Ý NGHĨ CỦA NGƯỜI TU
Hôm nay tôi
nói chuyện về ý nghĩ của người tu. Nghĩa là người tu chúng ta phải tu ngay
từ trong ý nghĩ của mình. Ý nghĩ là một thứ nghiệp quan trọng, chủ yếu
trong sinh hoạt của tất cả chúng ta. Vì vậy nói tu, thì chúng ta phải nhắm
thẳng vào điểm gốc này mà tu. Như chư Phật và liệt vị Tổ sư đã từng dạy
chúng ta rằng: nếu người biết tu, tu đúng, thì một ngày của người đó bằng
bao nhiêu năm tháng dài của những người tu mà không nắm rõ chủ trương
đường lối.
Nói vậy, không
có nghĩa là chúng ta dám tự hào, mình là người biết tu, là người nắm rõ
chủ trương đường lối hơn bất cứ người tu nào khác. Nhưng chúng ta được
chút duyên lành có thầy có bạn, chúng ta biết cách thức tu hành và chúng
ta cũng biết được những nghiệp tập nào là những nghiệp tập cốt lõi, cốt
tủy của chính chúng ta. Nó là những cố tật, biết rồi thì chúng ta nhắm
thẳng vào những cố tật này đả thông, sửa đổi, hoặc là chỉnh đốn để được
tốt đẹp.
Buổi nói
chuyện này chúng tôi nhắm thẳng vào những ý nghĩ. Những suy nghĩ hay là
tác động về ý của người tu nói chung, không luận là người tu thiền hay tu
bất cứ pháp môn nào trong đạo Phật. Đây là điều rất cần thiết đối với
người tu. Vì rằng, nhiều lúc chúng ta hiểu biết nhiều quá, chúng ta áp
dụng nhiều cách tu hành trong đạo Phật quá, chúng ta thọ nhiều giới quá
v.v... thành nhận định của chúng ta chung chung. Chúng ta chưa có được
một nhận định chính xác xem cái nào là chính, cái nào cần hành trì trong
sinh hoạt của mình.
Trong Kinh có
một bài như sau: Một hôm Ngài A Na Luật ngồi thiền ở chỗ vắng vẻ, Ngài suy
nghĩ thế này:
Người tu theo
đạo pháp của Phật thì phải là người thiểu dục, tri túc. Đây là bước đầu
thông thường của người học Phật. Nếu chúng ta học Phật mà chúng ta không
thiểu dục thì chúng ta hành trì chưa đúng. Chưa đúng thì không thể có kết
quả được. “Thiểu” nghĩa là ít, là gọn gàng, giản dị, tối thiểu. Quả thật
người tu thì phải thiểu dục. Nếu không thì bận rộn. Đa dục hoặc sẽ bị
những thứ lăng xăng trước mắt cuốn lôi, qua mất một đời không có lợi lạc
gì. Sau khi “thiểu dục” rồi thì phải biết “tri túc”, là vừa đủ. Nhưng vừa
đủ như thế nào ? Nghĩa là phải giới hạn tùy theo những nhu cầu của bản
thân. Không nên buông lung theo những nhu cầu mới mẻ, hiện đại. Chẳng hạn,
nói đến việc thông thường như ăn thôi, nếu chúng ta không giới hạn có
chừng mực, mà dùng quá nhiều, hoặc thức ăn làm nặng bụng, hoặc quá nóng,
quá lạnh, quá sống... vào buổi chiều, thì thời gian công phu đêm của chúng
ta xem như bỏ phí. Nặng bụng thì ngồi thiền cũng không được mà tụng kinh
lạy Phật cũng không xong. Vì vậy, giới luật là một phần giúp chúng ta biết
thiểu dục, tri túc.
Đối với người
tu thích ứng ở chỗ lặng lẽ. Có một điều chúng ta dễ sai lầm trong việc tu
hành ngày hôm nay là “cứ xông pha”. Nên rồi thời gian tu tập thì dài mà
việc ngộ đạo thì ít. Nói là tu mà tam nghiệp vẫn y nguyên, tham sân si vẫn
đầy dẫy. Đối duyên xúc cảnh mình vẫn bị động, vẫn bị kéo lôi. Đây là điều
cốt lõi chúng ta cần phải kiểm lại.
Người xưa dạy
chúng ta phải lựa chỗ tu thích hợp. Chỗ thích hợp của người tu không luận
pháp môn nào, cũng là chỗ “tránh duyên, tương đối yên lặng”. Nếu không, sự
ồn náo đã làm mất thời gian hiện tại mà còn để lại “dư âm”, làm mất thời
gian khi chúng ta thực hành công phu. Hòa thượng Viện trưởng Thiền viện
Trúc Lâm từng nói với chúng tôi “Dù cho người tu có trí tuệ, sức mạnh hoặc
những điều kiện tu hành đắc lực như thế nào, mà không tránh duyên thì cũng
không thể bảo quản công phu của mình cho tốt đẹp, cho viên mãn theo ý mình
đã định”.
Vì vậy đọc
hành trạng của các vị Tổ sư, Thiền sư, các Ngài sau khi nhận ra “bản tâm”,
liền tìm một chỗ thích hợp để nuôi dưỡng bảo quản đến khi hoàn toàn “an
ổn” mới ra giáo hóa. Ngày nay chúng ta không được phúc duyên như vậy, nên
tự mình phải ý thức mà sắp đặt. Thấy mình yếu ở phương diện nào, còn vướng
ở những mặt nào thì nên tránh duyên để trị được bệnh của mình. Đây là chỗ
khéo của người tu.
Người tu phải
là người siêng năng liên tục. Siêng năng của mình thường là “từng khúc
từng đoạn”, luôn luôn bị động bởi những duyên sự. Chúng ta ít giữ thời
khóa, những việc “đột xuất” thường thích thú hơn những việc sắp đặt trong
chương trình. Người xưa đạt đạo rất nhiều, còn thời đại chúng ta cũng
nhiều người tu, nhưng nghe nói sáng đạo thì chưa nhiều. Đây là điều chúng
ta nên suy nghĩ. Không thì ngày qua ngày rồi mất. Nếu chúng ta cứ buông
xuôi... cho đến phút giây quan trọng cuối đời, không làm chủ được, lỡ mất
thân này, theo nghiệp dẫn, trôi dạt đâu đó thì muôn ngàn đời chưa biết
ngày trở lại của mình là ngày nào, ở đâu? Vì vậy nói chung, người tu theo
Phật phải siêng năng tu trì.
Người tu phải
là người chế ngự tâm. Chế ngự tâm tức là chế ngự những dấy niệm của mình.
Tâm là cái gì không biết, nó vô hình vô tướng. Chúng ta chỉ biết được cái
dụng do nó phát ra. Những vết tích của nó là tác động của căn trần thức.
Nó không phải là cái thật chỉ là vọng tưởng. Vọng tưởng không thật, nhưng
nếu không buông được, thì không phải nó không có. Chính vọng tưởng là cái
dẫn ta đi trong luân hồi. Chính vọng tưởng làm ta bị cột trói trong cuộc
đời này.
Chúng ta còn
may mắn là được làm người. Chẳng may chúng ta ở địa ngục hay có phúc duyên
ở cõi trời, một nơi quá khổ và một nơi chỉ có thụ hưởng... thì quả thật tu
hành khó lắm, thưa quí vị! Đây là vấn đề rất quan trọng trong việc tu hành
của chúng ta. Vì vậy chúng ta phải chế ngự cho được vọng động của chúng
ta. Còn chế ngự như thế nào thì mỗi người có một phương thức riêng, qua sự
hướng dẫn của các vị Tổ, vị thầy. Đối với pháp không có gì cố định, nên
phương thức chế ngự vọng tâm của từng người, chúng ta tôn trọng. Không dứt
khoát phải thế này hay thế kia, mà tùy theo căn nghiệp của từng người, nên
nẩy sinh sự tu khác nhau. Vấn đề chủ yếu là, làm sao chúng ta được định
tuệ hiện tiền, không bị kéo lôi bởi ngoại cảnh.
Người tu phải
là người tâm định. Nói dễ hiểu là đừng nghĩ tưởng nhiều. Nhưng chúng ta
thì nghĩ tưởng và suy toán nhiều quá. Sự suy nghĩ và tưởng tượng là sản
phẩm hào nhoáng của vọng tâm. Chính sự nghĩ tưởng vọng động làm đời sống
của chúng ta trở nên già nua, suy yếu, cằn cỗi và phiền toái. Từng phút
giây mình bị ngốn, bị trôi dạt, nhưng lại không biết, rồi lặng lẽ cho qua.
Người xưa đã chiêm nghiệm thấy rõ và dặn chúng ta cố gắng đừng suy nghĩ
nhiều. Nếu có suy nghĩ thì nên suy nghĩ có giới hạn, trong một phạm vi để
tâm còn định. Còn cứ trôi dạt trong sự nghĩ suy tơ tưởng thì không thể tu
được. Đây là căn bệnh trầm kha của người tu chúng ta, cần phải khắc phục.
Nếu người tu
biết thiểu dục tri túc và siêng năng liên tục, chế ngự được tâm, dừng được
những nghĩ tưởng thì người đó sẽ có trí tuệ. Đây là kinh nghiệm để lại của
người xưa. Khi nào chúng ta áp dụng và dừng được những điều trên thì chúng
ta có trí tuệ. Trí tuệ ở đây không phải là tốt nghiệp bằng cấp cao, hoặc
tốt nghiệp ở những trường trên thế giới... mà trí tuệ này là do chúng ta
buông bỏ vọng tưởng, làm chủ được mình, không bị kéo lôi bởi những hiện
tượng truớc mắt. Nó là cái sẵn có của chúng ta, nhưng chúng ta từ lâu
chẳng chịu nhận. Các vị Thiền sư nói “không bị quá khứ, hiện tại, vị lai
làm khốn mình, đó là có trí tuệ”. Người có trí tuệ là người bất động, nên
nói “tám gió thổi chẳng động”, là những người dám nhận lại “cái của mình”.
Qua những ý
nghĩ của A Na Luật, đức Thế Tôn đi đến và khẳng định những điều A Na Luật
nghĩ là đúng, đáng khen ngợi! Đó là những điều rất cần thiết đối với bất
cứ người tu nào. Kiểm nghiệm lại mà xem thì quả thật, nếu chúng ta chưa
làm chủ được các dấy niệm, trong mọi thứ quan hệ tương giao chúng ta chưa
dừng được, thì chúng ta không thể có sự định tỉnh. Nếu không định tỉnh làm
sao có trí tuệ sáng suốt?
Về công phu tu
hành, người xưa nói : “Dù một giọt nước nhỏ mỗi ngày nhỏ vào đá, cũng
xuyên thủng khối đá”. Điều này nhắc nhở chúng ta về sự liên tục, kiên trì
và quyết tâm. Nhìn lại mình bây giờ, thử hỏi lòng quyết tâm kiên trì của
mình có dũng mãnh hay không? Có cương quyết hay không? Sở dĩ công phu tu
hành của mình luôn trì trệ, không tiến là do tâm kiên trì mình còn yếu,
còn kém, chưa quyết tâm.
Việc này đối
với Phật tử tại gia khó đã đành, mà ngay trong đời sống của những người
xuất gia cũng thế. Cái khó của chúng ta là thế, nhưng không phải là chúng
ta không làm được. Công phu của mình mỗi ngày một ít, nhưng nếu chúng ta
bảo quản gìn giữ, đừng để gián đoạn hay mất, cứ tích lũy, chịu khó, thì có
ngày cũng viên mãn. Trên đường tu, không luận là dài hay ngắn, nghiệp tập
sâu dày hay phước báu nhiều bao nhiêu, không luận là tu thiền hay tịnh độ,
nếu công phu không liên tục thì cũng như cọ cây lấy lửa, cây chưa nóng đã
ngừng, biết bao giờ mới lấy được lửa?
Người tu tịnh
độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu vãng sanh. Nếu niệm liên tục không bị
xen tạp từ một ngày cho tới bảy ngày thì được Phật rước. Nhưng vì niệm
gián đoạn, thành Phật không thể rước được. Thiền cũng vậy! Thầy dạy “buông
hết thì được trí tuệ, sáng được việc của mình”. Mới nghe có vẻ dễ hơn,
nhưng chúng ta buông cái này thì dính cái kia, buông cái nhà thì dính cái
cốc, biết chừng nào định? Làm sao có trí tuệ? Điểm khuyết của chúng ta là
vậy. Cái dễ làm còn không được nói gì cái khóù!
Lúc đầu chỉ là
một ý niệm cần thiết cho sự tu hành, nhưng những ý niệm này sẽ quyết định
và hình thành nên ý chí của chúng ta. Nó sẽ giúp chúng ta hành trì liên
tục, quyết liệt cho đến ngày viên mãn.
Trong một đoạn
nhân duyên đời trước của đức Thế Tôn, có một khoảng đức Phật làm chim oanh
vũ. Trong một trận cháy rừng, trước cảnh đau thương tan tác của bầy thú,
với sức bé bỏng của mình, chim đã phát nguyện dập tắt ngọn lửa. Một khi đã
phát nguyện, chim cứ thế mà làm. Chư Thiên nhìn thấy, cho là điều không
thể làm được. Chim nói “Lửa này chỉ là lửa thường. Lửa sân hận, si mê,
điên đảo nhiều đời nhiều kiếp, tôi còn phát nguyện dập tắt được thay, hà
huống là lửa này!” Thân này nếu chưa dập tắt được thì thân sau, thân sau
nữa... đến khi nào dập tắt mới thôi.
Không chỉ một
chuyện tiền thân đức Thế Tôn, mà trong hành trạng của các Thiền sư, với
những lời phát nguyện như “Nếu do những tập nhân đời trước con phải trả,
con nguyện trả hết. Và xin nguyện nương nơi chủng trí Bát-nhã, trả hết
nghiệp cũ trở lại tu. Dù có rơi vào ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, vẫn
nguyện nương nơi chủng trí Bát-nhã mà tu, cho đến khi nào thành Phật mới
thôi”. Tất cả điều ấy nói lên ý chí cần có của người tu Phật. Không có
điều này chúng ta không thể tu cho đến viên mãn được.
Đức Phật của
chúng ta đã nói, tất cả chỉ là vọng tưởng, dấy niệm là vọng tưởng, những
gì chung quanh ta là vọng tưởng, tiền tài danh vọng đều là vọng tưởng...
Chúng ta tin thì có tin, cũng có lúc nhận ra như vậy, nhưng buông thì thật
chưa dám buông!
Tóm lại, dù
chúng ta đang là người ở địa vị nào, là phàm phu, là những người tu hành
đắc lực, hoặc là những người đang còn trăm công ngàn việc, là nam hay
nữ... một khi thấy được con đường đạo là như vậy, con đường giải trừ tham
sân phiền não của mình là như vậy, và quyết tâm hành trì thì dù trải dài
bao nhiêu kiếp số, vẫn cố gắng quyết tâm.
Khi đã khẳng
định con đường mình chọn rồi, sẽ có sự phò trợ của Tam Bảo, sự hướng dẫn
của chư vị Tổ sư. Chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
] |