ĐỂ CÓ MỘT MÙA XUÂN
Niềm an vui chỉ có khi tâm chúng ta chấm
dứt phiền não khổ đau. Mùa Xuân chỉ đến khi băng giá tiết đông không còn
nữa. Tâm xuân chính là một mùa xuân miên viễn an vui, vì không còn bóng
dáng khách trần phiền não nhiễu loạn tâm ta. Vì thế để có một mùa xuân
đúng nghĩa, không gì hơn là chúng ta dẹp sạch hết những mầm mống gây đau
khổ cho mình, cho người. Muốn thế, chỉ có một con đường duy nhất, đó là tu
tập để tịnh hóa thân tâm mà thôi.
Đức Phật từng bảo chúng sanh mỗi người mỗi
nghiệp, mỗi người mỗi tật, không ai giống ai cả. Ngay đến người thân ruột
thịt trong gia đình cũng mỗi người mỗi nghiệp, không ai giống ai. Theo
nghiệp tập của mình mà sống mà hành động, Phật nói chúng sanh sống theo
tập quán là thế. Người tu rõ biết tập quán của mình, khéo áp dụng đạo lý
để chuyển hóa, tiêu trừ những nghiệp tập ấy. Chúng ta tu là tu cho mình
chớ không phải tu cho ai, nên không thể trông cậy vào người khác. Đó là
chỗ chúng ta phải nhận định thật kỹ để sắp xếp việc tu hành cho thích hợp.
Làm sao mỗi ngày, mỗi giờ qua đều hóa giải các tập nghiệp mòn sạch hết,
như vậy mới có lợi lạc an vui thiết thực.
Người Phật tử khi đã quyết tâm tu, trước
phải có đức tự tín, không nên băn khoăn. Tại sao? Vì trong lòng băn khoăn
thì việc làm sẽ không tới nơi, vì vậy người tu phải cương quyết. Đức tự
tín của người tu, không có nghĩa là tự kiêu, tự đại. Tự tín ở đây tức là
tin chắc mình là Phật và mình tu sẽ thành Phật. Tin một cách khẳng định
như vậy, nhất định việc tu sẽ tiến. Có thành tựu đức tự tín viên mãn, công
phu tu của chúng ta mới thành công được.
Chúng ta đã biết mọi thứ vẽ vời trên cuộc
đời này đều từ cái tâm vọng tưởng đảo điên mà ra. Tâm ấy không phải là tâm
chân thật của mình. Cũng từ cái tâm không chân thật này, nhiều đời kiếp
rồi chúng ta bị trôi giạt trong luân hồi sanh tử. Do đó ngày nay gặp Phật
pháp, được chỉ phương pháp tu hành, chúng ta đừng lầm nó nữa, đừng tin cái
tâm không chân thật ấy nữa. Phải khẳng định tâm thể thanh tịnh chân thật
của mình, không sanh không diệt. Muốn thế, phải cố gắng buông bỏ hết vọng
tưởng, để tâm chân thật hiện bày.
Đức Phật đã từng nhắc nhở chúng ta, cái
tâm chân thật ấy vốn viên mãn, vốn luôn sẵn có bên mình, không phải ở đâu
xa. Nhưng nếu chúng ta phóng tâm theo ngoại cảnh, lăng xăng bỏ quên mình
thì coi như nó không có vậy. Nói không có tức là có mà cũng như không, chớ
thật ra cái tâm ấy chưa từng vắng thiếu bao giờ. Bây giờ chúng ta tin
khẳng định tâm chân thật của mình luôn hiện hữu, nếu ta bỏ được tất cả mọi
thứ bóng dáng không thật đi. Dứt khoát như vậy thì mới tu và sống được với
tâm chân thật, tâm thuần phác thanh tịnh sáng suốt trùm khắp của chính
mình. Đó là những việc người tu phải làm và làm đến nơi đến chốn.
Sống được với tâm thể của mình rồi thì tất
cả những lăng xăng rối rắm chung quanh sẽ không làm gì được ta. Muốn thế
phải tin mình có khả năng thành Phật. Dù bây giờ chúng ta vẫn còn lang
thang trong kiếp sống phiêu linh lãng tử, trôi giạt mãi theo tâm viên ý
mã, nhưng chủng tử Phật vẫn chưa hề mất bao giờ cả. Nhận định rõ như vậy,
từ đây về sau chúng ta có được niềm tin vững mạnh, thì việc tu hành mới
đạt kết quả tốt. Nhất định chúng ta phải tin tâm mình là Phật, sống lại
với tâm đó, tất cả những gì chung quanh buông bỏ hết. Như vậy mới an ổn
được.
Có ai tu mà không muốn an ổn đâu? Người
xuất gia tu vì muốn vào Niết-bàn. Phật tử tại gia đi chùa, tin kính Tam
bảo để được phước, để không gặp những chuyện bất như ý hoặc trắc trở trong
gia đình, trong cuộc sống. Những điều đó không phải sai, chỉ có điều chúng
ta làm không đúng nên kết quả cũng không đúng. Như tôi đã nói, phải tin
tâm mình, tin vào khả năng thành Phật của chính mình. Muốn làm Phật thì
phải làm việc Phật, có bao giờ muốn thành Phật mà lại làm việc ma đâu?
Thuần sống với Phật chất, nhận lại con người thực nơi chính mình, làm đúng
như vậy thì nhất định người đó đạt được kết quả an ổn.
Thành ra người tu phải có niềm tin sắt đá,
vững như núi vậy. Tại sao phải thế? Vì với bao nhiêu hình ảnh của cuộc
đời, chỉ cần chúng ta hoa mắt một chút là lầm ngay và sẽ lầm dài dài. Phật
tử tại gia lầm và luôn cả những người xuất gia như chúng tôi đôi khi cũng
lầm. Lầm cái gì? Cái vọng tưởng điên đảo, nó vẽ vời rồi dẫn mình đi từ đời
này sang kiếp nọ, ít khi nào dừng lại được. Quí vị thử nghiệm trong một
giờ, nói một giờ hãy còn dài quá, chỉ mười phút thôi, ta ngồi lại nghiệm
xem sẽ thấy vọng tưởng có sức lôi dẫn mạnh mẽ như thế nào. Nó giỏi giắn tế
nhị phi thường, dẫn mình chạy hết đông sang tây, hết việc này tới việc nọ,
hết con đến cháu, dẫn suốt ngày đêm, luôn cả trong chiêm bao mà ta vẫn
chạy theo vô điều kiện. Thế nên từ nhiều đời chúng sanh trôi lăn trong
biển khổ sanh tử là vì vậy.
Tuy nhiên trong nhà thiền dạy, dù vọng
tưởng lẫy lừng thế ấy, song nếu chúng ta biết vọng tưởng, bỏ đi thì nó
không dẫn mình được nữa. Chỉ chút xíu vậy thôi, gọi là tu. Muốn làm được
việc đó chúng ta phải có cái gốc, dứt khoát tin chắc cái gốc như thế. Ví
như những nhà kinh doanh, họ dám đầu tư bạc triệu vào công việc làm ăn, vì
biết rõ mình có một số vốn lớn như thế nào đó, mới dám đưa tiền ra nhiều
chứ. Nếu không có vốn liếng, không có phương thức, không có một tài trợ
nào khác mà nói đầu tư làm ăn, chỉ là nói cho vui với thiên hạ chơi thôi.
Cũng thế, chúng ta không tin vào khả năng thành tựu thánh vị của mình,
không tin vào tâm thể thanh tịnh vốn có của mình, không mạnh mẽ buông hết
tất cả những điên đảo loạn tưởng thì không bao giờ sống lại được với tâm
thể chân thật ấy. Người như thế dù nói tu đến đâu cũng không được an ổn,
nói gì vào Niết-bàn?
Tam tổ Tăng
Xán trong bài “Tín Tâm Minh” đã dạy rất rõ về việc tin tâm mình, tức tin
vào tâm chân thật không hai của chúng ta. Ai tin được tâm đó thì hiện tiền
sống Phật, làm việc Phật, hít thở Phật, cái gì cũng Phật hết. Từng bước đi
nở hoa sen, ở đâu cũng là cõi tịnh lạc, lúc nào cũng thấy một trời xuân
tươi thắm. Ngày xưa Thiền sư Linh Hựu khi được Sư phụ đưa về ở núi Quy,
Ngài thấy chung quanh hoang dã, là hang động của cọp beo rắn rít rất dễ
sợ, mọi người chẳng ai dám lai vãng đến đây. Nghĩ rằng cứ ở như vậy tu sẽ
không làm lợi ích nhiều, nên một hôm Ngài đi lần xuống núi, với tâm cả
quyết Ngài nói rằng: “Nếu ta có duyên với nơi này thì xin các loài thú dữ
hãy nhường chỗ cho lão tăng mở đạo tràng, tiếp độ tứ chúng. Nếu không đủ
duyên hoằng pháp lợi sinh thì ta sẽ chống gậy đi nơi khác”. Nói xong, cọp
beo rắn độc v.v… thảy đều biến mất hết. Từ đó Ngài trở thành Tổ của núi
Quy, dưới hội lúc nào cũng có trên dưới cả 1500 chúng đến tham học. Đó là
do tâm cả quyết mà thành tựu được vậy. Nếu buổi đầu tổ Quy Sơn nhút nhát,
sợ chết, sợ cọp sợ beo, không tin chắc vào tâm chân thật của mình, nhất
định không làm được việc ấy. Người tu phải có lòng tin mãnh liệt mới làm
được việc lớn.
Chúng ta trước nhất phải tự tin tâm mình,
tự tin tâm rồi thì hoàn cảnh chung quanh sẽ quy thuận theo tâm chân thật
ấy. Ngược lại, tâm ta không thanh tịnh, ngược xuôi vọng động thì bị các
pháp, các cảnh chung quanh xoay chuyển, chúng cuốn hút khiến ta mất mình
mà không tự hay biết. Người không làm chủ được, dù nói tu hành thế nào
nhưng vẫn bị cảnh duyên bên ngoài kéo lôi, không thể có kết quả như sở
nguyện được. Điều này chúng ta phải suy nghĩ và có định hướng cho mình
thật dứt khoát rõ ràng trong sự tu học.
Ngày xưa có tổ Quy Sơn như thế, chẳng lẽ
bây giờ lại không có tổ Quy Sơn sao? Có chứ. Người thời nay cũng có thể
làm được những việc như người xưa, bởi vì những việc đó không phải chỉ để
dành cho người xưa. Điều quan trọng là chúng ta phải tỉnh, phải quyết tâm
quay về sống với mình và tin chắc vào khả năng thành Phật của chính mình.
Người con Phật là người can đảm, không ỷ lại, không trông cậy vào những
thế lực ngoài mình. Nếu nương tựa bên ngoài, qua một thời gian nào đó
chúng ta sẽ bị mất mình. Vì những gì bên ngoài là của bên ngoài, nó không
phải là cái của mình. Người tu phải nhận và sống lại với cái của mình, cái
bên ngoài chỉ là ngoại duyên trợ giúp chúng ta thôi. Trong kinh chư Phật
tổ thường nói chúng sanh bỏ quên hạt ngọc của mình, tự quay lưng với mình
nên bị mất mình. Mất mình là như vậy, là mất đi tự tính sáng suốt, chớ
không phải mất thân mạng này. Cho nên quan trọng là phải phát huy cái chân
thật, cái sẵn có của chính mình bằng niềm tự tin nơi ta. Đó là điều thứ
nhất.
Điều thứ hai chúng tôi muốn nói là tinh
thần quả cảm của người tu. Quả cảm tức là cương quyết. Người tu phải cương
quyết, dứt khoát làm việc gì thì nhất định làm cho tới nơi. Như vậy việc
làm mới có kết quả. Nếu chúng ta làm một việc gì không đúng, không sâu
sắc, không khẳng định đường lối chủ trương của mình thì e rằng kết quả
không như ý muốn. Ví dụ như Phật tử tu thiền, tới giờ ngồi thiền quí vị
vẫn ngồi nhưng chưa tin hiện tại mình được an lạc thì đảm bảo tương lai
cũng không thể an lạc. Dù quí vị có ngồi thiền bao nhiêu, tâm cứ lăng xăng
những nghĩ tưởng bâng quơ thì không thể nào an ổn được.
Người tu phải có tinh thần quả cảm quyết
liệt mới chiến thắng được những nghiệp tập của mình. Phật dạy “Tự chiến
thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”, ngày xưa nghe câu này mình tin
không nổi. Tại sao tự thắng mình là chiến công oanh liệt hơn chiến thắng
trăm ngàn quân? Bây giờ ngồi lại tu chúng ta mới thấy giá trị của câu nói
này. Quả thực là như vậy. Nếu chúng ta không tỉnh, không quả cảm, không
quyết liệt sẽ không chiến thắng được những trận giặc lăng xăng trong lòng
mình, những phiền não loạn tưởng, những nghiệp tập sâu dày tăm tối từ bao
đời. Chúng ta không đủ sức chiến thắng nó, đã không đủ sức chiến thắng nó
thì nó kéo sểnh mình đi mãi thôi, không dừng được. Chỉ khi nào ta có đủ
sức mạnh bên trong mới có thể chiến thắng được giặc phiền não. Sức mạnh đó
là lòng quả cảm, gan dạ phi thường. Cho nên nói “Đức tự tín khiến con
người mạnh dạn gan dạ trong mọi công tác lợi mình lợi người”.
Bởi vì nghiệp tập của chúng ta có từ nhiều
đời kiếp rồi nên nó có sức mạnh lắm. Nó kéo lôi, ve vuốt làm mình phải nhẹ
dạ nghe theo, trôi theo nghiệp rồi tạo thêm nghiệp mới và cuối cùng là
chuốc quả khổ. Người biết tu phải gan một chút, nhìn lại thấy rõ bộ mặt
thực của tất cả những cái ve vuốt, dẫn dắt của nghiệp thì dứt khoát cắt
đứt, chặt thẳng, không liên hệ nữa. Phải gan dạ, quả cảm như vậy mới tu
được.
Chúng ta đừng sợ những việc nghe mạnh mẽ
như thế khó làm, có khi thấy khó nhưng mà dễ làm. Quí vị còn nhớ trong
chuyện Phong Thần, có ông tướng nào không đấu phép đâu. Tướng dở dở quê
quê khi xuất trận cũng có một vài bửu bối, họ đánh nhau toàn là bằng bửu
bối không. Khương Tử Nha là người lãnh đạo cuộc chiến, ông cũng có bửu
bối. Ông cỡi con vật gọi là tứ bất tướng, nghĩa là trong bốn loại thú nó
không giống loại nào hết. Sau một trận chiến tranh dài không biết bao
nhiêu chết chóc, đối phương chỉ còn lại một người thôi. Đó là Đắc Kỷ,
không ai giết được cô. Một lời than của cô tất cả trang dũng tướng đều
rụng rời hết. Bấy giờ vị đại tướng quân có mặt trong trận chiến bằng phép
thuật ghê gớm đó là Dương Tiễn, cháu của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ông này là
người mang lệnh của Thượng Đế xuống để sắp đặt mọi việc. Dương Tiễn xách
gươm ra hành quyết Đắc Kỷ, nhưng khi nghe một tiếng than của cô ông cũng
không giở gươm lên nổi. Thế là bao nhiêu tướng tá già trẻ, những người
giỏi nhất trong bộ tham mưu của Khương Tử Nha đều không giết được Đắc Kỷ.
Trong khi Đắc Kỷ chỉ là một người con gái không còn gì nữa, cả triều đình
Trụ Vương đều tan rã hết. Một người con gái không có vũ khí, không có binh
lực, mà không anh hùng nào giết được. Cuối cùng ai làm được việc này? Đó
là tiên nhân Tán Tiên Lục Yểm, ông thường hay lang thang khắp nơi. Bằng
bửu bối là cái kéo, ông niệm thần chú, cái kéo từ trong hồ lô bay ra cắt
cổ Đắc Kỷ. Bởi cái kéo nó không yếu đuối, không có cái gọi là gì gì hết,
nên nó bay tới đâu thì cắt được tới đó.
Cũng thế, người tu đối với vọng tưởng phải
như cái kéo của tiên nhân Tán Tiên Lục Yểm. Chúng ta cần quyết định dứt
khoát, không bên này bên kia, không tình cảm gì gì hết, sáng suốt minh
bạch giống như cái kéo kia, mới mong chiến thắng được vọng tưởng. Chúng ta
bình thường luôn chạy theo vọng tưởng, khởi lên niệm nào liền theo đó phân
biệt đẹp xấu hay dở rồi sanh thương ghét đủ thứ. Cuối cùng bị cái thương
ghét ấy kéo lôi và mất mình. Người tu không phải không có tình cảm, nhưng
tình cảm theo thế gian thì không nên, mà tình cảm như Phật dạy là lòng đại
bi không bờ bến. Chúng ta thương mọi người mọi loài chưa thực hiện được sự
giác ngộ giải thoát, sống chìm đắm trong vô minh, chớ không phải tình
thương thông thường của thế gian. Trong đạo, tình thương không có giới
hạn, không có biên cương. Người tu thấy chúng sanh đang khổ, khởi lòng
thương muốn làm sao dẫn dắt cho họ vươn lên để hết khổ.
Trong lúc
công phu, chúng ta áp dụng lời Phật dạy, điều phục và chiến thắng những
vọng tưởng, sống được với tâm trong sáng bình yên, không vướng kẹt vào đâu
hết, như thế sẽ mau thành Phật lắm. Nếu ai sống thật với tâm chân thật của
chính mình thì lúc ngồi là Phật ngồi, nằm là Phật nằm, sống là Phật sống,
hít thở là Phật thở hít, làm bất cứ việc gì cũng đều là Phật sự. Trái lại
trong tâm chồng chất điên đảo vọng tưởng, loay hoay lẩn quẩn với nó mãi,
nghiệp tập ngày càng dày, phiền não ngày càng nhiều thì làm sao an vui
được.
Người nào mình thương, việc gì mình chiếu
cố nhiều nhất thì mình lo lắng nhất. Càng lo lắng nhiều thì càng vướng mắc
phiền não nhiều. Mà phiền não là gì? Phiền não là gốc của luân hồi sinh
tử, gốc của khổ đau. Cho nên người tu phải khắc trừ những thứ đó, phải hết
phiền não mới thành Phật được. Còn phiền não, còn những bất ổn trong lòng
thì việc làm của mình sẽ nhạt nhẽo, không tích cực nên kết quả cũng không
tốt.
Chúng ta làm bất cứ việc gì bằng tâm chân
thật, nhất định sẽ dẫn đến kết quả tốt đẹp. Bước đi của Phật, Bồ-tát có
hoa sen nở, để nói lên sự thanh thản, giải thoát, tươi đẹp của những bậc
đã giác ngộ giải thoát. Nếu chúng ta không vướng bên này, không mắc bên
kia, không đầu tư lời lỗ gì cả thì có thể từng bước đi của mình cũng có
hoa sen đỡ dưới chân. Ngược lại, nếu bước đi mà canh cánh trong lòng, nào
là việc hơn việc thua, thương giận v.v… thì chẳng những hoa sen đỡ không
nổi, mà mình bước tới đâu quả địa cầu này rung rinh sắp sụp tới đó. Bởi vì
nó nặng nề quá, tăm tối phiền não chồng chất trong tay nải của mình, thành
ra không có cái gì đỡ nổi những bước chân như thế.
Muốn ung dung tự tại trước mọi cảnh duyên
chung quanh, luôn cả những nguy hiểm trước mắt, chúng ta phải có đức quả
cảm. Điều này nói thì dễ dàng, nhưng làm không phải dễ. Trong đời sống,
trong việc làm, trong ngôn ngữ, nếu chúng ta không vững vàng, trong lòng
bất ổn thì sẽ vướng mắc ngay. Nếu là người tu chân thật chúng ta nên tự
xét lại mình để rồi dứt khoát, cái nào ra cái nấy, như vậy thì mới an lạc.
Thật ra cảnh duyên bên ngoài không tự nói sẽ làm khó chúng ta đâu, không
có ngọn núi nào nói sẽ cản trở người leo núi cả. Các pháp là các pháp
thôi. Nhưng vì chúng ta yếu đuối, vọng tưởng đảo điên nên khi nghe trình
bày một vấn đề gì, thấy một hiện tượng gì, chứng kiến một cảnh gì, trong
lòng mình bâng khuâng, không dứt khoát. Bây giờ chúng ta cần phải quả cảm
lên, nhận định cho sâu sắc để dẹp phắt những thứ không cần thiết ấy đi thì
mới yên được.
Người lúc nào cũng canh cánh trong lòng ăn
không ngon, ngủ không được, đi lững thững lờ thờ nhất định không sớm thì
muộn cũng phát bệnh thôi. Bệnh bao tử rồi bệnh gan v.v… đủ thứ bệnh, từ đó
sanh tâm bệnh nữa. Tâm bệnh tức là phiền não, phiền não thì không có
Bồ-đề. Phật dạy phiền não tức là Bồ-đề nhưng chúng ta không nhận được tánh
thực của phiền não là Bồ-đề, không thức tỉnh được phiền não không thật nên
ta chỉ nếm được mùi vị của Bồ-đề gai, chớ không phải Bồ-đề thật.
Bao giờ
bằng Phật mới vừa lòng con. Tu học làm sao bằng Phật mới vừa lòng mình,
chớ không phải tu lên Thượng tọa, Đại đức hoặc Hòa thượng, có cái chùa đẹp
đẹp được rồi. Không phải. Phật tử lâu lâu đi nghe giảng, đọc kinh sách,
thấy vậy rồi hài lòng cũng không đúng. Nguyện tu học Đại thừa là bao giờ
bằng Phật mới thôi. Ước mơ của người con Phật chính là như vậy, không ước
mơ điều gì khác. Mà Phật là gì? Là giải thoát, là thanh tịnh, là an lạc.
Chúng ta làm sao giải thoát, an lạc, thanh tịnh tức là bằng Phật. Thấy như
tu dễ, nhưng mà thật là trần ai, tu hoài không xong.
Vì vậy
trong bài sám mười điều nguyện, chúng ta phải phát lời nguyện như vầy:
Chín thề chẳng dám mỏi
mòn, Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.
Dù hiện tại
gặp bất cứ trở lực nào cũng nguyện không mỏi mòn, không lui sụt, dắt dìu
muôn loại đều tròn Pháp thân. Pháp thân cũng là Phật. Nghĩa là dìu dắt
hướng dẫn mọi người một cách đúng với tinh thần Phật pháp, để muôn loài
đều sống được với Pháp thân thanh tịnh, sáng suốt, trùm khắp của mình.
Phật sự như vậy mới đúng theo tinh thần Phật dạy.
Điều nguyện thứ mười:
Mười đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng
vui.
Mười điều
nguyện này, đọc lên chúng ta thấy cảm xúc lạ thường, đồng thời cũng tự hổ
thẹn nữa. Mình tu không biết bao lâu, mong ước thì nhiều lắm nhưng không
đúng với tinh thần Phật dạy cho mấy, nên kết quả không được bao nhiêu.
Điều nguyện thứ mười nói đem tất cả công huân, tức tất cả công đức lành
mình tu được, hồi hướng hết cho chúng sanh đều được thấm nhuần, đều được
lợi lạc. Không muốn chúng sanh sống trái lại với tinh thần Phật dạy, chỉ
muốn tất cả đều được thấm nhuần Phật pháp, phát huy tinh thần đó để cùng
nhau chung hưởng an lạc giải thoát. Chúng tôi muốn nêu lên những điểm này,
để tất cả chúng ta ý thức và bắt đầu xây dựng lại cuộc sống đạo vững chắc
tốt đẹp hơn. Như tôi đã nói, hít thở Phật, đi đứng Phật, ngồi nằm Phật,
không có việc gì khác chen vô. Chúng ta đem tinh thần ấy trang trải đến
mọi loài, làm sao cho tất cả đều được huân tập, đều phát triển đến thành
tựu viên mãn.
Một điểm
không thể thiếu nữa của người tu là đức cần cù nhẫn nại. Cần cù là gì? Là
bền chí. Chúng ta có bền chí chưa? Nghiệm cho cùng, dường như ta có chí mà
chưa bền lắm. Vì vậy lâu lâu nghe ai nói tu cách nào hay hơn thì ta liền
bỏ con đường mình đang đi. Như vậy đối với chánh lý Phật pháp, chúng ta
chưa có gan, chưa nhẫn nại thực hành tới nơi tới chốn, nên thấy cái gì hay
hoặc người ta nói điều chi lạ mình dễ tin, dễ chạy theo.
Người tu
không thể thiếu bền chí, có bền chí mới vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Dù
phải trải dài kiếp số bao lâu, dứt khoát chúng ta cũng giữ vững con đường
tu như thế, gan dạ vậy đó mới có kết quả như ý. Đủ ba đức như trên đã
trình bày thì không có khó khăn nào chúng ta không thực hiện được. Chư
Phật, Bồ-tát cũng từ các đức này mà trải qua kiếp số nhiều vô lượng, thành
tựu được đạo giác ngộ giải thoát viên mãn.
Tôi nhớ một
câu chuyện xảy ra giữa hai thầy trò Thánh đệ tử của đức Phật như thế này.
Hôm đó trên đường đi, người đệ tử theo sau chân vị thầy đã chứng A-la-hán,
ông suy nghĩ như vầy: Phật pháp cao cả quí báu, công đức sâu dày, là người
tu không thể dung dị bình thường mà có thể chứng đạt được những công đức
đó. Ông nhớ lại gương hạnh của chư vị Bồ-tát, trải dài nhiều kiếp số chẻ
xương làm bút, lấy máu tủy làm mực để ghi chép kinh, cúng dường ủng hộ,
làm những việc công đức không sờn lòng, đến ngày thành Phật cũng chưa bỏ
những công đức đó. Hôm nay mình xuất gia tu hành, không thể căn cứ vào một
vài công đức nho nhỏ, khổ hạnh sơ sơ mà có thể thành tựu được Phật quả.
Nghĩ vậy nên ông phát tâm hướng đến những công đức lành lớn lao. Liền khi
ấy, tâm ông rỗng rang sáng suốt, không còn hạn cuộc nào. Bấy giờ vị thầy
bảo “Ngươi hãy đưa gói hành lý cho ta và đi trước ta đi!” Nghĩa là vị thầy
cho đệ tử đi trước, còn mình quảy gói cho đệ tử.
Sau đó người
đệ tử lại nghĩ: “Đây là những việc làm có công đức lớn lao, hạng căn khí
Đại thừa bén nhạy mới có thể thực hiện viên mãn được. Mình là hạng tầm
thường làm sao bì nổi với các bậc kia, mong chi mơ ước thành Phật thành
Tổ? Chỉ làm sao được chút an ổn, đừng bị lầm, đừng bị ma quỷ dẫn dắt cũng
là hạnh phúc lắm rồi”. Vừa thoái tâm suy nghĩ như vậy, vị thầy liền đuổi
nói: “Ông đi ra sau quảy gói đi!” Hai ba lần như vậy.
Chú đệ tử
mới lấy làm lạ: Ủa! Sao hôm nay thầy mình hồi thì kêu mình đi đằng trước,
biểu đưa cái gói cho thầy quải. Hồi thầy đẩy mình ra sau, biểu mình phải
quảy gói cho thầy? Cuối cùng chú thưa:
- Sao hôm
nay giữa con với thầy, giữa thầy với con lại có những sự việc như thế?
Vị thầy nói:
- Ta biết
trong lòng của ngươi có khi phát tâm Đại thừa, phát tâm Bồ-tát lớn lao. Có
khi ngươi lại thoái thất, sợ sệt yếu đuối, không đủ gan dạ tu tiến. Những
lúc ngươi phát tâm đại thừa quyết tiến theo con đường thành Phật thì ta
mời ngươi đi trước, ta tôn trọng công đức đó nên ta quảy gói cho ngươi, vì
ngươi đang phát tâm thành Phật mà. Ta để ngươi đi trước, ta đi sau làm thị
giả ngươi. Nhưng ngươi làm Phật không xong, vừa phát tâm lại nghĩ ngợi lui
sụt lùi, do đó ta đẩy ngươi ra sau làm thị giả cho ta.
Nghe thầy
giải thích như vậy, người đệ tử mới nhận được thì ra phát tâm Đại thừa cao
quý như vậy! Phát tâm tu hành cần phải gan dạ và quả quyết, nhất định ngay
trong đời này sáng được việc của mình, thành tựu Phật vị cao quí là điều
đáng tôn trọng nhất. Bấy giờ người đệ tử mới bạch với thầy:
- Từ đây về
sau, trải qua kiếp số vô lượng vô biên mãi mãi con phát tâm Bồ-đề, nguyện
tu hành thành Phật. Dù phải trải qua những cam go, gian khổ con nguyện
không sờn lòng. Nhất quyết nương vào uy lực Bát-nhã, tu là chỉ tu như thế,
thành là chỉ thành Phật, không mong cầu, không sợ sệt, không thoái lui như
thời gian đã qua nữa.
Người xưa
thường có những phương tiện hay để phấn phát kẻ học đạo dễ thành tựu.
Chúng ta bây giờ cũng có phương tiện, nhưng chưa thành công vì sự phấn
phát của chúng ta chỉ mang tính cách nhất thời, chưa quyết liệt. Nếu thành
công thì thành công ấy cũng tạm thời, chớ không phải thành công rốt ráo.
Bước chân của chúng ta còn nhiều trơn trợt, do không vững nên ta thường sa
hầm sụp hố. Đó là những điểm yếu của người tu trong thời nay.
Người con
Phật đặc biệt những người tu thiền, phải biết những điều này để cố gắng
khắc phục, làm sao trong từng bước đi, từng hơi thở, từng sinh hoạt, cuộc
sống của mình là Phật hết, không có gì trái lại với tánh giác. Đừng nên
làm việc gì, nghĩ điều gì, nói lời gì trái lại với tánh giác. Luôn luôn
phát huy, bảo dưỡng thật tốt tính giác của mình, đó là gốc của sự tu. Dù
được khen hay bị chê, thất bại hay thành công, chúng ta cũng không quan
tâm, việc duy nhất của mình chỉ là phát huy tính giác, sống và sống trọn
vẹn với tánh giác ấy, không có các việc khác. Như vậy chúng ta mới tu đúng
theo tinh thần Thiền tông của đạo Phật.
Khi nào
chúng ta sáng suốt, làm chủ được mình thì tất cả ngoại duyên bên ngoài ta
đều sử dụng đúng với tinh thần đạo lý. Trái lại tâm không sáng, chí không
vững, chúng ta sẽ bị những thứ ấy xoay chuyển và rồi mình lại ngược xuôi
theo chúng. Cả đời loay hoay lẩn quẩn, cuối cùng chuốc lấy khổ đau, làm gì
cũng vướng mắc hết. Đó là hiện thực mà người tu phải biết và phải sắp xếp
sao cho việc tu hành của mình tiến được.
Chúng ta
phải tu làm sao? Đây là một vấn đề. Phật tổ thường dạy muốn việc tu không
sai lạc, trước chúng ta cần phải nhận cho được tánh giác của mình. Mà tánh
giác là gì? Giác tức là biết, biết một cách sáng suốt. Nhận và sống được
với tánh giác là hoàn thành công phu tu. Đây là việc làm chính của người
tu chúng ta. Phát huy được tánh giác rồi, việc tu nhẹ nhàng lắm. Việc tu
nhẹ mà kết quả lại nhiều. Cho nên Lục Tổ bảo trước cần phải kiến tánh rồi
sau mới khởi tu.
Phật tâm
của mình, ai cũng có nhưng vì mãi chạy theo bên ngoài nên chúng ta quên
mất nó thôi. Như bây giờ nghe ai chửi mình, ta hãy khoan, đừng vì tiếng
chửi mà nổi giận. Hãy soi thủng, bình tĩnh nhận lại, sống lại với tánh
giác hay nghe của mình. Quí vị soi thủng, nhận lại, sống được với tánh
giác thì tiếng chửi kia sẽ không dẫn quí vị đi đâu hết. Chứ vừa nghe người
ta nói lời gì đó, chưa hẳn chửi mình nữa, ta liền nghĩ đủ cách để đối phó
thì dĩ nhiên tánh giác đã bị mờ đi rồi, phiền não sẽ lấp đầy trong tâm và
ta thọ nhận khổ đau, tức giận.
Cho nên
người muốn sống lại với tánh giác của mình thì không hành động như vậy.
Đối với tất cả các duyên lúc nào cũng bình tĩnh, sáng suốt, không lầm,
không chạy theo, không mắc mứu bởi các duyên bên ngoài. Bởi tánh giác
không hình tướng nên không thể chỉ ra cụ thể, song nếu chúng ta nghiệm cho
kỹ, ai cũng có sẵn hết. Do có tánh giác ta mới có thể nhận biết rõ ràng
mọi thứ mà không cần suy nghĩ gì cả. Cái nhận biết vô tư ấy mới đích thực
chân thật, không sai lầm. Thế nhưng chúng ta cam chịu mất mình, ít khi
sống được với cái chân thật này lắm. Đó là điểm khuyết dở cần phải chừa
bỏ.
Chúng ta đã
có tánh giác sẵn mà bảo tu là tu làm sao? Đây lại là một vấn đề nữa. Có
tánh giác nhưng mình bỏ quên nên cũng như không. Giống người có tài sản
lớn nhưng lỡ bỏ quên ở đâu rồi, bây giờ hiện tại không có nên cũng thành
kẻ nghèo thiếu. Nói tu là tu chỗ này, nghĩa là làm sao sống lại được với
tánh giác sẵn có của mình. Thành ra tuy có tánh giác sẵn mà phải tu. Tại
sao phải tu? Tu để nhận lại cái sẵn có ấy, đừng quên nó nữa. Nó với mình
không phải là hai nên khi nghe người ta chửi mình vẫn bình thường, được
mất buồn vui không còn quan tâm nữa, như vậy mới an lạc được. Bởi vì sống
được với tâm chân thật rồi thì bất động.
Như người
thế gian ưa thích âm nhạc, khi nghe tiếng nhạc tâm hồn đặt hết vào những
âm thanh ấy, quên cả thời gian, không gian. Có khi ngồi hằng giờ lắng nghe
như vậy vẫn không thấy mệt thấy chán. Cũng thế, người tu khi sống được với
tánh giác hoàn toàn trọn vẹn rồi thì cảnh duyên bên ngoài sẽ không can hệ
gì mình nữa. Hiện tại chúng ta còn bị can hệ nhiều, phải không? Cảnh nào
bên ngoài cũng làm mình vui buồn, phiền não, thoái tâm Bồ-đề, tại vì mình
chưa sống được với tánh giác. Bây giờ chúng ta sẵn sàng buông bỏ tất cả để
sống lại với tánh giác của mình. Tu như thế mới đúng với tinh thần của
người tu nhất.
Nếu chịu khó
nghiệm kỹ lại, chúng ta sẽ thấy mình sống rất vô lý. Tại sao vô lý? Những
thứ hư giả không thật, càng chạy theo càng mắc mứu, càng tạo nghiệp càng
chuốc quả khổ, vậy mà chúng ta vẫn cứ chạy theo nó. Từ sáng sớm mở con mắt
ra cho đến tối nhắm mắt lại ngủ, không lúc nào mình có được phút giây dừng
lại. Chúng ta cứ lăn xả vào nghiệp lực, hăng say trong cuộc diện ấy, như
thế mà nguyện Phật cho con được an lạc thì làm sao an lạc được? Phật nào
có thể cứu giúp người thích bơi lội trong sự si mê vô lý. Nói vô lý vì
mình đã có cái chân thật mà không chịu nhận, cứ lao đầu vào cái điên đảo
hư giả rồi than khổ và cầu Phật cứu khổ. Cứ chấp nhận kéo dài cuộc sống lê
thê trong sự vô lý đó. Càng vô lý càng điên đảo, càng điên đảo càng thêm
vô lý, cho nên lăn lộn trong vòng luân hồi không dừng. Có một nhà thơ đã
diễn đạt ý này thật khéo: “Lang thang từ độ luân hồi, vô minh nẻo trước
xa khơi dặm về”.
Thử hỏi tại
sao chúng ta lại lang thang như thế? Tại vì mình chưa sáng, vì còn mê hay
vì vô minh. Vô minh là gì? Vô là không, minh là sáng. Vô minh là không
sáng. Chúng ta không chịu sống với cái sáng suốt của mình, mà lại sống với
cái vô minh. Vì vậy nên tạo nghiệp chuốc lấy quả khổ trong ba cõi, mới nói
Vô minh nẻo trước xa khơi dặm về. Bởi vô minh ở niệm trước đó đã
tạo cái nhân mờ tối, khiến cho nẻo về quê xa tít. Đã tạo nhân vô minh thì
sẽ bị quả vô minh dẫn đi. Phật là an lạc giải thoát thanh tĩnh, chúng ta
không sống lại với tánh giác ấy mà gây tạo nhân lăng xăng phiền não tăm
tối, làm sao thành Phật thành Tổ được? Chỉ có đừng vô minh là hết lang
thang trong tam giới, là chấm dứt khổ đau. Giản dị vậy thôi.
Khi nhận ra
được tánh giác rồi, chúng ta sẽ thấy cuộc luân hồi lang thang hiện nay là
một sự mê muội phi lý. Tự ta gầy dựng cái phi lý ấy cho mình và càng phi
lý mãi khi ta không biết dừng. Như vậy quí vị có nhận ra cách tu chưa? Chỉ
tỉnh sáng là được. Ví dụ như muốn ra đường thì mình phải sáng mắt, thấy
bước ra ngoài nên đi theo ngã nào để đến chỗ mình muốn đến, không đi lầm
đường lạc lối. Đó là chỗ người tu phải nhận ra. Thấy mình phi lý rồi thì
đừng gây tạo, đừng sinh hoạt gì trong cái phi lý đó nữa. Mà phải vùng dậy,
phải có sức mạnh, phải tin tưởng vào sức mạnh của mình, mạnh dạn đứng lên
làm công việc của mình.
Chúng ta nên
tâm nguyện điều này: “Mau dừng lại, hãy dừng lại! Tự đảm đang việc của
mình, đừng đợi ai, ỷ lại vào đâu, nương tựa cái gì khác mà tự mình phải
nương tựa chính mình, tự mình làm cồn đảo cho mình, tự mình hãy sáng lên,
đừng nhảy vào cuộc phi lý nữa. Tự mình sống lại với tánh giác của mình”.
Tại sao chúng ta phải tâm niệm như vậy? Bởi vì vô minh rất nguy hiểm, nó
là mấu chốt của vấn đề luân hồi sinh tử. Nếu chúng ta không dừng lại,
không mạnh dạn tiến lên, thì sẽ bị nó dẫn đi trong sanh tử mãi. Hiểu và
hành được như vậy mới đúng với chân tinh thần của người tu Phật.
Chúng ta là
đệ tử của Phật, chớ không phải đệ tử của ma, nên quyết không để vô minh
lôi kéo. Con Phật thì phải có trí tuệ sáng suốt, không được mất bình tĩnh,
không được mất mình, đầy đủ tư lương trên đạo lộ về quê nhà. Nhiều vị sợ
chỉ ngồi tu, không lo toan cho cuộc sống thì không có cơm ăn, không có cái
này cái kia làm sao tu được? Không phải như vậy. Những thứ ấy cũng giúp
cho chúng ta, nhưng chỉ là phương tiện, là phần phụ thôi. Người tu còn có
cái cao quí hơn nữa, đó là trí tuệ sáng , là công phu thiền định, là sự
nghiệp giác ngộ giải thoát. Chúng ta không thể nào tu lơ mơ qua ngày, mà
trong từng phút giây phải có sự dứt khoát. Mỗi khắc một thời gian đều quí
báu để chúng ta thực sự trở về, sống lại với cái chân thật của mình. Làm
sao phát huy và bảo quản được tính giác, tất cả mọi công đức đều phát sinh
từ đó.
Tóm lại,
người tu phải tự tin tâm mình, phải là người can đảm phi thường, cần cù
liên tục, chưa thành Phật thì chưa nói chuyện rồi. Đừng nghĩ một đời này
hay hai ba đời gì, người tu không nói kiếp số. Bao giờ quí vị phát tâm như
vậy sẽ thấy cuộc đời tu hành của mình phấn khởi lạ thường, vì không có gì
cản trở mình được hết. Dù chúng ta gặp những chướng ngại nhưng đã chuẩn bị
cho mình một tinh thần như vậy, chắc chắn sẽ vượt qua dễ dàng.
Mục đích rốt
ráo của chúng ta là tu hành giác ngộ để được an vui vĩnh viễn, chấm dứt
phiền não khổ đau. Đó cũng chính là mùa xuân bất diệt không có thời gian
và không gian giới hạn. Ở đó đất tâm luôn trổ những đóa hoa ngát hương
thơm của trí tuệ và từ bi. Cho nên để có một mùa xuân miên viễn, xin mời
tất cả hãy phá tan cánh cửa nhân ngã thị phi, cầm kiếm trí tuệ xông thẳng
vào đất tâm thênh thang. |