XUÂN NHẬT

H.T THÍCH NHẬT QUANG

CỘI NGUỒN YÊN TỬ

Tông môn Yên Tử, dòng pháp nối tiếp sau Thiền sư Hiện Quang là Quốc sư Phù Vân. Vua Trần Thái Tông sau khi nhận chân được lẽ vô thường của cuộc đời này, Ngài quyết tâm tu hành và tìm lên núi Yên Tử, bấy giờ là Quốc sư Phù Vân đang kế thừa ngài Hiện Quang tại sơn môn này.

Ngài Phù Vân là một con người đạt đạo, lại rất thực tế đối với xã hội và đất nước. Khi thấy vua Trần Thái Tông lên đây xin tu thì Ngài chưa quyết định nhưng Ngài nói rằng : “Lão tăng ở chốn sơn dã đã lâu, xương cứng mặt gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh núi rừng đã quen. Còn Ngài là một vị quốc vương lên ở đây tu hành làm sao được”. Nhưng vua Trần Thái Tông khăng khăng một mực xin ở đây tu. Ngài lại hỏi tiếp : “Bệ hạ đến đây cầu việc gì ?”. Vua Trần Thái Tông đáp : “Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không nơi nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp Đế Vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên mới vào đây, chỉ muốn cầu làm Phật chứ chẳng muốn cầu gì khác”. Ngài Phù Vân liền nói : “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta, nếu tâm lắng lặng thì trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật, không cần đi tìm cực khổ bên ngoài”. Đó là câu nói mà Quốc sư Phù Vân đã hiện bày để khai ngộ cho vua Trần Thái Tông.

Khi Trần Thái Tông bỏ triều chính lên núi Yên Tử tu, Thúc phụ Trần Thủ Độ ra lệnh cho bá quan lên núi tìm vua. Gặp vua, Trần Thủ Độ yêu cầu nhà vua sớm về lãnh đạo quốc gia, mọi người đang mong đợi nhà vua trở về. Vua Trần Thái Tông nghe những lời khẩn cầu tha thiết, vua động lòng thưa với Quốc sư Phù Vân : “Bây giờ bá quan tìm tới đây rước trẫm về, Ngài nghĩ thế nào ?”. Ngài Phù Vân đáp rằng : “Là đấng quân vương, mình làm việc gì phải noi theo lòng của mọi người, dân muốn rước Bệ hạ về thì Bệ hạ nên về. Nhưng về làm việc nước mà đừng quên việc tu hành của chính mình.”

Ngày xưa, với một vị Thiền sư ở núi mà đã mở ra một chân trời như thế, đấy quả là lời nhắc nhở chí thiết vừa đạo đức, vừa đạo lý sống trong nhân gian. Tuy vua phải trở về triều đình, nhưng Ngài vẫn không quên việc nghiên cứu kinh điển của Phật và thực tập thiền quán. Một hôm nhân tụng kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” Ngài liền có chỗ vào, tâm thái ngời sáng. Nguyên chữ Hán nói đầy đủ là : “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Do nhận được lẽ chân thật này, nên về sau Ngài có viết quyển Thiền Tông Chỉ Nam lưu lại cho hậu thế.

Sau đó, vua thỉnh Quốc sư Phù Vân về triều và đã trình lên Ngài. Xem qua Quốc sư Phù Vân hứa khả nói : “Đây là quyển sách rất xứng đáng”. Như vậy một ông vua vừa lo việc nước, việc dân, chống giặc ngoại xâm, chiến thắng quân Nguyên Mông làm nên trang sử vẻ vang cho dân tộc mà vẫn tu hành được. Đây quả thực là một điểm son sáng ngời đáng được hậu thế soi chung.

Nối tiếp ngài Phù Vân là Thiền sư Đại Đăng, cùng thời với vua Trần Thánh Tông. Vua Thánh Tông là một vị vua hoàn thành việc nước xuất sắc mà vẫn am hiểu Phật pháp, nhận được lý Thiền. Chúng ta thấy các vua nhà Trần, đều là những người thâm hiểu Phật pháp ứng dụng tu hành. Người trốn lên Yên Tử đầu tiên là vua Trần Thái Tông, đến người thứ ba là vua Trần Nhân Tông, đặc biệt các Ngài đều tìm lên Yên Tử để tu.

Vua Nhân Tông, lúc còn là Hoàng tử được vua cha gởi theo học với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Đây là một ông quan rất uyên bác Phật pháp và ngộ lý Thiền sâu sắc, thuyết giảng Thiền rất độc đáo. Thế thì lúc còn là một ông hoàng mà vua Trần Nhân Tông đã được nuôi nấng ở trong đạo lý, và Ngài từng trốn lên Yên Tử tu. Có thể nói Phật pháp đời Trần xuất phát từ núi Yên Tử, từ Thiền sư Hiện Quang, Quốc sư Phù Vân cho đến Quốc sư Đại Đăng, những vị Quốc sư này đều là thầy của các vua đời Trần. Trong sử có đoạn ghi vua Trần Nhân Tông trốn lên núi Yên Tử tu, muốn nhường ngôi lại cho em, nhưng vua Thánh Tông thấy rõ Ngài là người có đủ đức, đủ tài để lo việc nước, cho nên lên Yên Tử bắt về và truyền ngôi lại cho Ngài.

Vua Nhân Tông ngộ lý Thiền nơi Thầy học của mình là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Sau một thời gian học đạo với Thầy, cho đến ngày vua cha đòi về, Ngài hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ rằng : “Việc bổn phận của người tu là gì ?” Tuệ Trung đáp : “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Nghĩa là quay lại soi sáng chính mình, đó là phận sự chính, không thể cầu bên ngoài mà được. Ngay đó ngài liền ngộ. Như vậy khi còn là Thái tử, Ngài đã ngộ đạo rồi chứ không phải đợi đến sau này. Nhưng Ngài làm tròn trách nhiệm của một người có bổn phận lo cho dân cho nước xong rồi mới đi tu.

Qua hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông, đem lại sự hòa bình cho dân tộc. Khi nước nhà bình yên, Ngài nhường ngôi lại cho con là vua Trần Anh Tông và lên núi Yên Tử tu, năm đó ngài 40 tuổi. Ngài có những điểm kỳ đặc hơn các Quốc sư Phù Vân, Đại Đăng… Những vị này đều là Quốc sư theo hệ thống của các hệ phái Thiền được truyền thừa lâu nay trong nước. Đến Ngài thì nhận lấy những tinh hoa của các dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường… kết tụ lại, lập thành một hệ phái lấy tên Trúc Lâm Yên Tử. Từ đó nước ta có một phái Thiền hoàn toàn Việt Nam và Ngài là người đứng đầu khai sáng, làm Sơ tổ của phái thiền này.

Khi còn làm Thái thượng hoàng, Ngài có làm bài phú tựa là Cư Trần Lạc Đạo, nghĩa là đang ở trong vòng bụi bặm trần thế, mà vẫn hành đạo, vui với đạo. Trong bài phú này có những câu Ngài nói về Thiền hết sức thấu đáo, như :

            Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

            Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

            Gia trung hữu bảo hưu tầm mích

            Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Tạm dịch:

            Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

            Đói đến thì ăn mệt ngủ liền

            Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

            Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Đang sống cuộc đời mà vẫn vui với đạo là bởi khéo tùy duyên, tùy duyên tức là không đòi hỏi, không thắc mắc, tiếc nuối lo âu… đó là khéo tùy duyên. Câu “Đói đến thì ăn mệt ngủ liền” không phải nói đói ăn mệt ngủ là chủ yếu, mà tất cả những việc gì đến cũng giống như đói ăn mệt ngủ vậy. Việc gì cần làm thì làm, qua rồi thì thôi, đừng nghĩ rằng mình làm đây có lợi nhiều hay ít, lợi bao nhiêu, hại bao nhiêu. Cứ lo tính như thế làm mất đi sự trong sáng của chính mình. Việc gì mình đã làm rồi thì tùy duyên, làm tốt thì kết quả tốt, việc nào mình cũng vui vẻ chấp nhận.

Nói như thế không có nghĩa là mình bất lực mặc cho số phận. Mà ở đây mình dùng trí tuệ thấy một cách thấu đáo lẽ thật, thế thì mọi khổ đau phiền não sẽ không có cơ hội quấy rầy mình nữa. “Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Trong nhà có của báu rồi mà còn tìm kiếm gì nữa. Những gì tầm thường không ai coi trọng, có một cái gì đó người ta quý trọng thì gọi nó là báu. Cũng như vậy trong thân của chúng ta, cũng như ngoại cảnh bên ngoài đều là tướng vô thường sinh diệt. Nhưng trong tướng vô thường sinh diệt đó ngầm chứa một cái chưa bao giờ bị vô thường hoại diệt, cái đó không báu là gì ? Cho nên ngay trong mình có của báu đó, đừng tìm kiếm nơi nào khác. Không tìm kiếm bên ngoài thì phải tu bằng cách nào? “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” Thấy người, thấy vật, thấy hoa, thấy cỏ ; thấy tốt biết tốt, xấu biết xấu, cái gì ra cái đó, nhưng không dính mắc cái nào hết. Vô tâm là không dính, không kẹt chứ không phải không biết gì.

Thiền có nghĩa là không để tâm dong ruổi theo sáu trần. Lục Tổ ngộ câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang, vua Trần Nhân Tông cũng ngộ câu đó. Làm sao cho tâm mình trong sáng không vướng mắc sáu trần, căn trần không đến nhau đó là Thiền. Núi Yên Tử là chiếc nôi của nguồn Thiền Việt Nam, bởi vì từ các vị Quốc sư, Thiền sư cho đến các vua Trần tu hành ngộ đạo, truyền bá Thiền tông đều xuất thân tại ngọn núi này.

Đây là một bài kệ của Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông tổ khai sáng phái Thiền Việt Nam Trúc Lâm Yên Tử. Nay xin gởi đến những người bạn đồng hành, để cùng nhau trở về điểm xuất phát dòng Thiền thuần túy Việt Nam, và người khởi xướng là một vị vua, lãnh đạo quốc gia.

Mong rằng mỗi người con Phật chúng ta, ai nấy cũng xứng đáng và làm tròn bổn phận của mình, để không phụ lòng các bậc tổ sư tiền bối đã dày công gầy dựng.

            “Phải trái rụng theo hoa buổi sáng

            Lợi danh lạnh với trận mưa đêm

            Hoa tàn mưa tạnh non im vắng

            Xuân cỗi còn nguyên một tiếng chim.”

]

     
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM