XUÂN NHẬT

H.T THÍCH NHẬT QUANG

KHÔI PHỤC DÒNG THIỀN TRÚC LÂM

Dân tộc Việt Nam trải dài cả ngàn năm Bắc thuộc mà tín ngưỡng truyền thống của giống nòi vẫn còn nguyên vẹn. Ngót một trăm năm bị đô hộ bởi phương Tây mà dân ta đại đa số vẫn giữ được truyền thống tín ngưỡng ngàn xưa của tiên tổ. Đấy quả thực là một điều đáng khích lệ, đáng biểu dương cho tinh thần cao quí của giống nòi. Người xưa từng nói : “Hết gạo hết binh nhưng niềm tin không bao giờ hết”. Đấy một câu nói nghe qua giản dị mà nói lên được ý chí xuyên suốt, kiêu hùng, bền vững và bất khuất.

Dân tộc ta đã vùng lên và luôn luôn đứng vững làm nên lịch sử nòi giống, đập tan mọi âm mưu phá hoại của bên ngoài, giành lấy quyền tự chủ độc lập, xứng đáng so vai cùng hàng liệt quốc anh hùng trên thế giới. Lại tổ tiên ta cũng tự biết chọn cho mình một tín ngưỡng phù hợp lòng dân, để rồi từ đó giữa mọi người trong cộng đồng dân tộc, cùng đoàn kết thực sự để xây dựng tổ quốc. Bấy giờ các phái thiền Phật giáo có mặt trên lãnh thổ. Đầu tiên, vào giữa thế kỷ thứ VI phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền vào với bao nhiêu vị danh Tăng thạc đức như Thiền sư Đỗ Pháp Thuận, Trưởng lão La Quý An, Tăng thống Khánh Hỷ, Quốc sư Vạn Hạnh… các Thiền sư này mở ra một con đường sáng là trọn đạo đẹp đời. Sau đó kỷ nguyên thứ IX phái thiền Vô Ngôn Thông xuất hiện trên cõi Đại Việt cũng với tinh thần trong sáng hài hòa, người con Phật lòng trọn lòng yêu quê hương bảo vệ tổ quốc. Với những danh tăng như Khuông Việt Thái Sư, Trưởng lão Định Hương và vua Lý Thái Tông… Ngang đây có thể nói rằng các phái thiền Việt Nam đã một lần làm nên lịch sử cùng với dân tộc này đoàn kết hòa hợp để xây dựng một đất nước Việt Nam phồn thịnh, non sông một dải gấm vóc, đất nước yên vui thái bình. Dân tộc ta lòng lòng phấn khởi, từ các đấng quân vương vừa gánh vác trọng trách kiến quốc, vừa thực hiện hoài bão mở thông đạo Thánh lợi lạc quần mê.

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một Thiền phái hoàn toàn Việt Nam ra đời với những Thiền sư cao khiết như Thiền sư Hiện Quang, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trúc Lâm Đầu Đà, Huyền Quang Tôn giả… các bậc Thiền tổ này đã mở toang cửa Thánh không chút giấu giếm. Các Ngài chỉ thẳng Phật tâm của mọi người, chỉ thẳng cái cốt tủy của việc tu hành là “Phản Quan Tự Kỷ”, là nhận lấy phận sự chính của mình, không hề than trách chối chạy nghiệp dĩ kiếp người. Các Ngài gõ cửa sự đoàn kết chấn chỉnh tình nòi nghĩa nước, đào tạo một thế hệ anh hùng, làm nên trang sử vàng son cho dân tộc. Bản môn mở đạo của các Ngài là Trúc Lâm Yên Tử, nơi mà trước đây cao tổ của Thiền là Thiền sư Hiện Quang đã có mặt, sống và hành đạo tại đây. Ngài cũng đã khẳng khái nói với chúng ta rằng – Tập theo đức Hứa Do, nào biết xuân thu trước, an ổn sống trọn vẹn, người tự tại thong dong – (Na dĩ Hứa Do đức, Hà tri thế kỷ xuân, Vô vi cư khoáng dã, Tiêu diêu tự tại nhân). Lời dạy bảo thâm trầm này của tổ Hiện Quang trên đỉnh Hoa Yên thuở nọ quả thực trầm hùng, đồng vọng, làm nền tảng kiên định cho một Thiền phái Thiền tông tương lai Việt Nam ra đời, tiếp nối công đức lợi lạc chúng sanh bằng trí tuệ siêu việt của Ngài. Và lời Ngài dặn người sau trước khi thị tịch vẫn còn âm vang mồn một :

            “Huyễn pháp là huyễn,

            Huyễn tu cũng huyễn,

            Hai huyễn đều không,

            Là sạch các huyễn.”

Thiền phái Trúc Lâm chính thức ra đời vào đầu thế kỷ thứ XII. Hồi này các bậc công khanh quốc vương, công phu sáng đạo dựng lập môn phong. Vị sáng tổ là đức vua Trần Nhân Tông anh quân, một vị vua anh hùng sáng đạo và rời ghế phượng loan xây dựng rừng thiền lấy Trúc Lâm Yên Tử làm tiêu bảng. Một đời Ngài sáng đạo độ sinh, truyền xướng môn phong sung mãn. Các bậc danh đức thạc học kế thế dòng mạch này như tổ Pháp Loa, Trạng nguyên Huyền Quang… Thầy trò một nhà hòa tấu khúc tông phong vi vút. Yên Tử sơn, cội tùng rừng trúc cho đến ngày nay vẫn là đỉnh cao của những tâm hồn mộ đạo cầu Phật. Cũng từ đó, với túc duyên thâm hậu nối nấm cội nguồn tại miền Nam nước Việt, xứ cao nguyên yên lắng, một Thiền sư ra đời trùng hưng Thiền viện Trúc Lâm, nêu cao tinh thần “khôi phục Thiền Tông Việt Nam” làm sống dậy một tông phái Thiền vốn đã rạng danh một thời, mà cũng đã mai một từ bao thế kỷ trước. Có thể nói, đó là đặc điểm Thiền học Việt Nam của một thời đại.

Ngày Thầy quảy gậy lên non, bóng Thầy ngả dài theo lịch sử truyền thừa Phật giáo Thiền tông. Một thời cơ chợt hiện, như ánh đuốc trong đêm tối tỏa sáng mênh mông. Pháp âm lưu bá, sức sống Thiền tông vùng dậy làm tông bản, nơi ngưỡng mộ của mười phương nạp tử. Chính đây với những năm tháng miệt mài công phu của hàng nạp tử trong tông môn đã hứa hẹn một tương lai rực rỡ “Sáng đạo giải quyết việc sanh tử của mình”.

Tại Thiền viện Trúc Lâm, các Thiền sinh luôn phấn đấu công phu thực hiện hoài bão làm người xuất gia đệ tử Phật xứng đáng, để chống vững ngôi nhà Phật pháp và tương lai làm lợi ích cho chúng hữu tình. Ở đằng xa, lòng ngưỡng mộ các bậc thượng đức này, tôi ước mong Phật pháp sáng tỏ, Tam bảo gia hộ, việc lớn viên thành. Tất cả chúng tôi đồng phát nguyện “Thắp sáng ngọn tâm đăng Phật tổ”. Vì thế với chúng tôi thì, Thiền viện Trúc Lâm là một nhân tố quan trọng của người con Phật ngày hôm nay, là viên đá đầu tiên đặt trên nền tâm linh của mọi người con Phật, với quyết tâm duy nhất là khôi phục lại ngôi nhà Thiền tông. Và tinh thần khôi phục Thiền tông Việt Nam, bước đầu đã hình thành trên hướng trình khai mở chỗ tăm tối còn đọng lại trong lòng chúng ta, tiếp tục thắp ngọn tâm đăng Phật tổ làm thuyền bè cho mọi chúng sinh còn đang đắm chìm giữa biển khơi.

Chính vì vậy, chủ trương dựng lại năng lực vô tận của mình, để rồi không còn phải lang thang chạy rong tìm kiếm bên ngoài nữa, để cắt đứt những phút giây phiêu bồng trôi giạt quả là khó khăn vô kể. Nơi đây dừng lại mà sống, mà nhận lại mặt mắt thật xưa nay của mình. Có nhìn tận, thấy thực rồi mới yên lòng dừng bước lang thang, thôi làm người khách phong trần phiêu lãng.

Sống thực, thấy thực, tự mình quan tâm và nhận ra sự chắc thực của chính mình nơi mọi sự kiện, và cũng từ đó, ta có cơ hợi hồi đầu nhận lại nguyên vị chân nhân của mình. Người xưa nói : “Cái khố xưa cha mẹ sinh vẫn còn ấm” cái này nó đơn sơ, binh thường và cũng rất giản dị. Nó không giấu giếm một ai, và cũng không bao giờ khuất lấp với riêng ai. Tuy nhiên, bao giờ ta chịu dừng bước lăng xăng thì cái ấy tự hiện, ta mới sáng mắt với mọi vấn đề. Còn thì chưa nhận ra, ngàn muôn năm cứ vẫn dùi mài khác nào rùa mù, bộng nổi.

]

     
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM