GHI NHẬN CÔNG PHU NGÀY ĐẦU NĂM
Hôm nay là
ngày kỷ niệm đức Phật Di Lặc, đức Phật tương lai giáng sinh. Trước khi nói
đến phần đạo lý nhân ngày đầu năm, chúng tôi nói sơ lược về danh hạnh của
Bồ-tát Di Lặc.
Tất cả chúng
ta đều biết Bồ-tát Di Lặc có thân hình mạnh khỏe, bụng to, miệng cười toe
toét. Ý nghĩa chữ Di Lặc là đại hoan hỷ hay là đại từ bi. Tiếng Phạn là
Maitreya, âm Hán là Mai Đát Lệ Da Bồ-tát hay Mê Để Cửu Bồ-tát, Di Để Lễ
Bồ-tát. Việt dịch là Bồ-tát Từ Thị. Bồ-tát Từ Thị cũng chính là Bồ-tát Di
Lặc.
Bồ-tát xuất
thân từ gia đình Bà La Môn, là một trong bốn giai cấp ở Ấn Độ thời xưa. Về
sau Ngài quay về với Phật pháp, làm đệ tử Phật. Ngài nhập diệt trước Phật.
Dùng thân Bồ-tát trụ cõi Đâu Suất và giáo hoá trên cõi trời này. Trong
thời tu nhân Ngài đã phát nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh và không ăn
thịt tất cả chúng sanh. Lời nguyện nghe thông thường nhưng khó thực hiện.
Chúng ta cũng
phát nguyện giữ giới không ăn thịt hay không giết hại chúng sanh. Các vị
đại Bồ-tát, các vị cổ Phật trong thời tu nhân xa xưa, cũng phát nguyện như
vậy. Có điều các Ngài giữ trọn vẹn, nên thành tựu Bồ-tát, Phật vị. Còn
chúng ta giữ chưa trọn vẹn nên chúng ta chưa thành Bồ-tát, thành Phật. Nếu
chúng ta gìn giữ trọn vẹn, đầy đủ thì chúng ta cũng là những vị Bồ-tát hay
những vị Phật tương lai.
Vì hạnh nguyện
như vậy nên Ngài được tôn xưng là Từ Thị. Chữ Từ là thương tất cả chúng
sanh. Tâm đại từ là một trong bốn tâm lớn Từ, Bi, Hỷ, Xả mà các vị đại
Bồ-tát thường áp dụng tu hành. Thời tu nhân, Bồ-tát tu hạnh Đại thừa, phát
nguyện không ăn thịt chúng sanh và được tôn xưng là Từ Thị, là vị Bồ-tát
có lòng từ đối với tất cả chúng sanh.
Nhiều khi
chúng ta cứ tưởng tượng hồi xưa chư Phật, chư Bồ-tát có phương pháp tu đặc
biệt, độc đáo mà chúng ta không có, không hiểu. Nhưng không ngờ cũng từ
những pháp tu đó mà các Ngài thực hành với tâm chắc thực, khẳng quyết cho
nên các Ngài thành công. Chúng ta cũng phát tâm nhưng không có ý chí lâu
bền liên tục, nên thành công không viên mãn. Từ chỗ khuyết này, chúng ta
biết và cố gắng khắc phục để việc tu học được viên mãn. Dù tu pháp nào nếu
có đầy đủ ý chí, có tâm khẳng quyết thì chắc chắn sẽ thành công. Trái lại
nếu hiểu tất cả phương pháp Phật dạy, công án tu hành của các đời Tổ sư,
nhưng không kiên tâm trì chí thì sự tu học cũng không tới đâu.
Bồ-tát Di Lặc
được đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký sẽ thay đức Phật Thích Ca giáo hóa
chúng sanh trong cõi Ta Bà trong đời đương lai. Cho nên Ngài thường được
tôn xưng là Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. Tức vị Phật tương lai hiệu
Di Lặc. Gần đây có những vị giảng về hội Long Hoa, khuyến khích người ta
tu mau kẻo trễ v.v… Nhưng thật ra họ không hiểu gì về Phật Di Lặc cả,
không biết hội Long Hoa ra đời vào lúc nào ở đâu v.v…
Đức Phật Thích
Ca huyền ký vào thời kỳ con người sống lâu đến bốn ngàn tuổi thì Bồ-tát Di
Lặc mới ra đời, chớ không phải một hai năm nữa tận thế. Thái dương hệ hay
tam thiên đại thiên thế giới này có các thời kỳ sinh, trụ, hoại, diệt hay
thành, trụ, hoại, không.
Người tu Phật
không sợ tận thế mà chỉ sợ không làm chủ được mình, gây tạo những nhân ác.
Bất cứ lúc nào, trong mọi sinh hoạt mà không làm chủ được để nghiệp dẫn
lôi, gây nhân bất hảo thì đó là điều đáng sợ. Bởi vì gây nhân xấu thì cảm
quả xấu. Nhân xấu quả xấu cứ nối nhau liên tục như vậy, thì chừng nào
chúng ta mới được an lạc. Người tu Phật phải luôn luôn bình tĩnh đối với
các cảnh duyên. Đã không gây nhân bất hảo thì không sợ quả báo xấu. Dù
sống ở cảnh giới nào, nếu là người đầy đủ phúc duyên thì những cảnh giới
xấu cũng không ảnh hưởng đến chúng ta.
Năm 1968 tức
năm Mậu Thân, tôi từ Huệ Nghiêm về Thủ Đức. Trong nước đang có chiến
tranh. Hòa thượng dạy, học rồi thì mấy thầy về lo phụ việc trong chùa.
Nghe lời Thầy, tôi về chùa phụ lo các việc. Song song với tôi, có một
huynh đệ lớn tuổi hơn, thầy lên Lái Thiêu lãnh chùa. Từ chợ phải qua sông
mới tới chùa của thầy. Chùa này rất lý tưởng, có vườn cây trái, phía trước
có sông lớn. Nhưng vùng đó lại là vùng mất an ninh.
Ban đêm máy
bay trực thăng bắn, có một gia đình Phật tử chui xuống hầm, nhưng chẳng
may luồng đạn bắn vô hầm làm chết hết, chỉ còn một đứa bé. Đứa bé được đem
đến cho người huynh đệ tôi, thầy đặt tên nó là Phước. Ông rất cưng, Phật
tử biết cũng đem thức ăn cho. Khuya thầy thức dậy tu thì nó cũng bò dậy
hoe hoe. Thầy uống một ly cà phê, nó cũng uống một ly cà phê. Tôi nói thầy
dạy đệ tử kiểu này thì không khá. Lớn lên nó quậy thiệt. Những năm sau tôi
về núi, không biết bây giờ chú bé đó lưu lạc ở đâu.
Có phước như
vậy, nhưng không có duyên để huấn luyện, uốn nắn theo hướng tốt thì phước
chuyển thành họa. Ví dụ như gia đình giàu có mà cha mẹ giáo dục con không
được ngay từ nhỏ, thì lớn lên sẽ bị hư hỏng, tiêu tan sự sản. Chú bé này
có phước nên cả gia đình chết hết mà chú vẫn còn sống khỏe mạnh, nhưng vì
thầy quá cưng chiều nên làm hỏng chú. Người ta nói một là có phước không
nên hưởng hết, hai là phước không đến lần thứ hai, thứ ba. Đó là điều mà
người Phật tử phải biết để tu tập, tạo duyên cho phước tăng trưởng theo
hướng tốt.
Ví dụ như
chúng ta có phước gặp Phật pháp, phát tâm tu hành và không bị sự cản trở
nào cả. Chúng ta không phải là người thiếu nợ, hết cơm gạo hay mất mát
điều gì. Trong khi đó, có những người cùng chung huyết thống, hoặc chung
hoàn cảnh lại không được như chúng ta. Bởi vì họ thiếu phước, không có
duyên với đạo. Họ tạo vô vàn nghiệp, phần nhiều trong lúc không bình tĩnh,
sáng suốt. Đã tạo nghiệp không tốt thì phải chiêu cảm quả báo không tốt.
Quả thực, từ chỗ tương đối có những thuận lợi mà không tỉnh, không đủ
duyên thì đi dần vào chỗ bị ràng buộc, mất ánh sáng để rồi tăm tối. Trong
kinh nói đó là hạng người đi từ sáng vào tối.
Còn người được
tu hành đàng hoàng, thuận duyên là từ sáng đi vào sáng hoặc từ tối đi vào
sáng, không phải từ sáng vào tối hoặc từ tối vào tối. Cho nên nói người đó
có phúc duyên. Từ phúc duyên ấy lại phát huy thêm những chủng tử lành, thì
việc tu học ngày càng thêm tiến.
Pháp tu của
Bồ-tát Di Lặc là lòng thương đối với tất cả chúng sanh. Nếu chúng ta chưa
phát huy lòng thương đó đến tột cùng, thì bây giờ bắt đầu phát huy, tu tập
cho hoàn chỉnh pháp tu này. Không nỡ ăn thịt chúng sanh, là pháp mà Bồ-tát
Di Lặc đã tu thành tựu. Chúng ta nỗ lực phát huy, hành trì. Trong mọi sinh
hoạt hằng ngày, trong từng phút giây cố gắng thực hiện cho được tâm đó.
Như vậy chúng ta sẽ thành tựu được hạnh đại từ đại bi, sẽ được danh xưng
như Bồ-tát Di Lặc. Đó là tinh thần tu hành của đạo Phật.
Tôi dẫn bài kệ
của Thiền sư Tuyệt Chiếu hiệu Duy Công. Bài kệ này là một bài Tự thán. Tự
thán nghĩa là tự than. Ngài tự than mặc dù mình nỗ lực công phu nhưng chưa
đạt được an lạc, chưa làm chủ hoàn toàn đối với các cảnh duyên. Cảm nhận
như vậy nên Ngài ghi lại lời này để tự gắng nỗ lực, thực hiện cho kỳ được
sở nguyện của mình. Bài kệ như thế này:
Công phu vị đáo phương viên địa
Kỷ
độ bằng lan độc tự sầu
Kim nhật thị tam minh nhật tứ
Tuyết sương dung dị thượng nhơn đầu.
Tạm dịch:
Công phu chưa đến chỗ vuông tròn
Hằng tựa lan can luống lo âu
Hôm nay là ba mai lại bốn
Tuyết sương dễ đến phủ trên đầu.
Lời than này
gần gũi, hợp tình hợp cảnh với chúng ta. Ngài than công phu của mình chưa
đến được chỗ an toàn, gọi là phương viên địa. Cho nên bao nhiêu lần đứng
tựa lan can lo sầu, sợ cho chính mình. Những lúc ra ngoài, khi ngồi một
mình, hay phải đối diện với công việc gì đó mà nhớ đến công phu chưa được
hoàn bị thì luôn luôn bất an, lo lắng. Đọc câu này chúng ta thấy hiện rõ
ràng tâm trạng của chúng ta.
Thử một hôm
nào, nếu chúng ta có bệnh tật hoặc ăn ngủ không yên, tụng kinh không được,
ngồi thiền không ổn, không có sự an lạc. Lúc nào đó mình mới soi rọi lại,
rồi chạnh thương cho mình. Tuổi đã lớn, thân thể nay đau mai yếu, việc tu
hành không có sự phấn chấn. Phật pháp sờ sờ ra đó mà tu hoài không thành
công. Nghĩ mà thương mình. Lại thêm bệnh tuy nhẹ mà thuốc men không đầy
đủ, không gặp thầy, không hết được thì bệnh nặng. Nếu không đủ duyên nữa
thì chết. Trình tự của nó là như vậy. Không ai có năng lực gì có thể cản
ngăn được luật vô thường cả. Bởi vậy nhớ đến thân phận, sự tu học của mình
mà chạnh thương mình. Vì vậy Hòa thượng thường dạy chúng ta, các vị phải
tự thương mình mà nỗ lực tu hành.
Bao nhiêu lần
Ngài đứng tựa lan can, riêng một mình sầu lo. Vì ngày nay là ba, mai lại
bốn. Nghĩa là ngày hôm nay là mùng một thì ngày mai là mùng hai, chứ không
thể hôm nay là mùng một mà ngày mai quay trở lại ba mươi được. Hết mùng
một thì mùng hai, mùng ba, mùng bốn v.v… Năm nay mình năm mươi ba tuổi,
năm tới là năm mươi bốn, năm mươi lăm tuổi v.v… cho đến chết, không dừng
được.
Thử nghiệm xem
mình mừng xuân, mừng tuổi có đúng như vậy không ? Tu hành không có kết quả
lợi lạc, trong lòng bất an, thời gian cứ chồng chất thì thật là đáng sợ.
Như vậy thì mừng vui ở chỗ nào ? Mình phải lo sợ, phải thương mình. Thời
gian cứ tiếp nối mãi, không dừng cũng không đi ngược lại. Đó là luật vô
thường. Chúng ta tu mà không tỉnh, không sáng, không làm chủ được thì vô
thường chụp lấy chúng ta. Rồi theo đó tạo nghiệp, chịu khổ, lẩn quẩn trong
vòng luân hồi sanh tử.
Chỉ khi nào
chúng ta tỉnh sáng, làm chủ được, sống được với cái bất sanh bất diệt thì
dù cho luân hồi có xoay chuyển cỡ nào chúng ta cũng an được. Cho nên nói
Hôm nay là ba mai lại bốn, tuyết sương dễ đến phủ trên đầu. Tuyết sương là
những bụi bặm hay tóc bạc báo hiệu cho sự già yếu của mình.
Tóm lại đây là
lời của một vị Thiền sư trong giai đoạn tu hành chưa xong việc, than cho
thân phận của mình. Ngày hôm nay tu không có kết quả, không được lợi lạc,
ngày ngày cứ qua suông như vậy và cái già phủ lên đầu mình. Cuộc sống suy
giảm rồi già bệnh chết, đó là khổ.
Lời ghi này
đối với công phu tu hành như huynh đệ chúng ta, là lời nhắc nhở rất cần
thiết, rất hay, rất thấm trong ngày đầu năm. Vì vậy tôi dẫn ra để tự tôi
phải học thuộc nó. Chúng ta không thể nào giữ được những gì mình mong muốn
cả. Mình muốn cho mình luôn được khỏe mạnh nhưng thử hỏi có thể giữ được
không ? Rất khó, bữa nay giữ được nhưng nếu ngày hôm sau bệnh thì công phu
cũng theo đó mà suy giảm. Vì vậy đọc bài thơ Tự thán của vị Thiền sư này
tôi thấy thật là hay.
Kế đến tôi dẫn
bài kệ của Thiền sư Tiếu Ẩn, Ngài có công phu tu hành đắc lực, để chúng ta
theo đó mà phấn đấu.
Kim cang chánh thể hiện rõ ràng
Cảnh vật muôn vàn Bát-nhã quang
Bặt lối lại qua đương niệm thoát
Âm
dương đất trống lý toàn bày
Gáy sáng gà cây trong nẻo vắng
Mừng xuân gái đá ra động phòng
Đáy hồ rồng vẫy vui vô hạn
Đưa tiễn gió xuân một lò trầm.
Ngài tu hành
đắc lực nên phấn khởi trong lời ghi lại cho chúng ta. Kim cang chánh thể
hiện rõ ràng, cảnh vật muôn vàn Bát-nhã quang. Nghĩa là Ngài đã làm chủ
hoàn toàn cho nên lúc nào Kim cang chánh thể cũng hiện bày. Trí tuệ
Bát-nhã luôn soi sáng, mọi hiện tượng chung quanh không làm gì được Ngài
nữa.
Bặt lối lại
qua đương niệm thoát, âm dương đất trống lý toàn bày. Nghĩa là tất cả
những dấy niệm Ngài đều làm chủ được hết. Công phu này gần gũi với chúng
ta lắm. Không nói là được an lạc hay thành tựu pháp thân hoặc giải thoát
thanh tịnh gì hết, mà chỉ nói mọi dấy niệm đều làm chủ được. Chính Hòa
thượng đinh ninh dạy rõ chúng ta về điểm này. Làm sao chúng ta làm chủ
được các dấy niệm của mình. Đi đứng nằm ngồi, trong mọi sinh hoạt, có niệm
nào dấy khởi, mình làm chủ được không để nó kéo lôi. Như vậy rất là thích
thú. Tu bình thường thôi, lúc ăn, khi làm công tác, tụng kinh, ngồi thiền,
đọc sách, tiếp khách lúc nào cũng làm chủ được. Được vậy thì trí Bát-nhã
thường sáng suốt hay chánh thể Kim cang hiện bày.
Gáy sáng gà
cây trong nẻo vắng, là con gà bằng gỗ mà gáy vào buổi sáng. Thử xem xưa
nay có con gà bằng gỗ nào mà gáy được không. Nếu gáy được và gáy ở chỗ
không có người nào hết thì có tác dụng gì đâu. Giả dụ như bây giờ trăm
ngàn thứ vọng tưởng, bao nhiêu niệm dấy lên mà chúng ta làm chủ được,
không chạy theo bất cứ niệm nào hết, thì đúng là gà cây gáy trong chỗ vắng
vẻ, không có tác dụng gì hết.
Mừng xuân gái
đá ra động phòng. Ngày xuân là nói đến tuổi xuân hay để diễn tả người con
gái đang trong thời điểm xinh tươi, rộn ràng với bao tình ý v.v… Nhưng với
người tu đến đây thì giả như có những hiện tượng đó cũng không thể kéo lôi
được nữa. Người con gái đá thì cảm tình có tác dụng gì đối với chúng ta.
Đúng như lời Thiền sư Phù Dung nói “trồng hoa trên đá”. Tóm lại đây là lời
ghi của một vị công phu đắc lực, làm chủ hoàn toàn đối với tất cả các hiện
tượng.
Hai câu kết
Ngài nói Đáy hồ rồng vẫy vui vô hạn, đưa tiễn gió xuân một lò trầm. Các vị
ở trong gia đình hay am cốc, Thiền viện, các vị luôn tiếp cận với tất cả
các công việc nhưng nhớ lúc nào cũng sống được với tâm thể của mình. Sống
được với tâm thể của mình tức là sống được với mùa xuân Di Lặc hay mùa
xuân miên viễn ở trong lòng chúng ta. Sống được như vậy thì có thần dụng,
nên ở đây Ngài nói đáy hồ rồng vẫy vui vô hạn. Giống như rồng gặp nước, ở
dưới nước vẫy đuôi, lên cao thì hớp gió tụ mây v.v… Bao nhiêu thần dụng
chấn động từ con người đã làm chủ được mình.
Tóm lại lời
ghi này của vị tu hành đắc lực, làm chủ được mình và có được những thần
dụng. Thần dụng cũng giống như thần thông vậy. Nếu tu được đắc lực, sống
được với tánh giác, không bị kéo lôi thì chúng ta cũng có thần thông. Còn
sống mà tâm tư bị xẻ manh xẻ mún, bị ngược xuôi năm trên năm dưới, đầu nọ
đầu kia thì không có thần dụng.
Chúng ta có
thể thực hiện được như vậy không ? Tôi xin trả lời thế cho các vị mà cũng
là trả lời cho tôi “Chắc là được”. Với điều kiện thứ nhất là phải phát
tâm kiên cố, nghĩa là phát tâm chắc chắn, vững mạnh. Thứ hai là phải có
tâm trường viễn, tức là không bao giờ ngán sợ bỏ cuộc, lúc nào cũng phấn
chấn tiến bước. Được hai tâm này cộng với sự tha thiết thì công phu nhất
định thành tựu.
Người xưa tu
hành cũng những phương pháp như chúng ta mà các Ngài thành công. Chúng ta
bây giờ hiểu nhiều hơn, biết được cả chuyện trong vũ trụ. Văn hóa, văn
minh là thế nhưng về công phu miên mật trường viễn thì thiếu. Đây là mặt
yếu mà chúng ta cần phải khắc phục để sự tu hành được kết quả trọn vẹn.
Những điểm yếu
trong lòng chúng ta ai mà biết được, có khi nào mình nói ra đâu. Ví dụ khi
trình bày điều gì với Thầy mình, chắc rằng không ai dám nói thẳng ra những
thói xấu hay điểm yếu của mình, mà chỉ nói xa xa vậy thôi. Thầy hiểu được
thì Thầy chỉ cho. Hồi nhỏ có mẹ, chuyện gì cũng nói với mẹ nhưng đến tuổi
mười tám, mười chín thì không dám nói nữa. Có những ẩn khuất không bao giờ
dám nói cho mẹ nghe. Cũng vậy, đáng lẽ chuyện tu hành cần nói cho thầy
nghe nhưng cũng không dám nói. Thôi thì bây giờ mình nói cho mình nghe.
Nói rằng chỗ đó là chỗ mình cần phải phấn đấu vượt qua, tiến lên.
Phật tổ đã dạy
cảnh là huyễn, các duyên bên ngoài là huyễn. Chúng ta biết và hằng sống
như vậy để đừng bị các thứ huyễn kéo lôi. Nói Kim cang chánh thể, Bát-nhã
quang hay trí Bát-nhã tức là tánh giác, Phật tâm của mình, đó là cái bất
sinh bất diệt. Mình có nhưng đã để phủ nhiều lớp bụi nên bây giờ phải phủi
sạch, để nó hiện ra và chiếu sáng.
Thêm một vị
Thiền sư khác có lời cảm tưởng về con người trong ngày đầu xuân:
Năm trước gặp thanh xuân
Má
hồng khoe đào lý
Năm nay gặp thanh xuân
Tóc bạc đầy mái đầu
Người đời tuổi bảy mươi
Nhanh như dòng nước chảy
Chẳng ngộ tâm xưa nay
Sanh tử làm sao khỏi.
Trong ngày đầu
xuân các vị tu hành gặp gỡ, trao đổi với nhau về công phu, về chỗ đến của
mình để thu nhận sự kiểm nghiệm. Hoặc nói cho bạn nghe, hoặc trình bày với
thầy để được chứng minh chỗ đúng sai của mình, nhằm giúp công phu tiến
triển hơn. Vị này nói năm trước gặp thanh xuân, má hồng khoe đào lý, tình
hình năm trước như vậy nhưng năm nay gặp nhau thì tóc bạc đầy mái đầu.
Không biết năm trước là năm nào nhưng tới mùa xuân năm này soi gương thấy
tóc bạc đầy đầu.
Người đời tuổi
bảy mươi, nhanh như dòng nước chảy, tuổi lớn chồng chất lên con người
chúng ta nhanh như dòng nước chảy. Đứng trên cầu nhìn dòng nước chảy qua
rất nhanh. Trên nguồn thì thấy lưu lượng rất chậm nhưng đến chỗ xiết thì
chảy rất nhanh. Một lúc nào đó, ngồi yên nhìn lại quãng đường đã đi qua
của mình, mới hôm nào còn học ở cấp tiểu học, mình nhớ thằng bạn này,
thằng bạn kia v.v… Nhưng bây giờ nhìn lại thì thấy mình đã lớn tuổi rồi.
Khi tóc bạc
hoa râm, hai chân không còn vững như hồi xưa, da dẻ nhăn nheo, mắt không
còn tinh sáng như thời trai trẻ nữa. Cái khỏe cái đẹp đã đi đâu mất mà
chính mình lại không muốn mất nó. Mình đi thầy thuốc, đi núi non cầu cho
được khỏe mạnh sống lâu v.v… Nhưng khi nhìn lại thì những điều cầu nguyện
mất hết. Quả thực những gì mình muốn thì không giữ được. Cái không giữ
được mà cố giữ thì chúng ta phải đối đầu khổ đau thôi. Nó không phải là gì
hết nhưng bảo nó dừng thì nó không chịu dừng.
Hai câu sau
cùng Ngài nhắc nhở chúng ta Chẳng ngộ tâm xưa nay, sanh tử làm sao khỏi.
Người tu hành không nhận được bản tâm, không sống được với tánh giác của
mình thì làm sao thoát khỏi sanh tử. Chúng ta sống thì mê, chết thì đọa.
Bởi mê tạo nghiệp nên chết bị đọa, không an được tí nào cả. Trong lúc sống
mình mê man, mong cái này, muốn cái kia, lăng xăng đủ thứ chuyện, vì vậy
nên không sáng.
Nhưng mình
không dám nói là mình mê, mình có trí tuệ, có bằng cấp cao, có địa vị thì
làm sao mà mê được. Phật nói chúng sanh mê đáo để. Mê cái gì ? Mê sanh tử.
Thực chất của nó như vậy mà không dám thấy, không dám sống đúng như vậy
nên mê. Chúng ta là một trong những người mê đó. Cái giả không thật mà
chúng ta không chịu nhận.
Phật nói thân
mình là đồ giả nhưng có ai chịu là giả đâu, lúc nào mình cũng lo sửa soạn,
cạo gọt cho nó. Nó bệnh thì phải lo thuốc men chạy chữa. Có ai nói tôi
sống đến hai mươi tuổi cảm thấy mệt mỏi quá, tôi chết cho rồi. Không ai
dám nói như vậy. Dù bệnh hoạn cũng muốn sống lây lất, không thể sống nổi
nhưng vẫn cứ sợ chết. Chết là gì mà người ta phải sợ dữ vậy ? Chỉ có người
tu mới có thể giải đáp được điều này.
Nếu như Thiền
sư, sống được với tánh giác của mình thì chết như cởi áo hạ, rất nhẹ
nhàng. Mùa hạ cởi được chiếc áo thì được thư thả, mát mẻ biết chừng nào.
Như vậy chết đâu có gì đáng sợ. Bởi chưa nhận, chưa sống được với tánh
giác cho nên mình sợ chết. Vị Thiền sư này nhắc nhở chúng ta, nếu không
sống được với cái bất sanh bất diệt của mình thì không thể làm chủ được
sống chết. Như vậy người làm chủ được sống chết thì phải sống được với tâm
chân thật của mình.
Tới đây chúng
ta nhớ lại đoạn sử, trước khi Bồ-tát Sĩ Đạt Đa vượt thành xuất gia. Sau
thời gian được tắm mình trong cung đình, thụ hưởng tất cả những dục lạc ở
thế gian, Ngài sanh nhàm chán. Một hôm Ngài xin Phụ hoàng cho đi ra ngoài
thành để tiếp cận sinh hoạt của quần chúng nhân dân.
Lần thứ nhất,
được sự chuẩn bị của nhà vua, những cảnh tốt đẹp được mở bày, dẹp hết
những gì không tốt trước mắt Thái tử. Nhưng chẳng may, lần ra đi này Ngài
gặp một người già đi lụm khụm, có vẻ mệt nhọc. Ngài hỏi người hầu cận đó
là người gì ? Được biết đó là người già. Ngài hỏi: Ta có già không ? Ngài
cũng sẽ già chớ không thể son trẻ hoài được. Thế là một nghi án đập vào
tâm não ngài. Phải giải quyết như thế nào để mọi người và chính mình đừng
bị cái già chi phối. Từ đó tâm đại từ đại bi của Ngài phát sinh. Đó là dữ
kiện khiến cho Ngài băn khoăn về kiếp nhân sinh.
Lần thứ hai
gặp người bệnh, lần thứ ba gặp một thây chết. Những hiện cảnh thống khổ mà
con người phải nếm trải nhưng không ai quan tâm cả. Thêm những dữ kiện nữa
để cuối cùng Thái tử quyết định từ bỏ tất cả những phù hoa của bậc đế
vương để đi tìm một chân lý, một lối thoát cho mình và tất cả mọi người.
Chúng ta có
duyên gặp được đạo lý của Ngài, khỏi phải tìm đâu hết. Biết già bệnh chết
là những oan khiên mà mình phải đương đầu, nên lo gầy dựng một sức mạnh để
đối phó. Không cho già bệnh chết thúc bách làm mất đi sự an ổn, tạo những
nghiệp nhân xấu xa tăm tối để bị khổ. Đây là chỗ công phu của mỗi người
chúng ta.
Nên lời răn
nhắc của Thiền sư chẳng ngộ tâm xưa nay, làm sao khỏi sanh tử. Nếu người
tu Thiền mà không nhận được tâm thể của mình thì không làm sao làm chủ
được sanh tử. Sống được với tâm thể rồi thì sanh như đắp chăn đông, tử như
cởi áo hạ, có gì bận rộn đâu. Sanh cũng tốt mà tử cũng tốt. Nghĩa là sống
với tinh thần tỉnh giác, sống với tâm thể thanh tịnh cho nên sống cũng tốt
mà ngay bây giờ chết cũng tốt.
Thiền sư Quang
Giác, trong thời gian tu hành chưa thành tựu, Ngài bị bệnh kiết quá nặng,
hơi thở không còn đủ để thở nữa. Vì quá kiệt sức nên Ngài nhờ huynh đệ lau
rửa sạch sẽ rồi đỡ ngồi dậy, đốt ba nén hương, Ngài thầm khấn: “Con đang
tu tập như vậy, nếu bây giờ cái chết đến với con, con nguyện chấp nhận trả
hết những quả báo xấu mà con đã gây tạo. Nguyện trả hết để chủng trí
Bát-nhã hiện tiền. Đời sau vừa sanh ra là quay về với chủng trí Bát-nhã và
tu tập đến ngày viên mãn”. Sau khi khẳng tâm thầm khấn như vậy rồi thì mồ
hôi toát ra, bệnh giảm dần. Nhờ thuốc men của huynh đệ, Ngài khỏe dần và
sáng đạo. Đây là công phu trong lúc chí tử.
Tóm lại tu
hành là phải làm chủ, kiểm soát chính mình, không có gì khác hơn được cả.
Trong việc ăn mặc, nói năng, đi lại mà chúng ta làm chủ được tức là chúng
ta tu đắc lực. Nếu chưa làm chủ được thì phải cố gắng làm chủ lấy.
Tới một Thiền
sư cư sĩ Việt Nam, tức Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nhân ngày xuân Ngài có ghi:
Thời tiết xoay vần xuân đến thu
Cái già sồng sộc đã trên đầu
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Nẻo khổ vành xe lăn lốc khắp
Sông yêu bọt nước mất còn đâu
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Tuệ Trung
Thượng Sĩ là vị Thiền tổ của Thiền phái Trúc Lâm thời Trần. Đây là phái
thiền gốc của tông phái Thiền Việt Nam chúng ta.
Thời tiết xoay
vần xuân đến thu, cái già sồng sộc đã trên đầu. Ý này cũng giống như những
điều chúng ta đã nói. Sự thay đổi, hết xuân đến hạ, hết hạ đến thu, hết
thu đến đông, xoay vần mãi. Cái già cũng như thế, nó sòng sọc ở trên đầu
chúng ta.
Giàu sang ngó
lại trơ tràng mộng, năm tháng mang theo chất hộc sầu. Dù cho có giàu sang
gì chăng nữa, thì qua một giai đoạn, nhìn lại chúng ta chỉ thấy chồng chất
những khổ đau. Người xưa nói: Nhất tướng danh thành vạn cốt khô. Một người
thành danh tướng thì đã trải qua muôn vạn cốt khô, tức là nhiều người đã
nằm xuống.
Nẻo khổ vành
xe lăn lốc khắp, sông yêu bọt nước mất còn đâu. Đây là những khổ sở mà
mình đã nếm trải, nó luôn thay đổi và qua mất. Ngài chỉ nỗi khổ đau trầm
thống lớn lao nhất là vô thường, nó phủ trùm hết. Không thoát được vô
thường thì bị nó chi phối, bị nó làm khổ. Mình không muốn đổi thay mà nó
cứ đổi thay. Xây một ngôi chùa, muốn nó tồn tại được cả trăm năm nhưng đâu
có được. Một hai năm thì nó cũ hư rồi bị sập đổ. Cứ như thế, hữu hình thì
hữu hoại. Phật nói chư hành vô thường, các pháp sinh diệt là như vậy.
Trường đời nếu
chẳng rờ lên mũi, ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu. Trên cuộc đời này,
chúng ta chỉ nhìn thiên hạ, thấy cái hay dở của thiên hạ thì lỗ mũi của
mình sờ sờ ra đó mà mình không thấy. Chỉ cần kiểm lại các giác quan của
mình thì cũng đủ tu, cũng đủ thành Phật rồi chứ không có gì xa xôi. Ngài
nói trên trường đời này nếu mình cứ ngược xuôi mãi theo vọng tưởng, theo
những nhân duyên, hình ảnh bên ngoài thì tất cả chỉ là bóng màu thôi. Nếu
chúng ta nhận lại mình thì cái bất sanh bất diệt hiện tiền.
Tuệ Trung
Thượng Sĩ nêu lên những hình ảnh cụ thể trong cuộc đời để chúng ta tỉnh.
Đọc lại những hình ảnh này chúng ta rất dễ tỉnh. Đây là lời dạy của vị cư
sĩ Thiền sư, là thầy của vua. Mặc dù là cư sĩ nhưng hạnh của ngài cũng
giống như các vị Thiền sư.
Tất cả chúng
ta đều có tâm thể, có tánh giác, nhưng ai sống được với tánh giác đó?
Chúng ta cứ chạy theo bên ngoài mà bỏ quên, không đoái hoài gì đến tánh
giác của mình. Nên ở đây Ngài dạy nếu muốn hết khổ thì chúng ta phải có
công phu tu hành. Muốn làm chủ các giác quan thì phải làm chủ được mình.
Ngài Tuyết Đậu
- Trùng Hiển nói:
Núi xuân chồng chất xanh
Nước xuân lóng lánh biếc
Thênh thang bầu trời không
Đứng riêng trong mù tột.
Ngày xuân nhìn
ra cảnh bên ngoài như núi xuân chồng chất xanh, tức là con người tự tại
giải thoát rồi nên thấy cái gì cũng xinh tươi. Bởi vì bên trong không còn
bất an, nên nhìn cái gì cũng đẹp hết. Nước xuân lóng lánh biếc, nhìn cảnh
nước mùa xuân rất tươi mát. Thênh thang bầu trời không, đứng riêng trong
mù tột. Người đã hoàn toàn làm chủ lấy mình rồi thì cảnh duyên không làm
gì được nữa. Người đó trong lòng thênh thang, tất cả hiện tượng bên ngoài
đều được hiện bày qua tánh giác.
Nhân ngày đầu
xuân, cũng là ngày sinh hoạt đạo lý đầu năm, tôi nêu một số kinh nghiệm
của các bậc tu hành đã thành tựu, được lợi lạc thiết thực đối với đạo để
chúng ta noi theo. Đồng thời chúng tôi cũng ghi nhận những lời cảm khái tự
thán, tự trách của những vị trong giai đoạn công phu chưa đắc lực, chưa
đến nơi đến chốn. Chúng ta theo những kinh nghiệm này mà gắng nỗ lực cho
mình.
Người con Phật
nhận được cái bất sanh bất diệt rồi thì những dao động bên ngoài không làm
gì được chúng ta, do đó chúng ta an lạc. Ngược lại nếu không nhận được như
vậy thì công phu tu tập của chúng ta khó có được kết quả viên mãn.
Mong rằng
từng giờ mới từng ngày mới, tất cả huynh đệ chúng ta ý thức được việc tu
hành của mình. Mỗi người nỗ lực làm sao để không uổng phí cuộc đời, đạt
được lợi ích thiết thực đối với Phật pháp mà mình đã có duyên tu học. Đó
là lời cầu chúc đầu năm của chúng tôi.
] |