PHỔ MÔN GIẢNG LỤC

Biên soạn và giảng giải:Pháp Sư Bảo Tịnh

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM

PHỔ MÔN GIẢNG LỤC DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH (tt)

Thời thứ nhất, thứ nhì và thứ tư, ba câu đã rõ ràng sự việc. Chỉ còn nghiên cứu câu thứ ba là Ðẩu cốc tam thăng mễ là ý muốn nói nghĩa gì đây? Thầy trò nhà huyện ta nghiền ngẫm mãi mất thì giờ rất nhiều mới hiểu được rằng: "À các thầy ạ! Phải thêm một chữ nữa trên đầu câu mới cắt nghĩa được là:

            Nhất đẩu cốc tam thăng mễ".

Nghĩa là:

            Một đấu lúa ba thăng gạo.

Nghĩa ẩn một đấu là mười thăng, trừ ba còn bảy tức là được ba thăng gạo và bảy thăng trấu. Bảy trấu là chữ Thất và chữ Khang. Thất là Bảy, Khang là Trấu. Quan huyện mới bảo quả quyết rằng: Hung phạm nếu chẳng phải tên Khang Thất thời là tên Thất Khang nhất định tên này rồi. Rồi liền phái nha lại đi mật thám. Quả thật có người tên Khang Thất. Thế là tên ấy tức tốc bị bắt và tống giam. Khi ra thẩm vấn y nhìn nhận lúc hành động như sau: "Tôi có gian díu với bà bán gạo từ trước. Ðến đêm đó, tôi lén vào nhà tình nhân nấp chờ đến đêm khuya, định giết ông bán gạo. Bởi trong lúc tối tăm tôi mò gặp cái đầu có dầu tôi tưởng là đầu đàn bà, liền bỏ đi lại chỗ khác giết đầu không dầu. Không ngờ đã giết lầm". Rồi sau đó tên Khang Thất bị ra tòa nhận lãnh tội trạng. Ðương nhiên ông buôn gạo được phóng thích ngay.

Quan huyện và cả nha lại nhân vụ này mới biết thêm sự cảm ứng và linh nghiệm của Bồ Tát Quán Thế Âm và càng tin Phật Pháp hơn nữa. Ông buôn gạo cũng nhân tai nạn khủng khiếp này mà cảm giác nỗi thống khổ của kiếp nhân sanh, nên cũng phát tâm mạnh kẽ xuất gia tu Ðạo cầu mong có ngày trọn thành Ðạo quả. Nhà buôn gạo được sự cảm ứng giải trừ tai nạn khủng khiếp có một không hai của một đời người này, là nhờ bình nhật ông ta hay nhất tâm xưng danh, đến khi cấp nạn xảy tại thân, thời Quán Thế Âm trong tự tánh chúng sanh hiện ra cứu chúng sanh trong tâm Quán Thế Âm tức thì được giải thoát. Nếu hằng ngày chẳng thường niệm tụng gì hết, đến khi đại nạn lâm đầu, tâm trí kinh hãi bối rối, tinh thần mờ ám tức khó nổi khởi lên xưng niệm Phật, Bồ Tát. Cho nên thường ngày chúng ta niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát phải quan trọng và cấp bách như trạng thái lúc ta sắp chết, hay giống như khi gặp tai nạn nước, lửa la kêu người ta đến cứu cấp cho mình vậy mới có hiệu quả. Mỗi khi niệm phải như thế này: Sáu căn đều thu nhiếp, nhất tâm yên lặng, tâm niệm khẩu xưng, khẩu xưng cho rõ ràng, tai nghe cho chính xác thông suốt, ý nghĩ nhớ từng chữ từng câu cho rành rẽ phân minh. Ðược vậy tức là tâm khẩu tương ưng. Ðấy là bí quyết cần thiết cho những người trì danh niệm Phật, niệm Bồ Tát vậy. Trái lại thời tâm ý của ta nó như con khỉ, con ngựa chuyền chạy lung tung khó mà đến được chỗ lợi ích lớn lao vậy.

Nhất tâm trì danh, có sự nhất tâm và lý nhất tâm. Trước khi ta nghe giảng kinh trở về trước là ta chưa lãnh hội chơn nghĩa Phật pháp, chỉ là đơn xưng danh hiệu, cứ thẳng tiến mà niệm đi. Niệm đến khi nào nhất tâm bất loạn gọi là sự nhất tâm. Khi niệm được rõ biết tâm là tâm năng niệm. Quán Âm là danh hiệu sở niệm. Ly khai tâm năng niệm, riêng biệt không có danh sở niệm; ngược lại ly khai danh sở niệm, riêng biệt không có tâm năng niệm. Năng sở chẳng hai, dung hội nhất như gọi là lý nhất tâm. Nhân vì Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông quảng đại, oai đức tuyệt vời. Với chúng ta chỉ có đem thân tâm quy y nơi Ngài, bỏ niệm phân biệt tư lường, chân thành già dặn mà niệm đi. Niệm đến khi nào nhất tâm bất loạn, chỉ còn một Thánh hiệu mà thôi. Thậm chí xem mà chẳng thấy, ngóng mà chẳng nghe, đi chẳng biết mà đi, ngồi chẳng biết là ngồi. Không còn vọng tưởng, phân biệt. Chừng ấy mới gọi là nhất tâm xưng danh.

Hai chữ tức thời là nói chính lúc xưng danh, tức khi nhờ cảm ứng chứ chẳng phải trước đó một tí hay sau đó một lát. Giống như cái đài bá âm vô tuyến điện, tiếng nó một khi truyền là đây phát kia thu, bất cứ xa gần, không có hoặc trước hoặc sau, cảm ứng đồng thời, nên gọi là tức thời.

Những người tay chân bị trói buộc, chẳng được tự do là chẳng được giải thoát. Một khi mở trói trả lại tự do như xưa, gọi là người giải thoát. Bị khổ não ràng buộc giống như bị quấn trói. Thứ quấn trói này là bởi tự mọi người làm lấy, như mùa Xuân con tằm tự làm kén, mùa Thu con nga tự nhào lửa. Hai loại này nguy hiểm đến chết thân mà chẳng hề giác ngộ. Chúng ta có thể nhất tâm xưng danh chẳng khởi tưởng quấy niệm xằng. Vong năng sở, quên thân tâm, thời phiền não tự tiêu diệt, tức là được giải thoát mọi sự thống khổ.

Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ Tát này vậy.

Ðoạn này là đáp ứng riêng cứu bảy nạn. Bảy nạn là nước, lửa, hắc phong, dao gậy, La Sát, gông cùm, oán giặc hết thảy bảy thứ. Thế gian tai nạn lắm nhiều nhưng không ngoài bảy thứ này. Nếu gặp phải bảy thứ tai nạn này, hay niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, tức thì được giải thoát. Ðấy là cơ cảm động của khẩu nghiệp. Ðể cầu nam nữ nên cung kính lễ bái là cơ cảm động của thân nghiệp. Xuống dưới nữa mới nói trừ ba độc là cơ cảm động của ý nghiệp.

Trước tiên giảng nạn lửa thứ nhất. Chánh báo chúng ta là thân thể, y báo là nhà cửa vật kiện... Nếu chẳng để tâm một chút gì thì thường bị nó đốt cháy. Nên nói: Lửa chừng một đốm khả dĩ đốt khắp xóm làng. Lửa có: Lửa quỷ, lửa La Sát, lửa sấm sét và lửa cây gỗ... Khi nào gặp các nạn lửa này, chỉ nên nhất tâm xưng danh, tức được giải cứu. Kẻ có căn lành, khi lâm nạn thời có thể chẳng mê loạn. Mà người nghiệp nặng khi gặp nạn vì phiền não nên tâm mờ ý loạn, chẳng chịu xưng niệm bèn khó tránh khỏi hỏa tai.

Trì là thọ trì, tức niệm vậy. Trì niệm có sự trì và lý trì, bất luận hiểu lý hay chẳng hiểu, chỉ cần biết Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thật hay cứu khổ và chánh tín đến Ngài mà chẳng nên nghi. Chẳng quản 21 ngày, cứ chánh trực mà niệm đi, già dặn mà trì niệm liền được cảm ứng. Ðấy gọi là sự trì. Nếu khi trì niệm, có thể hiểu biết danh Quán Thế Âm Thánh hiệu là sở niệm, tâm ta là tâm năng niệm. Biết tâm năng niệm của ta tức Danh sở niệm. Lìa tâm, riêng không có danh sở niệm, cũng như lìa danh không có tâm năng niệm. Cho nên niệm Quán Thế Âm tức niệm tự tánh. Ngoài Sở không Năng, ngoài Năng không Sở, duy là nhất tâm. Ðấy gọi là lý trì. Sự chẳng rời lý, lý nhờ sự hiểu. Bất luận là sự trì hay lý trì. Tóm lại là cần phải già dặn mà trì niệm mới có thể cảm ứng đạo giao được. Nếu ai có thể già dặn nhất tâm trì niệm dù cho vào trong lửa dữ chịu các nạn lửa thời lửa chẳng hay đốt cháy. Chẳng bị lửa làm hại là toàn nhờ sức oai đức thần thông của Quán Thế Âm vậy. Bởi vì Ðức Quán Thế Âm đã nhiều kiếp tu trì, cho nên có 32 ứng thân, 14 món vô úy. Có oai nên khiếp sợ, có đức nên tôn kính. Nếu gặp phải những chúng sanh cương cường khó giáo hóa, bèn dùng lối dương oai để khiến nó khiếp sợ. Ðấy là chiết phục pháp môn, nên tỏ oai lực. Nếu là chúng sanh chân thành thủ phận, bèn đem đức đến cảm hóa và gia hộ cho nó. Ðấy là nhiếp thọ pháp môn, nên tỏ từ bi. Quán Thế Âm đã có đủ oai và đức. Lại còn có vô lượng diệu lực thần thông biến hóa nữa, cho nên mới có thể khiến những người trì danh được khỏi hỏa nạn. Ví như nghìn sông có nước nghìn sông trăng. Hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông. Từ xưa đến nay đã được nhờ sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm rất nhiều.

Như trong thời đại nhà Dao Tần, có Ngài Pháp Trí Hòa thượng. Một hôm có việc cần Ngài phải đi xa. Khi đi qua giữa đường truông hoang vắng mênh mang có nhiều lùm cây lau lách, lắm cỏ rậm rạp, lại là nhằm mùa nắng khô. Lúc đó vừa có người đốt cỏ, lửa cháy mạnh. Chẳng may lại gặp trận cuồng phong dữ dội, lửa càng cháy lan khắp nơi. Pháp Trí không còn nơi nào tránh né được nữa. Ngài liền ngồi xuống, xếp bằng lại và chí thành khẩn thiết cung kính nhất tâm xưng niệm: Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Giây lát lửa cháy đến gần sát bên Ngài. Thì Ngài cảm giác nơi thân phát ra nóng, nhân đấy nên Ngài ngất xỉu, giây lâu mới tỉnh dậy. Ngài xem thấy những lùm cây lau lách cách khỏi Ngài chừng ngoài ba thước đều bị cháy rụi hóa thành tro bụi, mà trong ba thước thời chưa hề cháy tới. Nhờ đấy Ngài khỏi được nạn chết thui. Ðấy chính là nhờ oai đức thần thông đại lực của Quán Thế Âm Bồ Tát mới khiến được vậy. Nếu chẳng biết xưng niệm danh hiệu thì nhất định bị chết thui rồi.

Khi niệm cốt yếu là phải nhất tâm. Ngoài vong cả thế giới lục trần, trong vong cả sanh mạng, thân thể. Năng Sở đều vong, thời Quán Âm trong tự tâm tự nhiên hiển hiện liền được cứu nạn. Kinh Lăng Nghiêm nói: Xoay tri kiến trở lại, dù cho vào trong lửa dữ, lửa chẳng thể đốt được. Nhãn căn thuộc về tâm, tâm thuộc hỏa. Nhân có quả trong tự tâm, cho nên mới cảm chịu lửa quả báo ở bên ngoài. Nay đã nhất tâm xưng niệm Quán Âm thu thập lửa trong tự tâm lại, khiến nó tắt đi, thời lửa quả báo ở bên ngoài tự nhiên chẳng sanh được. Lửa có ba thứ:

1.- Một là lửa quả báo. Thông suốt đến cõi trời Sơ Thiền. Y báo chánh báo của người đời hiện nay đều bị lửa đốt, tức bởi lửa quả báo của nghiệp báo đời trước cảm đến. Và như đến thời hạn đại tam tai phát khởi: Ðại kiếp lần thứ nhất là hỏa tai. Cho nên nói: Kiếp hỏa cháy suốt trời đất đều tiêu hoại. Thiên địa nhật nguyệt, thế giới sơn hà không còn một món gì chẳng bị cháy rụi. Thời kỳ sơ kiếp hỏa, là thái dương biến thành bảy, tức bảy mặt trời. Một thái dương mà nhiệt độ còn hại dữ dội như thế huống là bảy cái đồng thời xuất hiện, cứ suy nghĩ thì biết. Khi đó chốn đại địa này đều biến thành bãi lửa. Lục dục chư thiên cũng đều bị cháy, cháy đến cõi trời Sơ thiền mới tắt. Trời Sơ thiền tại sao cũng bị cháy? Nhân vì người cõi trời này còn có tâm giác quán, tâm này thuộc về hỏa nên vẫn bị cháy.

2.- Hai là lửa ác nghiệp. Thông cả ba cõi đều có. Kinh nói: Ba cõi không an in như nhà lửa. Cho nên trên từ thiên đường, dưới đến địa ngục đều bị lửa tam giới hữu lậu ác nghiệp đốt cháy sạch. Có thế mà chẳng thấy, vì chẳng qua chúng ta còn mê muội đó thôi. Một ngày từ mai đến chiều đều ở trong bãi lửa hữu lậu nghiệp mà lo sanh hoạt. Kinh gọi lửa ngũ trược, lửa bát khổ. Ngũ trược là mạng trược, kiếp trược, kiến trược, chúng sanh trược và phiền não trược đều là lửa ác nghiệp.

3.- Ba là lửa phiền não. Thông suốt cả chín pháp giới đều có. Lửa vô minh là lửa sân. Lửa sân nó phực một chút có thể đốt cháy sạch rừng công đức. Sân tâm chính là lửa phiền não. Lửa sân một khi phát, với huệ mạng có tổn hại ngay. Tham sắc dục là lửa dục. Lửa dữ sắc dục nó phát khởi như người chạm phải điện chắc chắn là cháy thân. Tóm lại mà giảng: Phàm phu có lửa kiến tư phiền não, La Hán có lửa trần sa phiền não, Bồ Tát có lửa vô minh phiền não.

Phật tánh chơn không hỏa tánh. Hỏa tánh chơn không thanh tịnh, bản nhiên khắp cả pháp giới. Thứ lửa này chẳng những chẳng tổn hại người mà lại còn có thể đem làm Phật sự độ chúng sanh nữa là khác. Hiện nay giảng xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm chẳng những diệt lửa quả báo mà còn năng trừ lửa ác nghiệp và lửa phiền não nữa, tức là nhờ sức oai thần của Bồ Tát vậy.

Ngày trước có người tên Trúc Trường Thư. Một hôm nhà láng giềng phát hỏa, nhà ông ở dưới gió, cực kỳ nguy hiểm, ông không còn cách nào hơn để cứu nguy cho gia tài. Ông liền nhất tâm xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Nhà láng giềng bốn phía đều bị cháy, duy nhà ông tồn tại y nguyên. Mọi người cho là lạ lùng. Lúc ấy có vài thiếu niên hoang nghịch, chúng cố ý khi ban đêm đến đốt nhà ông lần nữa, nhưng vẫn không cháy được. Ðấy chính là chơn thật niệm Quán Âm mà có cảm ứng đạo giao. Lại có họ Vương, người xứ Côn Sơn, ông một lòng muốn đi đến chiêm bái núi Phổ Ðà, với mục đích là lễ báo Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Trước khi đi, ông thọ chay trường ba năm. Mãn kỳ nguyện ông mới khởi hành. Thuyền ông sắp mở neo, bỗng nhiên nhà láng giềng phát hỏa. Người nhà chạy theo gấp báo cho ông hay. Ông khiến người nhà trở về và bảo nó rằng: Ta đã ăn chay trường ba năm. Nay ta nhất tâm đi Nam Hải cho được để chiêm ngưỡng và chiêm bái Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát cho mãn nguyện. Còn nhà cửa, nếu chẳng may bị cháy mặc cho nó đi thôi, ta chẳng cần trở lại. Rồi ông một lòng xưng danh. Sau khi ông đi hành hương xong trở về, thấy nhà bốn phía láng giềng đều bị cháy cả mà nhà ông khỏi bị gì hết. Cho biết rằng niệm Quán Âm có cảm ứng bất khả tư nghì vậy. Niệm Quán Âm chẳng những khỏi được những lửa quả báo, lửa ác nghiệp và lửa phiền não, mà lại niệm đến chơn đế nhất tâm bất loạn, năng dứt lửa kiến tư phiền não, chứng tự tánh chơn không Quán Thế Âm, được ra khỏi nhà lửa đồng cư tam giới nữa vậy. Niệm đến tục đế nhất tâm bất loạn, năng dứt được lửa trần sa phiền não chứng được diệu hữu Quán Thế Âm, được ra khỏi nhà lửa phương tiện tam giới vậy. Niệm đến Trung đạo lý nhất tâm bất loạn, năng dứt được lửa căn bổn vô minh phiền não, thấy Trung đạo Quán Thế Âm, được ra khỏi nhà lửa thật báo tam giới là bèn thành Phật quả trọn vẹn vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát liền đặng chỗ cạn.

Ðây là cứu khổ thủy nạn thứ hai. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị nước lớn làm ngập, hoặc sông hồ tràn nhẩy, ao hào đắm chìm trăm họ, vật kiện đều bị trôi mất. Hoặc giả qua biển, rủi rơi xuống nước trôi nổi. Nhiều thứ thủy tai ác nạn. Chính lúc nguy hiểm ấy xưng danh hiệu Quán Âm liền được đến chỗ cạn. Nước trôi là ác nghiệp, xưng danh hiệu là thiện nghiệp, vì hai thiện ác nghiệp này mà nhất tâm xưng danh, giải thoát là cảm liền được chỗ cạn, gặp hung hóa kiết, chẳng bị chết chìm là ứng. Nước là thứ gì? Nhĩ căn thông với thận, thận thuộc thủy. Có nước trong tự tâm nên mới cảm thủy tai bên ngoài. Khi bị thủy nạn, xưng niệm Quán Âm, đem nhĩ căn nghe trở lại để hàng phục nước nơi tâm, thời thủy nạn ngoài tâm cũng trừ được khỏi xong. Kinh Lăng Nghiêm nói: Xoay nghe trở lại, khiến các chúng sanh nước lớn làm trôi, nước chẳng hay làm chìm được. Tức là nghĩa này vậy. Như vậy thời biết nước phiền não, nước ác nghiệp cũng không còn gốc rễ chỗ nào đâu mà bám vào đứng vững được nữa. Nhưng mà khi niệm cần phải nhất tâm cung kính. Nếu chẳng nhất tâm cung kính chí thành khẩn thiết e rằng khó được linh ứng. Cho nên đã có câu nữa rằng:

            Miệng niệm Quán Âm tâm tán loạn,

            Hả mồm cựa cổ vậy luống công.

Xưa có người con nhà họ Lưu. Chàng thành tâm tin tưởng Ðức Quán Thế Âm. Anh phát tâm đi triều bái núi Phổ Ðà. Thuyền anh đi đến giữa dòng Liên hoa dương hải. Anh tự thấy có ba đóa hoa sen vượt lên khỏi mặt nước biển, lớn bằng bánh xe. Một đóa có Thiện Tài đứng trên, một đóa có Long Nữ đứng trên, mà riêng một đóa sen lớn đặc biệt thời Ðức Quán Thế Âm ngự tọa thanh tịnh phi thường, trang nghiêm diệu tướng, thịnh đức tôn nghiêm. Nhân đấy chàng họ Lưu nhất tâm phát hiện liền cung kính lễ bái Ðức Quán Âm. Tức thì một trận cuồng phong bỗng nhiên nổi lên dữ dội, thuyền bị úp chìm. Mọi người trong thuyền đều bị chết chìm cả. Duy có anh chàng họ Lưu cảm giác được trước mắt anh mơ màng in tuồng có một người cõng đem anh chạy đi, đi đến một chỗ nào đó liền thả anh xuống. Khi anh mở mắt thấy vẫn là trước cửa nhà mình. Núi Phổ Ðà cách xa nhà anh có đến hơn hai ngàn dặm đường. Mà nay chỉ trong tức khắc liền đến. Khi mẫu thân anh mở cửa, anh chạy vào nhà và thuật việc mới xảy ra cho mẹ anh nghe. Hai mẹ con rất đỗi vui mừng, nhờ sức oai thần của Bồ Tát gia hộ nên mới được tái sanh một lần này nữa.

Lại có một gia đình đang lo việc song hỷ cưới rước cô dâu. Trong nhà ngoài cửa rộn ràng đông đảo, kẻ ra người vào náo nhiệt phi thường. Thủy tai bỗng nhiên bộc phát, nước lớn tràn mạnh đến, bao nhiêu thân hữu gia đình đều bị cuốn trôi đi hết. Tức toàn thôn xóm cũng đều bị chìm ngập. Tang điền tức khắc biến thành thương hải. Người chết kể cả ngàn vạn. Mà duy còn cô dâụ ngồi bình yên trên một chiếc ghế chẳng chìm chẳng úp, xuôi giòng trôi đi. Phúc nàng may mắn gặp người cứu sống. Họ nhà chồng cho là quái lạ, hỏi nàng vì sao chẳng bị chết chìm? Nàng thưa: Nhà má tôi tín ngưỡng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi tôi thấy nước tràn đến, tôi ngồi yên trên ghế, nhắm hai mắt, nhất tâm xưng danh hiệu Bồ Tát, cho nên nhờ Ngài cứu sống.

Cho biết Phật pháp là bất khả tư nghì chứ chẳng phải mê tín đâu đấy. Dưới đôi mắt nhìn sơ ai cũng nhận thấy thế giới ngày nay là thời đại thế loạn nhân phi. Chính là ngũ trược ác thế tai nạn diễn ra thường xuyên. Hơn nữa, sự rắc rối của chúng sanh đang ở trong hậm hực thù hiềm chẳng biết nó bộc phát ngày nào thời chốn đại địa này không còn vài thước đất yên ổn để cho cái thân dưới hai thước này núp cho sống sót, đừng mong gì hơn! Duy còn một phương pháp độc nhất là chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, mà thôi. Trên đời, sở dĩ có sự tác loạn, tuy do một vài cá nhân làm đầu sỏ, nhưng kỳ thật cũng là cộng nghiệp chúng ta chiêu cảm. Mấy năm gần đây các nơi đều bị thủy tai, mà độc nhất là Nam Thông này khỏi bị. Ðây cũng là nguyên nhân nhờ nhân tâm xứ này hướng thiện nhiều lắm vậy. Quả báo thủy tai chẳng những nhân gian mà đến thời kỳ đệ nhị đại thủy tai kiếp, chốn đại địa này cũng không chỗ nào chẳng phải là biển nước. Lục dục, sơ thiền đều là nước và nước, cho đến ngập nhẩy suốt đến trời nhị thiền. Vì người ở trời nhị thiền còn có tâm hoan hỷ, tâm này nhất động tức thời làm nhân cho thủy tai hoành hành.

Ác nghiệp thủy thông suốt ba cõi: Cõi Dục khổ khổ, cõi Sắc hoại khổ và Cõi Vô Sắc hành khổ. Cho nên gọi là bể khổ mênh mang. Phiền não thủy thông suốt cả chín pháp giới. Tham dục cũng là nước. Cho nên nói rằng: Sóng khổ hải ái hà, cao vút ngàn trượng. Thế nhân mê muội trọn ngày suốt tháng trồi lặn nơi bể khổ mênh mang này. Nếu ai sực tỉnh hồi đầu nhất tâm xưng danh niệm hiệu thì gọi là hồi đầu tức thị bỉ ngạn là nghĩa liền đến bờ bên kia. Phiền não thủy thông suốt chín cõi. Cho nên chúng sanh chín cõi đều ở trong bể phiền não. Duy có Phật thấy thủy hỏa này là chơn thủy, chơn hỏa, thứ nào cũng trong sạch mát mẽ, bản nhiên châu biến pháp giới đều là Như Lai Tạng tánh, không một món nào chẳng phải là diệu pháp. Giống như một cậu mù, con trai của phú ông trưởng giả giàu có: Nào là vàng bạc ngọc báu, nào là của cải thật vật đầy nhà, nào là bàn ghế bằng gỗ quí, kê để nghênh ngang. Vì mù, mỗi khi đi chạy đụng đầu u trán, vấp chân sưng giò. Chàng ta tức giận oán ghét những thứ ấy, là đồ chướng ngại vật, vì làm trở ngại cho việc chạy đi. Cũng như chúng sanh mê muội bản tánh, thời bị nước lửa làm tai hại mà sanh phiền não. Nếu như quả báo nó trả lại nhãn quang cho cậu mù, thời những thứ nguyên bửu đầy nhà chật đất này cậu tha hồ thọ dụng. Thì cũng như tâm chúng ta nhờ trì niệm Quán Âm mà được quang minh rực rỡ, cho nên những lửa, những nước không thứ nào chẳng phải là Diệu pháp. Rồi nhân đấy mà đem giáo hóa chúng sanh, làm các Phật sự vậy.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền kia trôi tấp nơi nước quỷ La Sát, trong đó nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thời các người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỷ La Sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

Ðây là nạn thứ ba hắc phong La Sát quỷ. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì muốn cầu tìm các thứ ngọc nơi biển. Trong chánh văn kê có bảy thứ: Kim là cống kim, ngân là bạch ngân, lưu ly là ngọc sắc xanh, xa cừ là ngọc sắc trắng, mã não là ngọc sắc hồng, ngọc san hô hình giống nhánh cây, ngọc hổ phách là giống cây tòng hương sống lâu ngàn năm biến thành, ngọc trân châu là thứ bảo châu từng hột từng hột nhỏ nhỏ.

Hắc phong là quái phong. La Sát quỷ thường ở những hòn đảo bìa biển, nó chuyên bắt những người ở gần bìa biển ăn thịt. Thứ quỷ này miệng đỏ như chậu máu, mắt như cái đồng linh, tay như cái chỉa ba bằng sắt, mắt xanh, răng nhọn. Rất nên kinh sợ. Quỷ này mỗi khi đi khoái trá lắm, lại có tên Tốc Tật quỷ là quỷ đi nhanh. Các người tìm ngọc kia nếu chẳng may gặp gió hắc phong thổi tới đem thuyền trôi xa vào trong nước quỷ La Sát thời tánh mạng những người ấy khó mà bảo tồn được. Nhưng nếu trong bọn có một người vì tánh mạng cả đại chúng sắp nguy khốn, nhân đấy mà phát tâm niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm thời cả một bọn người đều nhờ đấy đồng thời thoát được đại nạn.

Tại sao được thế? Bởi vì một người niệm Quán Âm, đám người kia đều nghe đến, trong tâm bọn họ đều có danh hiệu Ðức Quán Thế Âm, cho nên vô hình trung đều được lợi ích thoát nạn. Cho nên nếu chúng ta cùng trên xe lửa, trên ghe thuyền, chẳng sợ khó vì tính tự ái, nhất tâm niệm Quán Thế Âm, khiến những người đồng thuyền đồng xe đều được trồng giống căn lành. Rồi không chóng thì chầy có thể khỏi đại nạn, được lợi ích vô cùng.

Thuở xưa, có một khách thương đi lấy ngọc. Bỗng gặp phải cơn hắc phong thổi đến dữ dội, thuyền bị trôi bay vào trong hải phận nước quỷ La Sát, Trong bọn có một người liền xưng niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm, tiếp theo cả bọn đều xưng niệm. Lúc ấy quỷ La Sát chẳng thấy người nào cả. Tội nghiệp thay trong bọn năm trăm người chỉ có một người chẳng tin Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Người ấy cho là đại nạn đã đến nơi mà còn niệm Quán Âm làm gì nữa. Cuối cùng người này bị quỷ bắt đem đi mất. Nhân vụ này, nên cần phải cấp bách nhất tâm niệm Quán Âm mới đồng thoát nạn. Cho nên mỗi khi gặp nạn chẳng nên có vọng tưởng tạp niệm nghĩa là chẳng nên nghĩ nói bậy bạ. Chẳng tin tai nạn chắc chắn sẽ đến thân.

Ngày xưa có Ngài hòa thượng ở trong chùa mỗi ngày tụng kinh Phổ môn một lần. Ban mai, một hôm, có quan Thừa tướng đến chùa lễ Phật. Lễ xong đứng tránh một bên nghe kinh. Hòa thượng tụng đến câu hắc phong thổi ghe trôi vào nước quỷ La Sát. Thừa tướng chận ngang đấy hỏi Ngài rằng: Câu này giải thích cách nào? Vì sao trôi vào trong nước quỷ La Sát? Hòa thượng phát nộ nói: "Chính khi ta tụng kinh tâm định, sao lại hỏi làm ta rối loạn, thật là đáng xung ghét". Cụ lớn cho là thầy tu dám cả gan coi thường khinh rẻ mình, tức thì nổi sân giận dữ, liền cho lệnh những kẻ tùy tòng bắt ngay ông hòa thượng dẫn đi về dinh. Rồi mắng nhiết đánh đập. Khi mà chúng đang hành hung thì Ngài bèn cả cười mà rằng: "Chính đây là bị hắc phong thổi ghe thuyền vào trong cõi nước của quỷ La Sát chứ gì?". Tiếp: "Nghĩa là Cụ lớn ngươi hiểu không nổi, nên bèn động vô minh hỏa tức là hắc phong. Cụ lớn ngươi động sát hại tâm tức là La Sát quỷ. Và chẳng may cho lão tăng này gặp phải gió dữ đen tối ấy nó thổi quá mạnh nên lão mới bị trôi bạt vào trong nước quỷ La Sát đây! Ta giải nghĩa như thế có dễ hiểu cho Cụ lớn không?". Thừa tướng hết mê mờ, tỉnh ngộ ngay. Nguyên lai là như thế đấy. Liền cho xe đưa Ngài về chùa.

Quỷ là ám hại. Dụ cho những người bất quang minh chính đại là quỷ vậy. Ai có tâm sát hại là quỷ La Sát. Ác niệm là hắc phong. Nếu quả thực là người quang minh chính đại là quỷ chẳng dám đến gần. Vô minh hắc phong có thể đem thuyền trí huệ cho trôi vào trong biển sanh tử khổ hải một cách dễ dàng. Ngày trước có Ngài Ðộng Sơn Hòa thượng là vị chủ chùa. Một hôm Ngài đi xuống nhà bếp xem thấy sư phạn đầu tức vị sư chuyên nấu ăn, đem cơm rau bỏ vào ghè nước mã hôi thối là phung phí của thiên vật. Ngài mới động khởi tâm niệm mà răng nhắc sư phạn đầu đôi lời. Khi đó vị thần Già lam bỗng xuất hiện nguyên hình sụp lạy Hòa thượng mà nói rằng: "Tôi lâu nay có lòng mến mộ đại danh, hôm nay mới được dịp yết kiến Ngài!". Thường tình người ta cho rằng được quỷ thần đến lễ bái là hiện tượng tốt, điềm lành, nhưng trường hợp này trái lại. Bởi vì một khi khởi tâm động niệm là bị quỷ dòm thấy, thời bao nhiêu công phu bị tan mất hết.

Do đó chúng ta tu tập đến khi nào nhất niệm bất sanh, thời chẳng những quỷ chẳng đến gần được mà thiên nhãn thấy cũng chẳng đến tức là quỷ vô thường nó chẳng do đâu đến bắt ta vậy. Ðược như thế tức liễu sanh tử và tương lai sẽ thành Phật xong. Ngươi xem đấy, Phật pháp cho mầu nhiệm như thế đó. Trăm ngàn vạn ức chúng sanh trong tâm đều có quỷ. Quỷ rình làm hại là hắc phong. Cho nên gặp phải hắc phong bèn trôi vào nước quỷ La Sát. Quỷ có ba thứ: Một là quỷ quả báo, cõi dục đều có. Hai là quỷ ác nghiệp, cả ba cõi đều có. Ba là quỷ phiền não, thông suốt cả chín cõi đều có. Nhất tâm xưng danh đều có thể giải thoát được tất cả quỷ nạn. Nhất tâm bất loạn, tâm thủy thanh tịnh thời Quán Thế Âm nơi tự tánh hiện tiền, duy thuần là đại quang minh tạng, nào đâu còn có ám tướng tồn tại trong đó được nữa ư?

Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thời dao gậy của người kia cầm liền gãy từng khúc mà đặng thoát khỏi.

Chữ Lại là lời thừa tiếp văn trên. Chúng sanh gây nghiệp có thiên sai vạn biệt, rồi bị tai nạn nghiệp báo nên cũng chẳng đồng. Nếu lại có người chính lúc đang bị phải đao binh gia hại, hoặc phạm quốc pháp phải bị tội đứt đầu, hoặc bị đánh đập. Hoặc ở trong chiến khu, hoặc bị giặc cướp cưỡng bức phải tai hại thương tích. Chính bởi đã trót gây ác nghiệp đời trước, nên nay phải bị người ta hại lại. Lúc đó là lúc mà tánh mạng đang bị nguy hiểm nhất đời. Bỗng nhiên sanh khởi niệm đầu mạnh mẽ, hồi tâm hướng thiện: Nhất tâm xưng niệm hồng danh Quán Thế Âm để cầu cứu độ. Ðương lâm bị hại là ác cơ, năng xưng danh hiệu là thiện cơ. Dùng thiện ác hai nghiệp là động cơ năng cảm.

Dao là bén nhọn. Gậy là gậy gộc. Chính khi tâm xưng danh, kẻ kia đang cầm dao gậy gia hại liền bẻ gẫy từng đoạn từng đoạn một, nên khỏi bị nó sát hại tức được giải thoát.

Thời nhà Tấn, ông Nam Cung Tử Ngao, bị đày đi đến tỉnh Vân Nam, vừa gặp lúc Trường Lạc Công làm loạn. Thành bị vây. Nam Cung biết mình chẳng còn tránh được, bèn nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm. Khi loạn quân đến chém Nam Cung mấy đao, lưỡi đao cong gẫy, chém chẳng được nữa. Sau lại Trường Lạc Công tự cầm đao đến chém. Nhưng chém cách nào, Nam Cung cũng chẳng bị tổn hại mảy lông gì cả. Trường Lạc Công lấy làm lạ và hỏi: Ngươi có bản lãnh gì mà được như thế? Nam Cung bèn thuật việc mình niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cho Lạc Công nghe, rồi ông được phóng thích. Nam Cung Tử Ngao được thoát chết, mà lại còn được tự do nữa là khác. Lại một vụ nữa: Có một người, trong búi tóc trên đầu thường bao để một tượng Ðức Quán Âm bằng vàng chừng cỡ bằng ngón tay. Về sau bị người ta vu khống là trộm cắp. Tội bị đến tử hình. Khi đem ông ra pháp trường để hành quyết. Ðến khi lâm sự họ chém ông ba đao liên tiếp, chẳng những da cổ chẳng trầy mà lại phát ra tiếng leng keng của chất vàng nữa. Quan pháp trường cho là điềm lạ, giải ông trở về nhà lao, mới xổ búi tóc ông ra thấy có tượng Quán Âm. Trên cổ của tượng có ba lằn đao rất rõ ràng.

Thuở trước có một phụ nhân từ nhỏ đến giờ rất tin Ðức Quán Âm. Chồng bà thường đi xa để buôn bán sanh nhai. Ông ta thường khi cùng bạn đồng sự hay tán mỹ người vợ trước mặt họ: Nào là nhà tôi có đức hạnh, nhà tôi rất giỏi mọi việc và nhất là nhà tôi nó thật trinh tiết với tôi. Nhân có một bạn đồng sự nghĩ muốn giỡn chọc anh chàng hay tán vợ này chơi. Một hôm anh ta lén về vào nhà bạn. Người vợ thấy kẻ khách trượng phu là bạn đồng sự với chồng mình, nên mới niềm nỡ ưu đãi rất lễ độ chớ chẳng dám coi thường. Ðang lúc bà ta lay hoay pha trà chế nước, cung tay vái mời thì một nốt ruồi trên cánh tay lộ ra vì áo tay rộng, tức thì bị ông khách quý lén nhìn thấy được. Thế là khách ta bọc lưng cái "Lén thấy" về, để sau này làm đề tài chọc tức chơi. Một hôm hai người gặp nhau như thường lệ. Anh chàng ngộ nghĩnh ấy nói: Bữa nọ tôi có đến nhà anh chơi anh thường khoe vợ anh trinh tiết. Nhưng tôi đã biết trên cánh tay chị có một nốt ruồi. Vậy thì vợ anh trinh tiết ở điểm nào? Cứ thế mà suy thì biết vợ anh là... Anh chồng hiểu lầm cho là sự thật. Tức thì anh nổi đỏ mày cay mắt giận dữ, tiếng trống tai thúc dục đùng đùng. Nên nửa đêm ngày đó vác dao về nhà định chém vợ. Khi anh về đến nhà kêu, có người nhà ra mở cửa, anh chém một đao vào người ấy, anh nhất định chắc nó bị chết rồi vì nhà chỉ có hai vợ chồng. Rồi anh liền bỏ chạy xa mất. Nhưng vẫn biết vợ mình vốn là người trinh lương, phen này bị người ta chơi gạt làm mờ trí khôn nên anh rất đỗi ăn năn hối trách. Ðang lúc âm thầm lóng nghe tin tức. Sau vài ngày, hung tin vẫn điềm nhiên. Anh mới mò về nhà. Về lúc ban đêm, nên anh thấy vợ vẫn ở trên Phật đường niệm Quán Âm. Rồi anh hỏi đêm đó có người nào ra mở cửa không? Vợ đáp: Ðêm ấy không ai ra mở cửa cả, chính lúc đó tôi đang ở trên Phật đường niệm Quán Âm. Anh chồng mới dám thuật lại đầu đuôi sự việc vừa xảy ra bởi mình và cho là rất quái lạ. Bèn thấy trên đầu vị tượng Quán Âm có một lằn dao rõ ràng mới biết là Ðức Quán Thế Âm đi mở cửa cứu nạn vậy. Từ đó trở đi, đôi vợ chồng lại cung kính lễ tụng Quán Thế Âm Bồ Tát gấp bội thường.

Phải biết ngoài bị dao gậy làm hại, bởi trong tâm có sát ý gây nên. Bởi vì dao gậy là sáu căn của tự mình vin lấy sáu trần mới gây nên ác nghiệp, rồi cảm hiện vậy. Nếu nhất tâm niệm Quán Âm, sáu căn đều thâu nhiếp. Pháp tức Tâm, Tâm tức Pháp. Tâm Pháp chẳng hai, như dao chém nước, như dao chém ánh sáng, đâu có cách đoạn được nào. Tâm với cảnh dung thông. Y báo với chánh báo chẳng hai, dao với gậy đâu có làm gì gia hại được. Ngày xưa Ðức Lục Tổ Ðại Sư, được Ðức Ngũ Tổ Hoàng mai truyền cho y bát, có kẻ đệ tử của Thần Tú Thượng Tọa, nhân Ðức Ngũ Tổ đem y bát truyền cho Ðức Lục Tổ, tâm ý bất bình. Rồi y dấu kín một con dao nhọn trong người mục đích mưu sát hại Lục Tổ. Lục Tổ được biết trước, liền an tọa trong thiền thất để chờ y đến. Quả thật, đêm đó có người cầm dao xông vào, chém luôn ba dao, như dao chém nước, chém ánh sáng, chẳng hề tổn hại mảy lông. Ðấy tức là soi thấy năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách. Cho nên ngoại tà chẳng thể xâm hại được. Dao có dao quả báo, thông cả các cõi trời địa cư. Dao ác nghiệp thông cả ba cõi. Dao phiền não thông cả chín cõi đều có. Dao phiền não ở tự tâm chút động là pháp thân huệ mạng bị hại ngay. Chúng sanh sáu cõi phàm có dao kiến tư phiền não. Thanh Văn, Duyên Giác có dao trần sa phiền não. Bồ Tát có dao vô minh phiền não. Duy có Phật mới rốt ráo tự giải thoát.

Nếu quỷ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thời các quỷ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.

Ðấy là nạn quỷ Dạ Xoa và La Sát thứ năm. Như trên vừa giảng nạn hắc phong La Sát, vì nạn hắc phong là nặng nề. Chính nay lại giảng nạn quỷ. Nói quỷ Dạ Xoa, La Sát đầy dẫy cõi tam thiên đại thiên thế giới là lấy nhiều so ít. Tam thiên đại thiên quốc độ thế giới là một cõi nước của một Ðức Phật giáo hóa, như thế giới Ta Bà của ta ở đây cũng là tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi một tòa núi Tu Di, bốn mặt đều có bốn đại bộ châu: Phía đông gọi là Ðông Thắng Thần châu, hoặc gọi Phất đề bà; phía nam chính là địa cầu chúng ta ở đây gọi Nam Thiệm Bộ châu, hoặc gọi Diêm phù đề; phía tây gọi là Tây Ngưu Hóa châu, hoặc gọi Cù da ni; phía bắc gọi Bắc Câu Lô châu, hoặc gọi Uất đơn việt. Lại có một mặt Nhật, một mặt Nguyệt đi vòng quanh trên lưng núi Tu Di nên mới có ngày đêm sáng tối. Bên ngoài núi Tu Di có biển Hương Thủy. Lại ngoài nữa có bảy lớp núi Kim Sơn. Mỗi khoảng giữa một núi Kim Sơn cách một đường biển Hương Thủy. Tòa núi Tu Di là do bốn món bửu bối làm thành. Trên lưng núi Tu Di có bốn cung trời Thiên vương. Trên đỉnh có cung trời Ðao Lợi. Ðều là những cung trời còn ở đất. Lên trên nữa là bốn cung trời: Dạ Ma, Ðẩu Xuất, Hóa Lạc và Tha Hóa. Như vậy một tòa núi Tu Di, một mặt Nhật, một mặt Nguyệt, bốn châu, sáu cung trời, cõi Dục là một tiểu thế giới. Một ngàn cái tiểu thế giới như vậy gọi là một tiểu thiên thế giới. Là được cung trời Sơ thiền ở cõi Sắc che trùm xuống. Lại nữa, một ngàn cái tiểu thiên thế giới, gọi là trung thiên thế giới. Là được cung trời Nhị thiền ở cõi Sắc che phủ xuống. Lại một ngàn cái trung thiên thế giới, bên trên có cung trời Tam thiền cũng vẫn ở cõi Sắc trùm phủ xuống, gọi là đại thiên thế giới. Vì có ba lần cái ngàn Tiểu, Trung, Ðại, cho nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới, tức là một cõi của một Ðức Phật giáo hóa vậy.

Quỷ Dạ Xoa năng bay đi. Có thứ đi trên mặt đất, thứ đi trên không khác nhau. Lại có tên quỷ Tật Thiệp. La Sát tên là Khả Quỷ. Ðức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: Nếu trong tam thiên đại thiên quốc độ, giả sử có quỷ Dạ Xoa cùng La Sát ở đầy dẫy, biến trọn thành một thế giới quỷ. Lực lượng của quỷ rất dữ tợn. Những thứ quỷ này khi muốn đến làm hại, phá rối người thời khó mà chống cự nó được. Chỉ cần nhất tâm xưng danh hiệu Ðức Quán Âm là quỷ ấy trọn chẳng dùng ác nhãn xem người, huống nữa là lại đến làm hại người ư? Tính của quỷ là ưa ở chỗ tối tăm mà chỗ sáng láng trọn không có quỷ quái gì hết. Trong tự tâm chúng ta có ác niệm khởi lên mê mờ vọng tưởng. Mưu kế của quỷ thì đa đoan, tối tăm chẳng sáng suốt. Cho nên mới có ác quỷ bên ngoài nó làm tai làm nạn. Nếu như trì danh được nhất tâm bất loạn, hết nghiệp chướng, trống mê tình, một niệm cũng chẳng sanh thời tâm quang sáng rực rỡ ở tự tánh tự nhiên hiển lộ sáng suốt tuyệt vời. Ðến bấy giờ chẳng những quỷ ở ngoài chẳng thể đến làm hại người được mà nó muốn thấy người bằng cách nào đi nữa vẫn chẳng thể thấy đến được.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM