[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]


Khóa Thứ Nhất 
Nhân Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 7

Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật

 

A. Mở Đề

Xưa nay, những bậc có công ơn lớn đối với Quốc gia, xă hội đều được tôn sùng, nhưỡng mộ. Sự tôn sùng ngưỡng mộ này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là ḷng tri ân và sự mong muốn được noi theo gương sáng. Tục ngữ có câu: "Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, uống nước phải nhớ người đào giếng". Ḷng tri ân là một đức tính quí báu, mà những người có chút công bằng không thể thiếu được. Một xă hội gồm những phần tử phi ân bội nghĩa,ăn cháo đá bát, không có thể tồn tại được lâu dài, v́ nó làm chán nản những kẻ có ḷng, và làm khô cạn nguồn hy sinh. Vả lại, nếu con người thấy điều tốt, người hiền mà chẳng hâm mộ, thấy điều xấu, người ác mà không tránh xa, th́ con người ấy là người thiếu căn bản đạo đức,
thiếu mầm thiện, khó có thể tiến bộ. V́ những lư do trên, ta thấy trên thế giới, bất luận ở phương trời nào, dân tộc nào, thời đại nào, hễ kẻ có công với làng xóm, th́ được làng xóm tôn thờ, kẻ có công với quốc gia, dân tộc, th́ được quốc gia, dân tộc tôn thờ, kẻ có công đức với nhân loại, th́ được nhân loại sùng thượng.

Sự thờ cúng trong các tôn giáo cũng không ra ngoài những lư do đă kể trên. Nhưng ở các tôn giáo, sự thờ cúng có tính cách thường trực và thiết tha hơn, v́ các vị Giáo chủ là những bậc có công ơn lớn đối với nhân loại và là những gương sáng mà tín
đồ cần đặt luôn luôn ở trước mắt để soi sáng đời ḿnh. Trong các vị Giáo chủ, th́ Đức Phật là Vị được nhiều tín đồ sùng mộ nhất. Sự sùng mộ ở đây biểu hiện trong sự thờ, lạy và cúng Phật.

B. Chánh Đề

I.- Thờ Phật

1) Phật là bậc đáng tôn thờ. Phật là những bậc đă dày công tu luyện phước đức và trí tuệ, cho nên đă được hoàn toàn sáng suốt và có đầy đủ đức hạnh cao quư. Các Ngài đă dùng đức và trí ấy để dẫn dắt chúng sanh ra ngoài biển khổ luân hồi, và đua đến địa vị sáng suốt an vui. Trong công việc độ sanh ấy, các Ngài lại không bao giờ thối chuyển ngă ḷng mặc dù gặp trở lực khó khăn. Các Ngái đă nguyện độ cho toàn thể chúng sanh, cho đến khi nào không c̣n một chúng sanh nào để độ nữa mới thôi. thật là đúng với câu: "Tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn". Một bậc có đủ ba đức tính quư báu là Bi, Trí, Dũng, ba đức tính căn bản mà một con người muốn được toàn thiện, toàn mỹ, toàn chân, không thể thiếu được. Một bậc siêu phàm xuất chúng, có những lời dạy quư báu, những cử chỉ cao thượng, những hành động sáng suốt, một đời sống gương mẫu như Phật, mà chúng ta không tôn thờ, th́ c̣n tôn thờ ai nữa?

2) Nhưng chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng ư nghĩa. Như trên đă nói, chúng ta thờ Phật là để tỏ ḷng tri ân của chúng ta đối với một Vị đă có ân đức lớn với nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để có luôn luôn ở trước mặt một gương mẫu sáng suốt trọn lành để khuôn rập tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta được chân, thiện, mỹ như Phật vậy. Người ta thường nói: "Gần mực th́ đen, gần đèn th́ sáng". Chúng ta thờ Phật là muốn luôn luôn được có bên ḿnh ngọn đèn trí tuệ của Ngài, cái hương từ bi của Ngài, để được sáng lây, thơm lây, chứ không phải chúng ta có mục đích cầu cạnh Ngài để Ngài ban phước, trừ họa, để Ngài che chở cho chúng ta mua may bán đắt một cách bất lương, hay để chúng ta dựa vào thế lực của Ngài, tha hồ làm những điều bất chính. Nếu chúng ta thờ Ngài với mục đích sai lạc như vừa nói ở trên, th́ không những chúng ta đă phỉ bán Đức Phật, mà chúng ta c̣n tự tạo tư tưởng không tốt cho chúng ta nữa.

3) Phải thờ Đức Phật nào? Đức Phật nào cũng có nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ bao la cùng khắp và công đức tu hành phước trí vô lượng vô biên cả; nên hễ thờ một Đức Phật là thờ tất cả các Đức Phật. Nhưng chúng ta cũng nên tuỳ theo thời kỳ giáo hóa của mỗi Đức Phật và pháp môn tu hành mà thờ cho xứng lư, hợp cơ. Thí dụ như hiện nay, chúng ta ở vào thời kỳ giáo hóa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, th́ lẽ cố nhiên, chúng ta phải thờ Ngài trước hết. Nếu tín đồ nào tu về "Tịnh Độ Tông", chuyên về pháp môn "Tŕ danh niệm Phật" để cầu văng sanh, th́ tín đồ ấy phải thờ Đức Phật A-Di-Đà. Hoặc giả, nếu Phật tử muốn thờ tất cả Phật trong ba đời, th́ nên thờ Đức Phật Thích Ca, Đức A-Di-Đà, và Đức Di-Lặc, gọi là thờ "Tam Thế Phật".

4) Cách thức thờ Phật. Như vậy trong nhà tín đồ, nếu muốn thờ tượng Phật, th́ nhiều nhất là ba Vị. Và nên nhớ rằng, trong khi thờ Tam Thế Phật, phải sắp đặc chung một bàn. Nếu tượng lồng kiếng th́ nên treo ngay thẳng, không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, cái bé; c̣n như tượng gỗ, tượng đồng tượng sành, th́ để ngang hàng đồng bực, không nên để tùng trên, cấp dưới. Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở phía dưới hoặc sau đúng câu: "Tiền Phật hậu Linh, hay Thượng Phật hạ Linh". Nếu nhà lầu th́ thờ Phật ở tầng trên. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác, ngoài b́nh bông, lư hương,, chân đèn và dĩa quả. Những vật này mỗi ngày đều chăm sóc lau quét sạch sẽ luôn. Lần đầu tiên thỉnh Tượng Phật, tín đồ phải làm lễ thượng tượng, cũng gọi là lễ an vị Phật. Lễ này không bắt buộc phải tổ chức linh đ́nh, chỉ nên làm một cách đơn giản, nhưng không kém vẻ trang nghiêm và tinh khiết. Muốn được hai đặc diểm ấy, chủ nhà phải dọn ḿnh sạch sẽ: ăn chay, giữ giới và mời thêm thiện hữu trí thức đến hộ niệm một thời kinh. Và bắt đầu từ ngày làm lễ an vị Phật trở đi, tất cả mọi người trong nhà, mỗi ngày ra vô trông thấy tượng Phật, nên nghĩ nhớ đến đức hạnh cao cả của Ngài mà chỉnh đốn lại thân tâm ḿnh. Mỗi ngày đều lo cải thiện lại sự cư xử với nhau, đối nội cũng như đối ngoại, phải luôn luôn thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái và b́nh đẳng. Như thế mới xứng đánh với danh nghĩa của một gia đ́nh có thờ Phật. Thờ phụng lâu năm, tượng Phật bi hư rách, không thể sơn phết hay sửa chữa lại được, th́ nên thay đổi tượng mới. Khi có tượng mới rồi th́ tượng cũ phải dâng vào chùa chờ dịp nhập tháp, chớ không nên bạ đâu bỏ đó, mà mang tội.

II.- Lạy Phật

1) Ư nghĩa lạy Phật.- Ngày xưa, khi Đức Phật c̣n tại thế, các đệ tử từ vua quan , đến dân chúng, mỗi lần được may mắn gặp Đức Phật Thích Ca, đều cuối xuống ôm chân Phật và đặt trán ḿnh klên chân Ngài để tỏ ḷng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng: Bi, trí siêu phàm. Cử chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu thuận và hoàn toàn tin cậy đối với Đức Phật. Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như c̣n tại thế, và cái cử chỉ cuối xuống ôm chân Phật vẫn c̣n tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy chỉ có cái công dụng làm cho tínn đồ bao giờ cũng h́nh dung như Đức Phật c̣n ngồi trước mặt ḿnh để chứng giám cho tấm ḷng thành kính thiết tha của ḿnh.

2) Phải lạy Phật như thế nào mới đúng ư nghĩa.- Để cho đúng với ư nghĩa trên, khi lạy Phật phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cuối lưng xuống đặt trán ḿnh trên hai ḷng bàn tay. Trước khi lạy Phật, phải dọn ḿnh cho sạch sẽ: rửa mặt, súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng. Xong xuôi, mới đốt hương ra trước bàn Phật, đứng ngay thẳng, tay chắp để trước ngực, mắt nh́n tượng Phật, tâm tưởng đến các tướng tốt và những đức hạnh cao cả của Ngài, và tỏ bày nguyện vọng chân chánh của ḿnh, xá rồi cắm hương vào lư, đánh tiêng chuông và lạy Phật ba lạy. Lễ Phật như thế mới đúng pháp; trong kinh gọi là "thân tâm cung kính lễ" , nghĩa là thân tâm hăng hái tề chỉng, nghiêm trang, tâm th́ hớn hở vui mừng và hết ḷng thành kính như gặp được Phật c̣n tại thế. Trái lại, chúng ta lễ Phật với ḷng ngă mạng (ngă mạng lễ), hay với tâm cầu danh (cầu danh lễ), th́ đă không có kết qủa ǵ, mà c̣n mang thêm tội.

Ngă mạng lễ, là khi lạy Phật mà trong tâm c̣n ngạo nghễ, kiêu căng, năm vóc (đầu, hai tay, hai chân) không sát đất, đứng lên cuối xuống một cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện. Cầu danh lễ, là khi thấy có đông người th́ miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, có ư để cho mọi người khen ngợi. Trái lại khi không có người th́ thân lại biếng nhác, tâm lại giải đăi, không muốn lễ bái ǵ cả. Hai cách lễ ái trên đây rất giả dối, vậy những ai muốn tiến trên đường Đạo, th́ phải nên tránh ngay.

3) Bốn phép lạy (thuộc về lư).- Về phương diện lư th́ có bốn phép lễ.

a) Phát trí thanh tịnh lễ.- Trong phép này, người hành lễ phải thấu suốt rằng cảnh giới của Chư Phật đều tùy tâm hiện bày, nên lạy một Đức Phật, tức là lạy tất cả Chư Phật, lạy một lạy, tức là lạy tất cả Pháp giới, v́ Pháp thân của Phật dung thông.

b) Biến nhập pháp giới lễ.- Trong pháp này, người hành lễ phải tự quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ hồi nào đến giờ đều không rời pháp giới.

c) Chánh quán lễ.- Trong pháp này, người hành lễ lạy Đức Phật ngay nơi tự tâm của ḿnh, chứ không duyên với Đức Phật nào khác, v́ tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh viên măn, b́nh đẳng và chân giác.

d) Thật tướng b́nh đẳng lễ.- Trong pháp lễ này, người hành lễ không thấy có tự, có tha; người và ḿnh là một, phàm và Thánh nhứt như, thế và dụng không hai. Do đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồtát có nói: "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch", nghĩa là người
lạy, và đấng ḿnh lạy, thể tánh đều vẳng lặng. Như thế mới thấu đáo và hợp lư Bát Nhă.

Bốn phép lễ này, lư cao khó nghĩ bàn, nếu chẳng phải bực thượng căn, thượng trí, th́ không thấu nổi và khó làm theo được.

III.- Cúng Phật : Là nói tắt, nói cho đủ nghĩa là cúng dường Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường có nghjĩa là cung cầp và nuôi dưỡng.

1.- Ư nghĩa về cúng Phật.- Có người sẽ hỏi: Tại sao Đức Phật đă là bất sanh, bất diệt mà lại c̣n phải cúng dường? Thật ra, Đức Phật đă thoát ra ngoài ṿng sanh tử, th́ đâu c̣n hạn cuộc trong sự ăn uống. Nhưng đây chỉ là một h́nh thức để ngụ ư
rằng, mặc dầu Phật đă nhập diệt lâu rồi, nhưng đối với chúng ta, bao giờ cũng xem như Ngài c̣n tại thế. Xưa, các đệ tử, các đàn na thí chủ đă cúng dường Ngài như thế nào, nay chúng ta vẫn tiếp tục cái cử chỉ ấy. Sự cúng dường này làm cho chúng ta
gần với Phật, có cảm tưởng như bao giờ cũng ở bên cạnh Phật. Cũng nhơn sự thờ phụng, lễ bái cúng dường này mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, h́nh dung rơ rệt cuộc đời của Ngài để quyết noi theo bước chân của Ngài.

2.- Phải cúng Phật với những ǵ? (Về sự) .- Vẫn biếât rằng chúng ta nên cúng dường Phật để h́nh dung như Ngài c̣n tại thế, nhưng nếu chúng ta, mỗi khi cúng Phật, lại bày biện đủ thức ăn uống, nào yến tiệc cỗ bàn linh đ́nh th́ thật là phí của, phí công mà lại c̣n làm sai lạc ư nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng Phật đúng ư nghĩa th́ chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong và đôi khi thêm cơm trắng là đủ.

3.- Năm món diệu hương để cúng Phật. Đoạn trên là nói về Sự, về h́nh tướng bên ngoài để cúng Phật. C̣n về phương diện Lư, th́ phải dùng năm món diệu hương để cúng Phật như sau:

a) Giới hương.- Pháp thân của Phật rất thanh tịnh, nếu về mặt Sự, chúng ta đă dùng hương trầm đốt cúng, th́ về mặt Lư, chúng ta cũng phải tŕ giới cho trang nghiêm thanh tịnh, để cúng dường được đủ cả về Sự và Lư.

b) Định hương.- Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và thường loạn động trong mọi hoàn cảnh. Nếu để buông trôi măi trong t́nh trạng ấy, th́ chúng ta chẳng tu hành ǵ được. Vậy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, hằng sát na chúng ta phải cố
gắng tập định tĩnh tâm hồn, đừng để cho những ư nghĩ, hành động xấu xa xâm chiếm tâm hồn và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm cho tâm tư lắng xuống, như thế là dùng Định hương cúng Phật.

c) Huệ hương.- Huệ hương cúng Phật là lúc nào cũng phải lưu tâm vào ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Văn huệ là lắng nghe lời giáo hóa quư báu của Chư Phật và Thánh Hiền Tăng, Tư huệ là đem những lời quư báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết tâm thực hành những điều ḿnh cho là phải, trừ bỏ những điều ḿnh cho là trái, thực hiên đ1ung đắng giáo lư
sáng suốt của Đức Phật.

d) Giải thoát hương.- Giải thoát hương cúng Phật là quyết tâm phá trừ ngă chấp, nguồn gốc của bao sự đau khổ luân hồi. Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngă, không nhận chiếc thân tứ đại này là ḿnh, cũng không nh́n cái nghiệp thức phân biệt là ḿnh, để được thoát ly ra ngoài ṿng sanh tử luân hồi.

e) Giải thoát tri kiến hương.- Chúng ta đă biết quán vô ngă, để phá trừ ngă chấp th́ được giải thoát, song vẫn c̣n "Pháp chấp" ràng buộc, nên chưa đến được cảnh giới tự tại, vô ngại như Phật. C̣n Pháp chấp nghĩa là c̣n thấy các pháp như : đất, nước,
gió, lửa là có thật; c̣n thấy vui buồn sướng khổ là có thật. Khi nào chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có thật là v́ chúng ta c̣n ở trong nghiệp người, chớ đối với các loài khác, như cá chẳng hạn, th́ nước đâu phải là nước như chúng ta
quan niệm, mà chính là lâu đài, nhà cửa; đối với loài mọt, th́ gỗ đâu phải như chúng ta quan niệm, mà là những thức ăn và nhà ở. Cho đến vui, buồn, sướng, khổ đều là đối đăi với nhau mà sanh ra. Vậy th́ Pháp cũng như Ngă, đều là giả dối, không có thật, mà chỉ là những danh từ suông mà thôi. Luôn luôn, quán như thế, để được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế gọi là "Giải thoát tri kiến hương" cúng Phật.

4.- Cúng dường Pháp bảo: Pháp bảo là các Pháp của Phật đă giảng dạy, để cho chúng sanh y theo đó mà tu hành. Muốn cúng dường Pháp bảo, trước hết chúng ta phải học Kinh, Luật, Luận va nghiên cứu giáo lư để nhận định thế nào là Pháp bảo,
là chánh giáo. Nếu chúng ta có học thực rộng th́ phải nghĩ đến việc phiên dịch các Kinh điển Ngoại ngữ ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam Tạng Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác những
vấn đề có liên quan đến Phật pháp. Nếu chúng ta có tài chánh th́ nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ thông Pháp bảo. Những việc làm như trên đều là cúng đường Pháp bảo cả.

5.- Cúng dường Tăng bảo: Nếu chúng ta đă thành tâm thờ cúng Phật, th́ tất nhiên chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đă thay Phật mà truyền giáo lư của Ngài lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại làm ngơ không biết đến? Chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, chùa nào hay phái nào. Vị Tăng nào có đủ giới đức chúng ta cũng sẵn sàng cung phụng cả, như thế gọi là cúng dường Tăng bảo.

C.- Kết Luận:

1.- Lợi ích của sự thơ lạy và cúng Phật. Như các đoạn trên đă nói, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do ḷng tri ân sâu xa của chúng ta đối với bậc đă hy sinh tất cả hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng sanh; Lư do thứ hai của sự thờ lạy và cúng, ấy là để cho chúng ta luôn luôn có trước mắt, trên đầu chúng ta, một cái gương mẫu hoàn toàn chân, thiện, mỹ để noi theo. Sự thờ lạy và cúng Phật, nếu thực hành một cách thành tâm, thiện chí và đúng ư nghĩa, th́ sẽ đem lại cho người rất nhiều lợi ích trong hiện tại và vị lai:

a) Trong hiện tại: mỗi chúng ta và gia đ́nh chúng ta, bao giờ cũng như sống trong bầu không khí xán lạn, trong ảnh hưởng tốt lành, đạo vị của Chư Phật. Chúng ta luôn luôn sống trong nghiêm chỉnh, trong lễ nghi, trên thuẫn dưới ḥa, v́ mỗi ư nghĩ, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của Đức Phật soi xuống. Chúng ta không dám sống bừa băi, làm xằng, nghĩ quấy khi Đức Phật đang ngự trị trong gia đ́nh và trong ḷng mỗi chúng ta. Chỉ những tâm hồn trống rổng, không tin tưởng, không tôn thờ một vị thiêng liêng cao cả nào, mới dễ sa ngă, trụy lạc. Cho nên trong gia đ́nh, nếu muốn có hạnh phúc trong hiện tại, muốn sống một đời sống có ư nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc, th́ người gia chủ nên thiết bàn Phật, để ngày ngày lễ bái và cúng dường Ngài và tập cho con em sống một đời sống hiền lương và có đạo vị.

b) Khi lâm chung: Nghiệp lành mà chúng ta đă huân tập trong hằng ngày sẽ cảm ứng đến ḷng từ bi vô hạn của Chư Phật và Bồ tát. Do "Luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", Chư Phật và Bồtát s sẽ phóng quang đến tiếp dẫn giác linh chúng ta về cơi Tịnh độ an vui, tự tại.

2.- Khuyên phát tâm chánh tín trong sự thờ, lạy và cúng Phật, Pháp, Tăng. Muốn có được kết qủa tốt đẹp như trên, chúng ta phải phát tâm chánh tín. Nếu thờ, lạy và cúng dường Ram bảo một cách sai lạc th́ không những không ích lợi ǵ cho ta mà lại c̣n mang thêm tội, và trôi lăn măi trong cảnh sanh tử luân hồi. Chúng ta phải tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng:

a) Đức Phật là bậc hoàn toàn gíac ngộ, siêu sanh, thoát tử, có năng lực độ thoát chúng sanh khỏi nẻo luân hồi, và xứng đáng làm thầy chúng sanh trong ba cơi. V́ thế nên chúng ta thờ Ngài.

b) Phật pháp là phương thuốc thần diệu, trừ được tất cả nguyên nhân đau khổ của chúng sanh; v́ thế cho nên chúng ta thờ Phật pháp.

c) Chư Tăng, nếu có đủ giới hạnh thanh tịnh, là những Thầy sáng, bạn lành của chúng ta. V́ thế, chúng ta kính thờ, thân cận các Ngài để học hỏi đường lối tu hành.

d) Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nếu chí tâm tu tập theo Phật pháp, th́ chắc chắn sẽ thành Phật.

e) Lư nhân qủa không hề sai chạy, nếu tâo nhân lành th́ hưởng qủa tốt. Trong các nhân lành, không có nhân lành nào thù thắng hơn là nhân "Thờ Phật, lạy Phật, và cúng dường Tam Bảo", đủ cả sự và lư. Vẫn biết thờ, lạy và cúng phật đủ cả hai
phương diện sự và lư là khó, nhưng chung quanh chúng ta, ở trong thế giới này sẵn có vô lượng vô biên kim cương Bồtát và Hộ pháp thần vương, đồng phát tâm giúp đỡ, hộ niệm cho tất cả những người phát tâm chánh tínm thờ cúng Phật, th́ lo ǵ công
của chúng ta không tṛn, qủa của chúng ta không măn?

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]