừng sợ càng tu càng thấy vọng tưởng. Càng
thấy vọng tưởng là càng biết mình có giác. Nhờ giác mới biết vọng tưởng,
vọng tưởng nhiều thì giác nhiều, mà giác nhiều là Bồ-tát nhiều Phật nhiều,
như vậy là ta tu đúng rồi, sao lại sợ! Biết thế ta càng phấn chấn tăng
tiến hơn, đừng để lui sụt thì thật uổng.
Phật đạo là
con đường không thể tính bằng thời gian. Cứ liên tục tỉnh giác, liên tục
sống trong niệm hiện tiền. Người sống được với niệm hiện tiền như vậy,
không bị ngoại cảnh chung quanh kéo lôi, trói buộc, đó là người sống được
với tánh giác của mình, là sống thiền. Nhiều vị cho rằng thiền định là
phải ngồi chết cứng năm ba tiếng đồng hồ, hoặc phải nói năng khác người,
hoàn toàn không phải như vậy. Mà ngay trong cuộc sống này luôn luôn tỉnh
giác, sửa từ tâm niệm, từ ngôn ngữ, từ hành động của mình sao cho hợp với
lẽ đạo.
Người thật tâm
tu thiền phải gan dạ, bền chí. Hòa thượng Viện trưởng thường dạy chúng ta
phải phát tâm trường viễn và kiên cố thì việc tu mới thành công. Ví dụ
sinh hoạt của chư tăng trong Thiền viện, cứ sáng mai đi cuốc đất, làm cỏ,
quét sân, tưới cây, nấu cơm. Rồi thì tụng kinh ngồi thiền, học pháp… Bữa
nay như vậy, ngày mai như vậy, năm nào tháng nào cũng cứ như thế. Cho nên
người không có ý chí dễ nản lắm, sao thấy cứ chừng ấy việc, tầm thường quá
có gì là hay đâu? Mà vừa nản thì lui sụt tức khắc.
Vì vậy người
tu thiền phải có tâm kiên cố trường viễn mới mong thực hiện được chí
nguyện của mình. Không thể bữa nay thích mình ngồi thiền từ đầu đêm cho
tới giữa đêm, không muốn ngủ. Nhưng ngày mai mệt mình ngủ tít mắt, không
biết lúc này là giữa đêm hay đầu đêm. Tu một đêm, ngủ hai ba đêm trừ lại,
thì thôi ở nhà ngủ sướng hơn thoải mái hơn. Cho nên ngay những việc bình
thường mà ta làm liên tục, kiên trì, không có niệm chán nản thì mới mong
thành công. Giá trị của sự thành công là ở chỗ đó, chứ không phải làm gì
lập dị khác người mà gọi là hay.
Trăm phước
trang nghiêm cho Bồ-đề tâm thành tựu toàn bị cũng từ những việc làm công
đức, từ tất cả công phu tu hành mà có được. Nhìn lại cuộc sống mọi thứ đều
mong manh, đều qua nhanh, chúng ta nỡ nào để đời cũng qua nhanh như vậy
sao? Cho nên phải tranh thủ với thời gian, thân này không hẹn, việc gì làm
được ngày hôm nay, chúng ta quyết tâm làm, không hẹn mai hẹn mốt. Ví dụ
nhỏ thôi, như mỗi đêm đúng tám giờ, ta dâng hương cúng Phật. Việc làm này
chỉ tốn năm mười phút thôi, nhưng nếu không có một chương trình nhất định,
có khi chúng ta cũng không làm được. Như còn khoảng năm phút nữa tám giờ,
mình chuẩn bị mặc áo tràng dâng hương cúng Phật, nhưng có người bạn tới
nói chuyện làm ăn. Mình nghĩ phải lo việc này trước đã, sắp đặt đâu đó
đàng hoàng rồi tu cũng được. Không ngờ người bạn ngồi lâu quá, thế là ta
mất một buổi dâng hương. Mà duyên thì ngộ lắm, bữa nay mình bỏ thời khóa
dâng hương cúng Phật để tiếp khách, thì ngày mai đúng giờ đó lại có khách
nữa. Cứ như thế, một lần hai lần ba lần… rồi cuối cùng: “Mấy đứa nhỏ! Bây
đốt nhang dùm cái, tao bận quá”. Lu bu cả đời từ những việc bình thường
như vậy.
Cho nên ở
Thiền viện có hiệu lệnh trống bảng chuông bảng hẳn hoi. Đến giờ đó phải
đánh chuông, đánh bảng lên. Ví dụ nghe một hồi kiểng ba tiếng, thì tất cả
mọi người từ Hòa thượng Đường đầu cho đến chú tiểu công quả cũng phải bật
dậy, không ai được nằm ngủ nữa. Dù rã rượi muốn nằm cũng không được, phải
ngồi dậy mở mắt, đi rửa mặt cho tỉnh táo, rồi theo chúng ngồi thiền hoặc
đọc sách hay làm các công việc khác tùy theo nhiệm vụ của mỗi người ngày
hôm ấy. Cho nên chuông trống đã đánh thì bất cứ chuyện gì cũng phải bỏ,
khách khứa cũng lui, giờ nào việc ấy. Thanh quy trong tòng lâm xưa nay là
vậy. Nhờ thế chư Tăng mới có thể chuyên tâm tu hành, không mất thì giờ vì
những chuyện tạp. Cái hay trong thiền gia không thể không kể đến những quy
củ phép tắc này.
Người Phật tử
nếu có thời khóa biểu rõ ràng như vậy thì cũng có thể sắp xếp việc tu tập
của mình vững vàng. Nếu không như thế, quý vị dễ bị các duyên cuốn trôi,
chạy theo công việc hết ngày này đến ngày khác, đâu còn giây phút nào để
tu được nữa, công phu làm sao tiến được.
Lại nữa, muốn
phát huy tâm Bồ-đề của Phật, chúng ta cần phải siêng tu ba nghiệp. Bởi vì
ý nghĩ đúng thì thân làm đúng, miệng nói đúng. Ý nghĩ sai thì thân làm
sai, miệng nói sai. Ba nghiệp đã không thanh tịnh thì tâm Bồ-đề bị che
khuất mờ tối. Nếu chúng ta hằng sống trong tỉnh giác thì ý vừa nghĩ sai
liền bỏ đi, đó là tu. Đừng đợi đến lúc đốt hương lễ Phật, ngồi thiền mới
trị nó, như vậy là trễ rồi. Người thực hiện Bồ-tát đạo phải luôn mãnh tỉnh
mới được.
Ý nghĩ dù
không có hình dáng cụ thể nhưng nó chính là bộ tổng tham mưu, là gốc tạo
tất cả nghiệp thiện ác. Nếu ta không làm chủ, không quán sát kịp thời thì
ý niệm hình thành sẽ luồn qua các ngõ ngách ngôn ngữ, hành động để thực
hiện các việc nó muốn. Vì vậy cái dấy niệm đầu tiên rất quan trọng. Người
con Phật muốn thành tựu được Phật Bồ-đề tâm thì phải bắt đầu tu ngay từ
những ý niệm của mình.
Trong kinh có
nói: “Trăm phước trang nghiêm, tất cả tướng tốt, tất cả vẻ đẹp của chư
Phật, chư Bồ-tát đều thành tựu từ ba nghiệp”. Ba nghiệp thanh tịnh thì
đồng Phật vãng Tây phương. Thanh tịnh có nghĩa là lắng dịu, là trong sạch.
Phải được thế mới có thể về Tây phương. Thành ra trong nhà Phật thường có
từ “tu tâm” là vậy. Tất cả công đức lành, tất cả phước tướng trang nghiêm
đều từ tu tâm mà có.
Nhờ tu tâm ta
giữ được cái miệng, làm chủ ngôn ngữ, đời đời không nói những lời ác độc.
Nhờ thế sanh ra ở đâu, nói lời nào mọi người đều hoan hỷ lắng nghe, đều
vâng theo. Như đức Phật thuyết pháp, Ngài nói ra lời gì tất cả chúng sanh
đều được nghe khắp và đồng hưởng pháp lạc tùy theo căn cơ của mỗi người.
Đó là do nhiều đời đức Phật đã tu tâm, nên thân khẩu đều thanh tịnh. Không
bao giờ Ngài nói lời đâm thọc, lời dối gạt, lời vô nghĩa, lời ác độc, tích
tụ lâu đời như thế nên Ngài thành tựu được các công đức. Do đó nói ra lời
nào cũng đều là lời hay ý đẹp, khiến người nghe thấm nhuần giáo pháp như
được uống nước cam lồ.
Chư Phật và
Bồ-tát thành tựu công đức viên mãn từ ba nghiệp của mình. Chúng ta là đệ
tử các Ngài, muốn thành tựu được Phật Bồ-đề tâm cũng phải tu tập như thế.
Ai cũng có ba nghiệp nên ai cũng có thể tu được cả. Chúng ta là những
người đang tu, có tu chứ không phải là không tu, nhưng chưa được kết quả
viên mãn vì công phu chưa đắc lực. Ví dụ lúc trước, ta chưa hề biết Phật
pháp là gì, cũng chưa có ý niệm đi chùa, nghe pháp, phát tâm quy y Tam
Bảo… Khi đó người bạn láng giềng gợi ý thấy hay, nên ta bắt đầu hướng về
Tam Bảo. Từ lúc đó, trong suy nghĩ, hành động của mình bắt đầu có sự thay
đổi chuyển hóa. Như ngày xưa mình không ngán ai hết, người ta nói một mình
trả lời lại hai ba, để chứng tỏ ta khôn ngoan, bản lĩnh hơn người. Nhưng
khi biết đi chùa, học đạo ta không như thế nữa. Ta hiền lành, ít nói, nhẫn
nhịn hơn bởi vì mình biết những lời nói đó sẽ tạo thành nghiệp, dẫn đến
hậu quả xấu nên tránh bỏ, chứ không phải đi chùa nghe pháp rồi ta trở
thành khiếp nhược yếu hèn.
Thành ra người
nắm được luật nhân quả rồi sợ làm các việc ác lắm. Luôn kiểm tra lại từng
ý nghĩ, hàng động của mình, đó là tu, là tỉnh giác, là làm chủ được ba
nghiệp. Làm chủ là sao? Ví dụ ta nói thôi là nhất định thôi, không làm
việc đó hoặc không nói lời đó. Chứ không phải nói thôi, nhưng gặp duyên
thì không cưỡng lại được nên cứ làm bậy nói bậy. Muốn thế ta phải cầm sẵn
con dao bén trí tuệ cắt đứt tất cả mọi thứ lỉnh kỉnh, vướng mắc nhiều đời
của mình. Xong rồi thẳng tiến vào đất Phật. Cho nên người có sức tự chủ là
có chiếc chìa khóa để mở ra chân trời rộng thênh thang trước mắt.
Nếu trong hiện
tại từng niệm ta làm chủ được, đừng bị nó kéo lôi thì đảm bảo cắt đứt được
dòng luân hồi. Còn không làm chủ, không cắt được thì dù có nói tự tại đến
đâu, cũng chỉ là lời rỗng thôi. Người tu thiền phải là người chủ động, làm
việc gì biết việc ấy. Được vậy, dù quí vị đang bán buôn ngoài chợ hay nấu
cơm trong bếp vẫn gọi là hành thiền như thường. Việc gì làm dứt khoát việc
đó, nếu có vấn đề phát sinh ngoài chương trình tu tập của mình, ta nhất
định cắt đứt, không thể lan man việc nọ xọ việc kia được, người không dứt
khoát tu hành sẽ không tới đâu hết.
Hàng Bồ-tát tu
tất cả công đức là vì muốn độ chúng sanh chứ không phải mong cầu lợi riêng
cho mình. Nói hành hạnh Bồ-tát nghe lớn lao quá, nhưng thật ra với người
biết tu thì có thể làm được không khó. Ví dụ trong giai đoạn đầu mới tập
tu, ta nghĩ đến mình nhiều, muốn làm sao được yên, làm sao tu học Phật
pháp, áp dụng lời Phật dạy dễ dàng, trong gia đình mọi người đều cùng một
hướng tu tập. Đó là giai đoạn đầu tiên, kế tiếp ta mở rộng tâm mình ra. Mở
rộng như thế nào? Bất cứ làm một việc gì không bao giờ nghĩ riêng cho
mình. Điều này không khó khăn lắm nhưng nếu không tập, chúng ta sẽ không
làm được. Khi nghĩ đến tất cả, vì tất cả, ta sẽ có nhiều sức mạnh hơn, đó
chính là thiện tâm tăng trưởng, cứ thế tâm lớn dần lớn dần và không nghĩ
không nói mà ta đã hành Bồ-tát hạnh hồi nào không hay. Phật bảo tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, đều có khả năng thành Phật, nên chúng ta
hướng tâm rộng lớn như vậy là hướng về tâm Phật, nhất định sẽ thành Phật
thôi.
Một vị tu hạnh
Bồ-tát khi đi ngang qua một cây cầu được bình yên, cầu không lắc lư, không
làm cho người đi chóng mặt, rơi té xuống sông, Bồ-tát này liền phát tâm
gì? Tôi đi qua một cây cầu bình an, nguyện cho tất cả chúng sanh đều qua
cầu được bình an như tôi. Từ đây cho đến ngày thành Phật tôi nguyện đưa
những chúng sanh qua cầu đều được bình an. Đó là tâm hạnh Bồ-tát.
Như vậy trong
cuộc đời chúng ta, khi đi xe, qua cầu, thấy người gặp nạn… đều phát nguyện
cứu giúp, không phân biệt thân sơ. Hoặc ta bị va vấp khổ đau bởi những
chướng duyên gì thì nguyện sẽ không để các chúng sanh khác gặp phải chướng
duyên ấy, nguyện thay chúng sanh chịu mọi nỗi khổ để chúng sanh được an
vui. Thương tất cả mọi người như thương bản thân mình, không gây não hại
cho ai. Nguyện đời đời kiếp kiếp sống thanh tịnh, không gây tạo nghiệp
nhân khổ đau và nguyện cho tất cả chúng sanh đều được như thế.
Như câu chuyện
tiền thân của đức Phật khi còn tu hạnh Bồ-tát kể lại. Trong một tiền kiếp
Ngài phải rơi xuống địa ngục vì tội bất hiếu. Vừa tới nơi, Ngài thấy tội
nhân mang một vòng lửa quay trên đầu, lửa lớn đốt cháy hừng hực, tội nhân
kêu la thảm thiết rất thống khổ, Ngài liền hỏi ngục tốt: Người bị vòng lửa
đốt mang tội gì? Đáp: Tội bất hiếu với cha mẹ. Ngài hỏi tiếp: Bao giờ mới
hết bị lửa đốt? Đáp: Chừng nào trên nhân gian có kẻ bất hiếu khác tới thay
thì tội nhân này mới thoát khỏi vòng lửa đó. Ngục tốt vừa nói xong, vòng
lửa liền bay chụp lên đầu Bồ-tát. Trong cơn thống khổ cùng cực ấy, Ngài
liền phát đại nguyện: Ta nguyện thay tất cả chúng sanh mang vòng lửa này,
nguyện tất cả chúng sanh không còn ai bất hiếu với cha mẹ nữa để không
phải chịu cảnh khổ đau ghê gớm như vầy. Bồ-tát vừa phát đại nguyện xong,
tự nhiên vòng lửa biến mất và Ngài được thoát khỏi địa ngục. Đó là do Ngài
khai mở tâm địa rộng lớn, vì cứu khổ tất cả chúng sanh, mà Ngài hết tội và
được an vui.
Người phát tâm
tu như vậy dù nghèo giàu, khổ vui, được mất, hơn thua gì cũng chẳng dính
dáng đến họ. Cái đáng quan tâm của hành giả bấy giờ là chủ động khắc phục
ba nghiệp cho được thanh tịnh. Còn điểm nào chưa khắc phục được thì phải
khắc phục, điểm nào chưa làm chủ thì phấn đấu làm cho được. Nên trong nhà
thiền nói thiền định của Thiền sư là thiền định đại lực lượng, thiền định
đối duyên xúc cảnh hiện tiền bất động như như, chứ không phải đợi nhập
thiền định mới làm chủ được. Cũng không thể đợi có sự kiềm chế của thiện
hữu tri thức, thầy bạn ta mới tu, mà phải tự mình tỉnh giác, thường xuyên
nỗ lực công phu bất cứ lúc nào, ở đâu. Nên nhớ tu cho mình, chứ không phải
tu cho Phật, cho Thầy tổ.
Nói đến đây
tôi nhớ câu chuyện hồi Phật còn tại thế. Hôm đó, Phật đi khất thực như
thường lệ. Trên đường Như Lai thấy một thầy Tỳ-kheo đi khất thực một mình
nhưng không thu thúc các căn. Phật không nói gì, im lặng đi thẳng. Thầy
Tỳ-kheo kia vừa thấy bóng Phật, hoảng sợ liền chỉnh đốn oai nghi, đúng như
pháp mà khất thực. Đến trưa về Tinh xá, sau khi rửa chân trải tọa cụ xong,
Phật ngồi xuống nhìn khắp trong chư Tăng và hỏi:
- Sáng nay, ta
thấy có một thầy Tỳ-kheo đi khất thực mà tâm ý phóng túng, không thu thúc
các căn nhìn thật khó coi. Sau khi thấy ta, thầy ấy mới chấn chỉnh thân
tâm đúng như pháp mà khất thực. Vậy trong đây, ai là thầy Tỳ-kheo ban sáng
ta vừa nói?
Bấy giờ có một
vị Tỳ-kheo bước ra, quỳ xuống thưa:
- Bạch Thế
Tôn, chính con là Tỳ-kheo Thế Tôn vừa nói. Quả thật con đã không thu thúc
các căn khi đi khất thực vì con nghĩ mình đi có một mình, chắc không ai
thấy nên không cần thu thúc các căn. Đến khi gặp Thế Tôn, con hoảng sợ mới
thúc liễm thân tâm đúng như pháp mà khất thực.
Phật bảo:
- Tốt lắm, ông
đã dám nhận lỗi của mình là việc đáng khen. Nhưng nhớ từ đây về sau, dù đi
một mình hay có nhiều người, Tỳ-kheo lúc nào cũng phải thu thúc các căn
cho thanh tịnh, như vậy mới xứng đáng nhận của cúng dường, mới xứng đáng
là đệ tử của Như Lai. Nếu không như thế, thánh đạo khó mong thành tựu
được.
Nói xong, Phật
nhìn một lượt khắp trong tăng chúng và dạy tiếp:
- Tất cả các
thầy Tỳ-kheo cũng đều phải như thế, lúc nào, ở đâu, bất luận có người hay
không người, luôn luôn thu thúc các căn, giữ chánh niệm. Tu tập như vậy
mới thật là Sa-môn hành hạnh giải thoát.
Qua câu chuyện
trên, chúng ta thấy từng phút tỉnh giác sửa đổi mọi lỗi lầm của mình, đó
là nghĩa chính của chữ “Tu”. Như vậy trong chúng ta ai cũng tu được hết.
Không luận xuất gia hay tại gia, không vướng bởi bất cứ việc gì là tu
được. Hãy mở rộng lòng ra, làm tất cả việc đều vì Phật đạo, hồi hướng cho
tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo. Thấy tất cả chúng sanh đều là thân
thuộc huyết tộc của mình, nên không nỡ nói làm bất cứ việc gì dù rất nhỏ,
gây khổ đau trở ngại cho bước tu tập của tất cả chúng sanh. Nếu trong lòng
mình được như vậy thì con đường Bồ-tát đạo, Phật đạo chắc chắn không xa.
Trên đường tu
tập, cái chướng lớn nhất là vô minh điên đảo. Do vô minh nên ta luôn bị mờ
mịt, phiền não mê hoặc, xúc cảnh sanh tâm, gây tạo tội ác, chịu mọi khổ
não. Dấy lên ý niệm si mê thì mình bị tăm tối che đậy, chướng ngại, mất đi
sự tỉnh táo sáng suốt, gây tạo các nghiệp bất thiện. Xúc cảnh sanh tâm tức
là khi gặp duyên mình không làm chủ được. Thấy sắc đẹp liền sanh tâm ưa
thích muốn chiếm đoạt, thấy tiền của liền sanh tâm muốn lấy. Hoặc gặp cảnh
sân liền nổi điên đảo miệng la hét, thân đập phá lung tung… Thành ra người
Phật tử tu là làm sao khi đối duyên xúc cảnh, giữ tâm định tĩnh, không để
vô minh tăm tối che đậy làm rối trí loạn thần, hành động điên cuồng, tạo
nghiệp đi trong ba đường dữ.
Việc này tuy
hơi khó làm, nhưng nếu quyết tâm ta làm được chứ không phải không thể làm.
Đừng bao giờ có ý niệm thua cuộc, phải gan dạ bởi vì mình là con Phật.
Phật là giác, ta đã phát tâm tu theo hạnh giác ngộ của chư Phật, không
nhiều thì ít ta cũng giống Phật chứ. Nếu chưa giác hoàn toàn, chưa làm
Phật thì ta giác từng phần, làm Bồ-tát từng đoạn. Quan trọng là ở sự quyết
tâm và lòng kiên trì bền bỉ
Để kết thúc
buổi nói chuyện hôm nay, tôi mong mỏi tất cả chúng ta lúc nào cũng thu
thúc các giác quan của mình như lời Phật dạy, không để rong rủi chạy theo
các cảnh duyên bên ngoài. Thu thúc các căn mới có thể làm chủ được mình,
ngược lại để các căn rong ruổi theo các trần thì đời đời lẩn quẩn trong
trầm luân sanh tử thôi. Con đường Phật đạo, phải bắt đầu từ sự tu tập căn
bản ấy, không thể khác hơn được.
Chúc tất cả
thành tựu được sự nghiệp tu hành của mình qua việc thu thúc các căn và làm
chủ ba nghiệp của mình. |