KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
PHỔ MÔN PHẨM
PHỔ MÔN GIẢNG LỤC DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
(tt)
Như hiện nay
quý vị năng nhất tâm nghe giảng kinh, tức là khất sĩ cầu pháp. Trì giới tu
hành, tức là phá ba nghiệp ác. Tức là có thể làm cho Ma vương run sợ. Ðầy
đủ ba điều kiện này mới được xưng là Tỳ kheo. Ðâu phải chỉ những người
xuất gia mới tu như thế, như các ông bà Cư sĩ, nhất tâm nghe giảng kinh,
cầu pháp yếu của Phật, tức là khất sĩ. Trì giới không phạm, tức là phá ác.
Trì giới niệm Phật, tức ma phải sợ. Nên thân tuy tại gia, nhưng tâm thật
đã xuất gia, tức là tại gia Tỳ kheo vậy. Bất quá các thầy Tỳ kheo thọ trì
250 giới điều cụ túc nên mới hơn vậy thôi. Tỳ kheo ni. Chữ Ni tức chữ Nữ
tức là đàn bà. Ðại phàm người đàn bà xuất gia phải thọ trì 350 giới điều
cụ túc, gọi là Tỳ kheo ni. Ưu bà tắc là Ngũ giới nam, Ưu bà di là Ngũ giới
nữ. Tức là nam nữ cư sĩ thọ trì Ngũ giới. Lại còn có tên là Cận sự nam,
Cận sự nữ, nghĩa là những người này hay gần gũi kham chịu phụng sự ngôi
Tam Bảo vậy.
Ðức Quán Thế
Âm Bồ Tát tùy theo từng loại chúng sanh mà hiện thân: Hoặc hiện tướng Tỳ
kheo, hoặc hiện tướng Ni tăng mà giáo hóa cho bằng pháp thanh tu tịnh
hạnh. Hoặc thị hiện Ưu bà tắc, Ưu bà di trì ngũ giới mà giáo hóa cho bằng
phương pháp vẫn ở tại Ðời mà học được Ðạo. Nhưng Quán Âm vốn chẳng phải
bốn tướng Tăng, Ni, Tắc, Di gì cả. Nhưng vì phải giáo hóa chúng sanh nên
chẳng phòng ngại, tùy loại mà thị hiện. Ví như kịch viên nơi sân khấu, bất
luận hoặc nam hoặc nữ, đều có thể thoa son đánh phấn, rồi thượng lên sân
khấu, múa nhảy giỡn cợt đủ thứ. Ðến khi hạ màn vẫn không phải là gì cả. Bồ
Tát cũng như thế. Cho nên Kinh nói: "Chẳng động chân tế, diệu ứng không
phương, khắp hiện pháp giới, bản tánh vắng lặng".
Người đáng
dùng thân phụ nữ của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn đặng độ thoát,
liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói Pháp.
Quán Thế Âm Bồ
Tát hiện thân nữ nhân chỉ một đoạn này. Trước đã nói, sau sẽ nói đều là
hiện thân nam tử. Do đấy đủ biết Quán Thế Âm Bồ Tát vốn chẳng phải nữ
tướng, chẳng qua tùy theo từng loại mà thị hiện một phen vậy thôi. Hoặc
hiện bà phu nhân của ông Trưởng Giả, hoặc hiện người vợ của ông Cư sĩ,
hoặc hiện phu nhân của ông Tể Quan, hoặc thị hiện người vợ của ông Bà La
Môn. Hiện các thân phụ nữ quý tiện không nhất định. Tại Trung Quốc, Quán
Thế Âm Bồ Tát thị hiện thân nữ nhân có: Quán Âm xách giỏ cá, Quán Âm mặc
áo trắng, Quán Âm bồng con nít, hiện ra nhiều lắm lắm nhiều. Bởi vì chúng
sanh trong thế giới Ta Bà nặng tình ái dục. Nên gọi ái chẳng nặng chẳng
sanh Ta Bà. Dùng thân nữ nhân mà giáo hóa, rất dễ lãnh thọ được lợi ích
lớn lao, như trước đã nói sự tích Quán Âm xách giỏ cá, tức là dùng tướng
nữ nhân mà giáo hóa vậy. Các bà nữ cư sĩ đã được thâm tín Phật pháp rồi
đem thấm nhuần cho con cái, chồng, dòng họ, nội ngoại và bè bạn gần xa,
thu được hiệu lực lại càng vĩ đại biết bao. Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi
phương tiện chứ vốn chẳng phải thân phụ nữ, mà chẳng phòng ngại phương
tiện thị hiện thân phụ nữ để giáo hóa khuyến dắt chúng sanh được giải
thoát.
Người đáng
dùng thân Ðồng nam, Ðồng nữ đặng độ thoát, liền hiện thân Ðồng nam, Ðồng
nữ mà vì đó nói Pháp.
Thế gian cũng
có lắm nhiều nam nữ, với tình ái dục lợt lạt mỏng nhẹ, trọn đời ôm chủ
nghĩa độc thân. Trai tơ chẳng lấy vợ, gái lứa chẳng lấy chồng, hoan hỉ
thanh tịnh tu hành, đều là hạng người đời trước đã có trồng cội đức. Tập
tục ở tỉnh Quảng Ðông có một loại nữ tử cho việc lấy chồng nuôi con là khổ
sở, cho nên họ nguyện chẳng muốn lấy chồng, thủ trinh tiết trọn đời. Hạng
người này đều là khuê nữ, trinh bạch tiết tháo ở vậy trọn đời, gọi là Ðồng
nữ. Cũng tỉnh ấy có số nam tử, ưa thanh tịnh, ôm chủ nghĩa độc thân, gọi
là Ðồng nam. Quán Thế Âm Bồ Tát quán sát cơ duyên liền hiện thân Ðồng nam,
Ðồng nữ vì họ mà nói pháp. Như kinh Hoa Nghiêm có Thiện Tài Ðồng Tử, tức
thuộc đồng nam mà thành Phật đạo. Kinh Pháp Hoa có Long Nữ lên tám tuổi mà
thành Phật, tức là loại ấy. Từ trước đến đây là hiện thân Nhân đạo đã
xong.
Người đáng
dùng thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La,
Ma Hầu La Già, nhơn cùng phi nhơn đặng độ thoát, liền hiện ra mà vì đó nói
Pháp.
Bồ Tát giáo
hóa chúng sanh có tứ nhiếp pháp:
1.- Bố thí
nhiếp: Tức đem tài vật bố thí chúng sanh, thời chúng sanh mà được lãnh của
bố thí sanh tâm vui mừng bèn lãnh thọ giáo hóa dễ dàng. Ví như trẻ con,
dùng kẹo, quả, của, vật đem cấp cho chúng, rồi mới nhiếp thu chúng sau,
khi chúng vui mừng nhân đấy tùy cơ khai đạo, tức dễ tin vào. Cho nên đối
với tất cả chúng sanh đều nên tùy theo chỗ sở thích của họ mà khéo léo dẫn
dụ, khiền họ dần dần tìm về nơi Phật pháp.
2.- Ðồng sự
nhiếp: Như công với công, thương với thương, giáo viên với giáo viên...
đem tình quen biết đồng sự mà nhiếp thu khuyến hóa lẫn nhau là sanh lòng
tin dễ dàng.
3.- Ái ngữ
nhiếp: Nhiều người thích nghe những lời hay đẹp, ưa người ta khen ngợi
mình. Bởi vì trước phải đề cao cái hay cái đẹp của họ rồi sau đó mới thu
nhiếp và khuyến hóa họ.
4.- Lợi hành
nhiếp: Ta thường đem những việc lợi ích, khiến họ mang ơn huệ, nhiên hậu
họ mới chịu phục tùng. Như Trương Sắc Ông dựng lên một xưởng thợ mộc, đắp
một con đường tạo sự lợi ích lớn lao cho mọi người. Cho nên nói ra một
lời, tức được nhiều người tin nghe theo. Quán Thế Âm Bồ Tát đối với Trời,
Rồng tám bộ chúng, với dị loại quỷ thần, súc sanh cũng tùy theo từng loại
mà thị hiện, tức là Ðồng sự nhiếp. Trời là những người trời ở dưới cung
trời Tứ Thiên Vương. Rồng, có những Rồng trời, giữ cung điện cho Trời, có
Rồng biển, giữ cung điện cho Rồng biển, Rồng mưa bủa mây rưới mưa. Rồng
kho tàng giữ kho tàng châu báu. Chủng loại nhiều lắm. Phước báo rất lớn,
nhưng nghiệp chướng cũng nặng. Nhân vì đời trước nhiều giận dữ, cho nên bị
đọa làm thân Rồng. Loại chim Ðại bàng rất ưa ăn Rồng như ăn bánh bột, hai
cánh nó rẽ rạch được nước biển cả thấy sát đáy, bắt Rồng mà ăn. Rồng chúa
rất kinh sợ nó. Một hôm, nhân khi Ðức Phật đang ngồi bên bờ biển, Rồng
chúa đến xin cầu cứu. Ðức Phật cấp cho nó một tấm áo cà sa. Rồng chúa mừng
quá đem áo cà sa về phân phát cho mỗi đứa Rồng dân được một sợi chỉ bằng
tơ của chiếc áo cà sa. Từ đấy về sau khỏi bị nạn chim Ðại bàng bắt ăn thịt
nữa.
- Dạ Xoa, hình
thù rất dễ sợ, mỗi khi đi chạy rất nhanh và khoái. Càn Thát Bà, gọi là
Khứu Hương Thần. Vị Ngọc Hoàng Thượng Ðế ở cung trời Ðao Lợi thích nghe âm
nhạc, nên mỗi khi đốt hương lên tức Càn Thát Bà liền đến trổi nhạc, là
nhạc thần của trời Ðao Lợi. A Tu La, dịch là không đoan chính, tướng mạo
xấu xí. Mà con gái thì diện mạo dung nhan rất mỹ lệ. Theo thứ tự loại này
là dưới Nhân đạo. Nương ở trong những núi sâu bên bìa biển. Họ có Thiên
phước nhưng không có Thiên đức. Thường cùng trời Ðao Lợi đánh nhau. Ðế
Thích tuy là làm chúa, vẫn còn ưa gái đẹp vì chưa rời cõi Dục. Nên khi
thấy con gái của A Tu La vương tên là Xà Chỉ, diện mạo cực kỳ xinh đẹp
liền cưới về làm vợ.
Một hôm nọ, Ðế
Thích mời nhạc phụ A Tu La vương đến viếng Thiên cung cho biết. Khi nhạc
phụ trở về trần gian, Ðế Thích dàn thiên binh thiên tướng ra hai bên để
tiễn đưa cho tôn nghiêm cung kính. Tính chất A Tu La vương hay sinh nghi
kỵ. Nhân thấy thế cho là chàng rễ Ngọc Ðế này mời đến, dụng ý đem binh
tướng nhà trời ra để dương oai với mình nên ôm lòng bất mãn.
Lại một hôm
khác, Ngọc Ðế sửa soạn giáng hạ trần gian để nghe Tiên gia đạo sĩ giảng
kinh. Hoàng hậu là con gái A Tu La vương nghi ngờ là Ngài đã có yêu thầm
nàng nào nơi hạ giới chăng, nên mới đến ngai Ngọc Ðế tấu nài xin đi theo.
Ngọc Ðế đem sự thực bảo cho nàng biết. Nhưng nàng không tin, nhất định đòi
đi theo với dụng ý là để theo dõi chứ chẳng phải nghe kinh. Buộc lòng Ngọc
Ðế mới phán rằng: "Thể diện Trẫm xuống trần gian mà đem đàn bà con gái
theo lè kè một bên coi không tiện, tốt hơn Hoàng hậu nên ở nhà". Nghe nói
thế nàng lại càng thêm nghi ngờ hơn nữa. Nhờ nàng có pháp thuật thần diệu,
chờ khi Ngọc Hoàng ngự lên Long xa, nàng liền ẩn mình thót lên cùng theo
Ngài giáng hạ trần gian.
Ðã chờ sẵn,
khi Ngọc Ðế ngự xuống long xa, nàng cũng từ trên xuất hiện. Sau khi thiên
hạ đón rước tưng bừng nào là trống đánh, cờ bay, nhạc trổi, hoan hô, nào
là lệnh bắn, pháo nổ, hương trầm nghi ngút, hoa tung tưng bừng. Sau một
hồi náo nhiệt, Ðức Ngọc Ðế mới nghỉ ngơi, ngó sang chợt thấy bà Hoàng hậu
đứng thù lù một bên. Ngài hơi cau mày tức giận, sẵn trong tay nắm một bó
hoa sen dài cộng của đám rước vừa hiến dâng, Ngài giáng xuống đầu bà hoàng
hậu mấy cái và thốt: "Con yêu! Ngăn bảo ở nhà mà không nghe, đòi theo cho
được. Ðồ yêu báo đời". Bà Hoàng hậu vừa tức giận vừa thẹn, trợn mày, nổi
tam bành lên: "Thằng quỷ! Sao đánh trên mặt ta đau điếng". Và bà thét lên
om sòm. Thế là con yêu với thằng quỷ hai đàng đánh nhau mắng nhau inh ỏi
chẳng còn sự thể gì của Ngọc Hoàng nơi thượng giới cả. Bởi vì, khi mà sân
si đen tối nó nổi lên, là chiếm mất hai cõi lòng sáng suốt kia rồi, thời
còn đâu là phải quấy, thể diện gì nữa.
Nhân đấy cũng
nên ghi thêm một tội lỗi làm mất tinh khiết nữa, là tiếng tăm của bạn nữ
kiều, khi nào thốt ra cũng như tiếng chim oanh thỏ thẻ trên cành liễu mai.
Trong đám người danh dự đi đón rước Ngọc Ðế vẫn có mặt vị Tiên nhân là
người sẽ chủ trì việc giảng kinh cho Ngọc Ðế nghe. Khi từ trên long xa ngự
xuống, Tiên nhân cũng đã đứng sẵn đâu đó. Tiếp đến xảy ra việc không lành,
hai ông bà ấu đả mắng nhiếc lẫn nhau, thời giọng chim oanh thánh thót của
Hoàng hậu đã vô tình lọt thẳng vào tai Tiên nhân làm Ngài "Mất Ðạo" nghĩa
là dứt thần thông và quên hết kinh pháp. Bởi vì tiếng sân si tức giận vì
ghen tuông, phát ra có sức phá hoại khá mạnh mẽ, nếu sự tu luyện chưa được
vững vàng. Chủ trì buổi giảng kinh mà quên kinh mất; Ngọc Ðế và Hoàng Hậu
là thính giả mà giữa đường xảy ra việc không đẹp như thế, thử hỏi còn ai
giảng và ai nghe nữa. Thế là cuộc giảng kinh thất bại hoàn toàn, không
phương cứu vãn được vậy. Và cũng bởi đó mà làm cho Ngọc Ðế càng nổi xung
nhiều lên.
Bà Hoàng hậu
nhân vì khí sát ấy, tuy bên ngoài có phần lắng dịu, nhưng bên trong vẫn
sôi gan tức giận, nên đi thẳng về chỗ thân phụ tức A Tu La vương kể lể sự
việc vừa xảy ra giữa hai vợ chồng cho thân phụ biết. A Tu La vương cũng
nhân việc ngày trước Ngọc Ðế dùng Thiên binh Thiên tướng để tiễn đưa, và
bị hiểu lầm nghi là dương oai dọa nạt mình. Nay lại thêm việc này nữa. Do
đấy A Tu La vương cấp tốc điều động binh tướng nhiều vô số và vận chuyển
ngay đi lên đánh phá Thiên cung của Ngọc Ðế. A Tu La vương dùng sức thần
thông, chân đạp sát đáy biển cả, tay dương lên lung lay tòa Thiên cung.
Chiến cuộc thật dữ dội. Ngọc Ðế bị thua bại, bỏ Thiên cung trốn chạy.
Ngọc Ðế chạy
đến chỗ Ðức Phật với mục đích xin cầu cứu. Sau khi thi lễ, Ngọc Ðế khúm
núm đứng nép một bên. Ðức Phật dùng thường tình thế tục hỏi: "Ngọc Ðế! Từ
xa đến, có việc gì?". Ngọc Ðế thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con có chút việc,
xin Thế Tôn từ bi cho con thưa". Ðúc Phật dạy: "Ngươi cứ nói". Ngọc Ðế
thuật lại đầu đuôi tự sự từ khi khởi thủy cho đến hiện tình, nhưng cũng có
chỗ còn dấu diếm quanh co lấp ẩn chứ chưa thật ngay thẳng. Và cuối cùng
Ngọc Ðế thưa: "Lạy Ðức Thế Tôn, tái sinh cho con một lần này con xin đội
ơn vạn kiếp".
Với Ðức Phật,
Ngài đã thừa hiểu, nhưng hỏi là hỏi vậy thôi. Cho nên Phật chẳng quở trách
lắm mà Ngài dạy dỗ và an ủi nhiều hơn: "Ta vẫn biết các ngươi còn nhiều
tội lỗi lắm. Nguyên do là bởi ngu si, tham dục, nghi ngờ, ghen tương, sân
giận, đánh đập, nghe lời con và cuối cùng chém giết lẫn nhau để gọi là
giải quyết vấn đề. Toàn là những việc không đâu cả. Chung quy là do ngu
si, thì thật là các ngươi ngu si đến mức. Vậy thì đầu đuôi cũng bởi ngu
si. Nay ta dạy cho Ngọc Ðế ngươi nên thọ trì kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða
thời nhờ đấy mọi việc đều được yên xuôi tất cả". Và Ngài quở: "Sự việc đã
xảy ra to như hư không, mà bảo là chút việc". Ngọc Ðế mừng quýnh, vâng
lãnh kinh ấy về, thời vua A Tu La liền đại bại và chạy trốn vào trong lòng
ngó sen. Kinh ấy có nghĩa là Ðại Trí Huệ rốt ráo. Ngu si chỉ có trí uệ mới
trừ được thôi. Với sự việc vừa kể trên, cho chúng ta thấy người đời tuy tu
công đức, làm việc từ thiện, nhưng phần nhiều hay nghi ngờ nhau, ưa tranh
giành lẫn nhau. Nhiều khi ra mặt háo thắng hơn người cho kỳ được mới nghe.
Do đó, sau khi chết mới đọa vào loài A Tu La.
- Ca Lầu La
tức là chim Ðại bàng. Một lần bay xa đến chín vạn dặm. Tánh nó ưa ăn Rồng.
Khi Ðức Phật cấp cho Rồng tấm áo cà sa, do đấy chim Ðại bàng chẳng ăn được
Rồng được nữa. Nó mới đến cầu xin lòng từ bi của Phật và có ý bất mãn nói:
"Ðức Thế Tôn cứu Rồng như thế ấy, còn bọn chúng tôi thì chịu chết đói hay
sao?". Phật liền khiến dạy Ðại bàng quy y ngôi Tam Bảo và thọ trì giới bất
sát. Và khiến dạy các đệ tử Phật rằng mỗi khi cúng Phật rồi thọ thực phải
dùng cơm hoặc cháo tối đa là bảy hột mà bố thí cho các loại chim Ðại bàng,
các quỷ thần nơi đồng nội, và mẹ con quỷ La Sát, khiến cho cả thảy đều
được nhờ đấy mà sống còn.
- Khẩn Na La,
đầu có một cái sừng, giống như người mà chẳng phải người, tên là Nghi
Thần, cũng là nhạc thần của cung trời Ðạo Lợi. Mỗi khi Ngọc Ðế muốn nghe
âm nhạc, thời nhạc thần này liền đến trổi nhạc cho Ngài nghe.
- Ma Hầu La
Già, là thần rắn Ðại mãng xà, từ đầu đến bụng dài mà thô lớn lắm. Bà Hy
Thị là vợ của vua Lương Võ Ðế, chẳng tin Tam Bảo, lúc sanh thời bà hay phá
hoại chùa miễu. Sau khi chết bị đọa làm thân rắn Mãng xà. Cũng khôn xong,
cầu cứu với vua Lương Võ Ðế. Ðể thỉnh Ngài Chí Công Thiền Sư, nhờ Ngài
soạn bộ Lương Hoàng Sám. Mới thay thế cho Hy Thị mà tu sám hối. Bà Hy Thị
nhờ đấy mà thoát thân rắn Mãng xà, và được sanh lên cung trời.
- Người, là
chỉ cho Nhân đạo, trong bốn châu thiên hạ. Chẳng phải người, tức là Phi
nhân chỉ cho các loại súc sanh, ngạ quỷ, và địa ngục.
Quán Thế Âm Bồ
Tát vì muốn cứu độ Trời, Rồng, Quỷ, Súc sanh cả thảy tám bộ chúng sanh nên
cũng thị hiện các thứ thân ấy, để vì họ mà thuyết pháp khiến họ đều được
giải thoát. Chính rõ là Bồ Tát từ bi phổ độ chúng sanh chẳng phân biệt
giai cấp, chủng loại gì cả.
Người đáng
dùng thân Chấp Kim Cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Cang Thần
mà vì đó nói Pháp.
Chấp Kim Cang
Thần là Thần Hộ Pháp của Phật giáo. Phật giáo lấy từ bi làm bản hoài.
Nhưng những người ác tâm ở thế gian thường hay muốn phá hoại Phật pháp.
Thần Kim Cang tay cầm dùi chày bằng chất báu, chuyên môn đánh những đứa ác
mà bẻ gãy ác tâm của nó để giúp việc bảo hộ Phật pháp. Cho nên trong Phật
giáo đối với chỗ nên dùng từ bi thì dùng từ bi mà nhiếp thọ, chỗ nên dùng
oai mãnh để bẻ gãy nó thì dùng oai mãnh đối với nó. Có oai có đức hai mặt
đầy đủ mới xong việc.
Trong thời quá
khứ vô lượng kiếp về trước, có một vị Quốc vương lấy hai bà phu nhân. Bà
Ðại phu nhân sanh ngàn người con, bà thứ hai chỉ sanh được hai người. Ngàn
cậu con bà lớn mở cuộc bắt thăm để định coi ai thành Phật trước và sau.
Kết quả Thích Ca được thành Phật vào thứ tư, Lầu Chí thành Phật cuối cùng.
Hai người con của bà thứ lại phát nguyện. Người anh trưởng nguyện rằng:
Khi ngàn người anh thành Phật tôi nguyện làm Phạm vương chuyên cầu thỉnh
thuyết Phật. Chú em cũng nguyện xin làm Lực sĩ Hộ Pháp. Cho nên khi Ðức
Phật ra đời Phạm vương được thỉnh Phật thuyết pháp trước tiên, lại có Hộ
Pháp Thần thay Phạm vương lo việc hộ Pháp.
Vô Tận Ý! Quán
Thế Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, đi dạo
trong các quốc độ để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng
cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm
Ðại Bồ Tát đó ở trong chỗ nguy nạn sợ sệt hay ban sự vô úy cho chúng sanh,
cho nên cõi Ta Bà này đều gọi Ngài là vị Vô Úy Thí.
Ðây là đoạn
văn tổng kết. Quán Thế Âm Bồ Tát đem 32 ứng hóa thân thị hiện ở khắp mười
phương tất cả các quốc độ mà độ thoát chúng sanh. Do đó nên Ðức Phật mới
bảo Ngài Vô Tận Ý rằng: "Quán Thế Âm Bồ Tát đã trọn nên những công đức
dường ấy, cho nên các ông cần phải nhất tâm nhất ý cúng dường vị Bồ Tát
này. Những khi chúng sanh gặp phải nguy nạn hay lo sợ, Bồ Tát Quán Thế Âm
thường đem sức vô úy để giải cứu tai nạn kia". Quán Thế Âm Bồ Tát đủ Ðại
oai thần, có Ðại thế lực, thời chúng sanh cũng có bảy nạn, ba độc và bao
nhiêu những lo sợ, kinh hãi, khổ não mà năng trì niệm Thánh hiệu, để cảm
với Bồ Tát thời chắc được Bồ Tát đem cho oai mãnh vô sở úy, khiến được
giải thoát. Ngàn chỗ khẩn cầu ứng ngàn chỗ. Không cảm nào chẳng thông. Cho
nên Ðức Quán Thế Âm có biệt hiệu là Vô Úy Thí Giả nữa vậy. Từ trước đến
đây đã giảng xong 32 ứng hóa thân.
Vô Tận Ý Bồ
Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát", liền
mở chuỗi ngọc châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lượng vàng, đem trao cho
Ngài Quán Thế Âm và nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi.
Ðoạn văn này
là Vô Tận Ý Bồ Tát phát tâm cúng dường lên Quán Thế Âm Bồ Tát. Ðức Phật
giảng sự thị hiện 32 ứng hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, không một thân
nào là chẳng vì độ chúng sanh: Cứu bảy nạn, giải ba độc và làm thỏa mãn
hai nguyện cầu... Là cứu khổ cứu nạn. Ðều dùng bản thể trung đạo phát khởi
Diệu dụng trung đạo mà làm con thuyền Ðại Từ để qua lại trong bể khổ mênh
mông, và trong khi chúng sanh gặp nguy nạn hay ban cho sức vô úy. Cho nên
Vô Tận Ý Bồ Tát phát tâm cúng dường. Vô Tận Ý Bồ Tát liền thưa Ðức Phật
rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi nay xin tuân Tôn Mệnh, nhất tâm cúng dường".
Rồi tức thì tháo gở tràng chuỗi ngọc Anh lạc quý báu mà Ngài đang đeo nơi
cổ xuống cúng dường Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tràng chuỗi
Anh lạc này gồm nhiều viên bảo châu kết lại với nhau mà thành, thật là quý
báu trang nghiêm lạ thường. Giá trị nó đáng mười vạn lượng vàng, tức là
nhiều đến một trăm cái một ngàn lượng vàng ròng vậy. A La Hán chỉ biết tự
lợi, chẳng chịu đi làm việc phước đức, cho nên thân thể ốm o tiều tụy,
không có oai đức. Không có chuỗi Anh lạc trang nghiêm tức là không thị
hiện oai đức. Bồ Tát tích cực cứu thế, nơi nào cũng làm lợi cho mọi người,
cho nên có phước báo lớn, đầy đủ công đức pháp tài và có Ðại trang nghiêm.
Vô Tận Ý là một vị Bồ Tát, phước báo cũng rất lớn lao, cho nên có chuỗi
bảo châu Anh lạc. Một tràng chuỗi bảo châu Anh lạc đã có giá trị đến trăm
ngàn lượng vàng, huống là còn bao nhiêu vật khác nữa biết làm sao mà kể
xiết. Cúng dường bảo châu Anh lạc là sự. Nhưng trong ấy có hàm lý rất sâu
xa.
Nơi cổ Vô Tận
Ý là tiêu biểu Diệu thể trung đạo thật tướng, tức là trung đạo chân không
Diệu hữu. Bảo châu Anh lạc là dụ cho Giới, Ðịnh, Huệ, Ðà La Ni và các pháp
môn khác nữa, để trang nghiêm cho trung đạo thật tướng ấy. Chúng ta vẫn có
thể có thật tướng ấy, nhưng chưa có Giới, Ðịnh, Huệ, các Ðà La Ni để trang
nghiêm. Cho nên chúng ta cần phải trì Giới, tập Ðịnh, học Huệ và tu pháp
môn Ðà La Ni để tự trang nghiêm lấy Pháp thân của mình, kẻo uổng. Cởi
tràng chuỗi bảo châu Anh lạc nơi cổ, là tiêu biểu đã chứng được trung đạo
Pháp môn, mà chẳng an trụ tất cả pháp môn để tỏ ra tu hạnh thường xả vậy.
Ðấy là tiêu biểu cho Pháp.
Vô Tận Ý Bồ
Tát cởi tràng chuỗi Anh lạc, đem cúng dường đến Quán Thế Âm Bồ Tát, và nói
rằng: "Nhân giả! Xin Ngài hãy nhận lãnh chuỗi Anh lạc pháp thí của tôi
đây!". Hai chữ Nhân giả là Bồ Tát nói với Bồ Tát xưng hô bình đẳng với
nhau. Quán Thế Âm Bồ Tát đủ đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, cho nên xưng
là Nhân giả. Cúng dường bảo châu Anh lạc, nguyên thuộc về tài thí, mà sao
gọi là pháp thí? Phải biết tràng chuỗi ấy là tràng chuỗi bảo châu Anh lạc
ở trong tự tâm. Vì ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp cũng không tâm. Bảo
châu Anh lạc tức tâm, tâm tức bảo châu Anh lạc. Tâm tức Pháp, Pháp tức
Tâm. Mắt thấy tai nghe, tất cả muôn vật, không một sự nào chẳng thuộc về
nơi tự tâm. Toàn vật tức tâm, toàn sự tức lý. Cho nên tài thí mà chuyển
thành pháp thí là vậy. Nhưng với chúng ta là chúng sanh chưa có thể như
thế được. Thấy pháp ở ngoài tâm, chấp đắm sự vật là thật có. Cho nên Tâm
với Pháp có ngăn ngại, Tài với Pháp đều khác hẳn.
Có những người
đem của cứu nạn, tận lực thực hiện. Rồi nhân đấy tự cho công đức mà mình
đã làm được là to lớn lắm. Thế rồi khi gặp một sự phỉ báng, không vừa
lòng, liền sanh lòng buồn rầu, tức khắc hiện sắc mặt chẳng vui. Và đấy
cũng là nhân hữu lậu của người và trời. Vì chẳng thấu rõ Phật pháp, chẳng
biết chúng sanh là chúng sanh ở trong tự tâm của ta. Không biết rằng cứu
người tức là cứu ta, cho nên không được công đức khả cư, vì đã được như
thế thời đâu còn thấy có những lời phỉ báng nữa. Ðược như thế thì trọn
ngày làm công đức, mà chẳng trụ nơi công đức. Vả lại, làm việc ta và người
là bổn phận vậy, thời tuy là tài thí mà cũng là pháp thí vậy. Nếu bố thí
mà chẳng quên mình, ba luân chẳng không, tức là ý thức có ta bố thí và có
người nhận vật bố thí, thời đối với Phật pháp chẳng thích hợp chút nào cả.
Ngày xưa, khi
Ðức Ðạt Ma Tổ Sư đến Trung Quốc, vua Lương Võ Ðế có hỏi Tổ: "Trẫm ưa làm
việc công đức. Ði đến đâu tạo lập chùa chiền đến đó, đắp tượng, xây tháp,
ấn tống kinh sách và giúp đỡ vô số Tăng chúng. Những công đức ấy sẽ như
thế nào?". Ðạt Ma Tổ Sư trả lời: "Không có công đức gì hết! Bởi vì Ngài
chấp tướng bố thí, bất quá chỉ là hưởng được phước báu người và trời mà
thôi. Một khi phước báu ấy hết, thì rồi cũng phải đọa lạc. Vì bố thí hữu
lậu nên chỉ hưởng được phước báu hữu lậu vậy". Vua Lương Võ Ðế hỏi: " Thế
thì làm sao mới gọi là chân công đức?". Tổ đáp: "Tịnh trí diệu viên, thể
tự trống lặng. Phải nương theo thể ấy mà bố thí. Và tất cả các hạnh nghiệp
khác nữa, cũng đều nương nơi đó, mới gọi là công đức vô lậu. Tức pháp thí,
cũng gọi là chân công đức vậy". Tịnh trí diệu viên, thể tự trống lặng
nghĩa là thế nào? Có thể khẳng khái bố thí, tức là đem tiền của, là điều
mà mọi người đều đem lòng yêu tiếc đi cứu tai cứu nạn. Pháp thí này mới là
có đủ trí huệ. Nếu chẳng trí huệ thì đâu chịu bố thí như vậy. Tuy nhiên có
trí huệ bố thí, nếu một phen chấp tướng, bèn sa vào nhiễm ô hữu vi hữu
lậu, thời trí huệ ấy tức là bất tịnh vậy. Nếu được ba luân thể trống
không, chẳng chấp có tướng người bố thí, chỗ sở an của hành tâm không công
đức khả cư, nếu trí huệ bố thí như thế là thanh tịnh thời không ô nhiễm,
mới được gọi là Tịnh trí vậy. Ðược như thế chẳng khởi tâm phân biệt năng
thí và sở thí và chẳng có tâm tư lường, trọn đầy khắp thanh tịnh bản nhiên
châu biến cả pháp giới. Do đó nên mới gọi là Diệu viên.
Hãy vô sở trụ
mà khởi tâm bố thí. Chẳng rơi vào Tâm, Ý, Thức mà tu hạnh bố thí. Năng thí
và sở thí đều tiêu vong, vì là Thể nó không tịch tức là trống lặng vậy. Vô
trụ mà sanh Tâm gọi là Tịnh trí Diệu viên. Sanh tâm mà vô trụ, tức là Thể
tự trống lặng. Ðược như thế mới gọi là cúng dường Pháp hay là Pháp thí.
Tóm lại mà nói, chẳng chấp tướng trong khi bố thí thời phước báu bằng hư
không, trùm khắp pháp giới. Trái lại chấp tướng, khởi tâm phân biệt trong
khi bố thí thời có hạn lượng tức chỉ là công đức hữu lậu vậy.
Vô Tận Ý Bồ
Tát là bậc Ðại Bồ Tát, tức tài thí mà là pháp thí. Tài thí, Pháp thí ngang
bằng không sai khác. Nhưng Vô Tận Ý Bồ Tát đem chuỗi Anh lạc cúng dường
Quán Thế Âm Bồ Tát, mà Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận là vì Vô Tận Ý
tuân lời Phật dạy mà phát tâm cúng dường. Ngài Quán Thế Âm chưa thấy Ðức
Phật dạy nhận, cho nên Ngài chẳng dám thọ lãnh.
Ngài Vô Tận Ý
lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà
nhận chuỗi ngọc này".
Bấy giờ Ðức
Phật mới bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và
hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La,
Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi nhơn... mà nhận chuỗi ngọc đó".
Ngài Vô Tận Ý
thấy Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi ngọc cúng dường nên lại năn
nỉ thêm một lần nữa rằng: "Thưa Nhân giả! Tôi phát tâm cúng dường chuỗi
Anh lạc là vì chúng sanh vậy. Vì thấy chúng sanh chịu bao khổ nạn, thật
chẳng làm sao nói ra cho hết lòng thương cảm ấy được. Xin Ngài đem lòng
đại từ đại bi thương xót chúng sanh mà nhận chuỗi Anh lạc cúng dường này".
Vô Tận Ý Bồ Tát vì chúng sanh mà phát tâm cúng dường là muốn mưu cầu lợi
ích cho chúng sanh được phước lợi ấy. Ðấy mới thật là chân cúng dường.
Chính lúc ấy Ðức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Ông nên sẵn lòng đại
từ đại bi mà nghĩ đến hảo tâm của Vô Tận Ý và bốn chúng cùng tám bộ Thiên,
Long, Nhân, Phi nhân thảy dang ở trong hội Pháp Hoa này mà nhận lấy chuỗi
Anh lạc này đi".
Tức thời Quán
Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, Nhơn, Phi nhơn... mà
nhận chuỗi ngọc đó, và chia làm hai phần. Một phần dâng Ðức Thích Ca Mâu
Ni Phật, một phần dâng lên tháp của Phật Ða Bảo.
"Vô Tận Ý!
Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo khắp nơi trong cõi Ta
Bà".
Tức thời,
chính là lúc Vô Tận Ý Bồ Tát khẩn thỉnh Ngài Quán Thế Âm nên đem lòng từ
mẫn mà nhận chuỗi Anh lạc, và Ðức Phật cũng dạy Quán Thế Âm Bồ Tát nên
nhận chuỗi ngọc cúng dường. Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát vì lòng thương xót tứ
chúng và tám bộ, cho nên không nhận mà phải nhận. Nhận xong, Ngài đem
chuỗi ấy chia làm hai phần. Một phần cúng Phật Thích Ca, một phần cúng
Phật tháp Ða Bảo. Phật Thích Ca Mâu Ni là vị giáo chủ Ta Bà thế giới.
Thích Ca là
họ, có nghĩa là Năng Nhân. Mâu Ni là tên, nghĩa là Tịch Mặc. Năng Nhân
tiêu biểu cho lòng Từ Bi lợi tha. Năng, là tài năng lực lượng, tức là tài
năng tích cực lợi tha. Nhân, tức là nhân từ cứu khổ, ban vui. Tịch Mặc,
tiêu biểu cho trí huệ tự lợi. Yên vắng lặng soi, tức đem trí huệ soi phá
vô minh nơi mình là tự lợi. Ðời cũng có những người vì chúng sanh làm công
việc từ thiện. Ðiều ấy cố nhiên là chẳng phải dễ, nhưng đáng tiếc thay là
họ chỉ biết tích cực cho công việc chứ chẳng đem lý trí mà quán sát để làm
trống không những gì đã có, cho nên khó được kết quả tốt đẹp mỹ mãn. Nay
phải quyết dùng công phu Tịch Mặc, làm cho hết cái tâm so đo, rồi một lòng
một dạ nhớ Phật, nhớ đến khi nào thân và tâm đều tiêu vong, mới đánh đổ
cái chấp nhân ngã, bứt dứt cho hết các thứ phiền não, thản nhiên. Nghịch
cảnh đến chẳng giận, thuận cảnh về cũng chẳng mừng. Ðược như thế tức là đã
làm chết hết tính trộm cắp.
Nhiên hậu mới
phát tâm làm những việc thay thế dân chúng mà mưu đồ hạnh phúc cho nhau,
vì nhân quần mà làm lợi ích cho đa số. Ðược như thế là ta và người đều đạt
được đến kết quả mỹ mãn vậy. Ðã chẳng có lo nghĩ thành bại hay đắc thất,
lại cũng không một vật gì dung tình. Ðến đấy tức xả kỷ tùng nhân, tổn mình
lợi người, gọi là do tiêu cực mà tích cực, tức xuất thế mà nhập thế. Thích
Ca tức Diệu hữu nhập thế, Mâu Ni tức Chân không xuất thế. Chỗ gọi là Thế,
xuất thế gian, nhất dĩ quán chi. Cố suy nghĩ về danh nghĩa thời có thể
biết Ðức Phật chẳng phải là một mùi tiêu cực vậy. Thấu rõ được những lẽ
trên đây mới ra làm sự nghiệp lợi sanh cho quần chúng, tức là cùng nhau
làm những việc lành, chắc chắn thu được những hiệu quả vĩ đại vô cùng vậy.
Cho nên chúng ta là những người học Phật hãy nên lấy bốn chữ Thích Ca Mâu
Ni để làm khuôn thước.
Khi Ðức Phật
Thích Ca Mâu Ni giảng kinh Pháp Hoa, ở ngay trước pháp hội bỗng nhiên từ
dưới đất vọt lên một ngôi tháp báu, trong có Ðức Phật Ða Bảo. Ðức Phật Ða
Bảo là vị Cổ Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp về trước và đã nhập diệt
lâu rồi. Nhân nay Phật Thích Ca thuyết giảng kinh Pháp Hoa là việc nan
đắc, hy hữu, cho nên từ trong lòng đất hiện lên ngôi tháp báu để chứng
minh công đức này.
Quán Thế Âm Bồ
Tát, lúc đầu chẳng nhận chuỗi Anh lạc, sau đó mới chịu nhận. Nhận xong
Ngài lại chia làm hai phần, rồi dâng lên hai vị Phật Thích Ca và Ða Bảo,
là thọ nhận mà chẳng thọ nhận. Chẳng thọ mà thọ gọi là Diệu hữu, tức Thích
Ca. Thọ mà chẳng thọ gọi là Chân không, tức Mâu Ni. Họp lại mà nói thì Ðạo
ở trong ấy đủ rồi vậy.
Ðức Phật bảo
Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: "Quán Thế Âm Bồ Tát này có oai đức thần thông như
thế ấy, mới đến thế giới Ta Bà này, có công đức cao tột thật là bất khả tư
nghì".
Giảng Phẩm Phổ
Môn Quán Thế Âm Bồ Tát, do bổn môn và tích môn thị hiện 32 ứng hóa thân
dạo khắp cõi Ta Bà, đến đây đã xong.
Lúc đó Ngài Vô
Tận Ý Bồ Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
(Thể của Kệ và
Thi giống nhau. Hoặc đồng thời thuật lại những ý nghĩa sâu sắc nơi văn
kinh lúc trước, hoặc bổ túc thêm những nghĩa mà văn kinh chẳng đề cập đến.
Bản dịch của Ngài La Thập vốn chẳng có bài kệ này. Về sau có Ngài Xà Na
Cấp Ða dịch mới có kệ. Sau này các vị Cổ Ðức mới đem kệ này thêm vào sau
đoạn kinh văn của Phẩm Phổ Môn do Ngài La Thập dịch hợp thành một Phẩm).
Thế Tôn đủ tướng tốt!
Con nay xin hỏi kia.
Phật tử nhơn duyên gì,
Tên là Quán Thế Âm?
Bốn câu này là
lời thưa hỏi của Vô Tận Ý Bồ Tát. Ðức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đầy
đủ tướng hảo nên gọi là Diệu tướng cụ. Trước khi hỏi, Vô Tận Ý khen ngợi
Diệu tướng của Ðức Phật. Cho nên lúc bắt đầu Ngài nói:
Thế Tôn đủ
tướng tốt. Kia, là chỉ Ðức Quán Thế Âm. Tôi nay xin hỏi lại lần nữa, Phật
tử Quán Thế Âm này do nhân duyên gì mà gọi là Quán Thế Âm? Phật tử là Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tất cả bốn chúng đều là đệ tử Phật
môn. Ðức Phật xem bốn loại chúng sanh như thương con đỏ, tất cả chúng sanh
đều là Phật tử, cho nên tất cả đều được gọi là Phật tử. Nhưng Ðức Phật lấy
hoằng pháp là sự nghiệp, lấy độ sanh làm công việc thường trực gọi là gia
vụ. Vậy mà đời nay có nhiều vị Tăng, Ni xem chùa chiền, điền sản, vàng
bạc, tài vật làm gia vụ, và lo việc đáp ứng thù tạc Phật sự cho là sự
nghiệp, thật chẳng phải là chân Phật tử chút nào cả.
Ðức Phật Thích
Ca thuyết pháp 49 năm với lòng Ðại Từ, Ðại Bi, khai thị cho chúng sanh,
hoàn toàn lấy hoằng pháp độ sanh làm gia vụ sự nghiệp. Chúng ta đã là Phật
tử, có trách nhiệm phải đảm đương sự nghiệp của Ðức Phật, cần phải noi
theo gương Ðức Phật để giáo hóa chúng sanh giống như đạo làm con, có trách
nhiệm thừa kế bảo trì gia nghiệp của cha mẹ lưu truyền lại vậy. Nếu chẳng
được như thế, thời đấy là những đứa con bất trung bất hiếu chẳng có chút
gì là trường cữu và tiến viễn cả, đâu phải đấy là chân Phật tử ư?
Nhị Thừa La
Hán chỉ biết tự lợi chẳng chịu làm việc lợi tha, cũng chẳng phải là chân
Phật tử. Cứ thẳng thắn mà nói: Duy chỉ có Bồ Tát năng tự lợi lợi tha, đến
đâu là hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sanh đến đấy, gánh vác gia
nghiệp Như Lai, nối thịnh dòng Phật hóa, mới đáng gọi là Chân Nhi Tử của
Ðức Phật vậy thôi! Ðấy cũng thường được gọi là Pháp vương tử. Có người
muốn hoằng pháp độ sanh để làm chân Phật tử nhưng ngặt nỗi tự mình chẳng
thông hiểu Phật pháp thời biết làm thế nào đây. Thì đây, chỉ cứ một lòng
trì niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, rồi cũng khuyên mọi người xưng niệm A Di
Ðà Phật, rồi bảo họ tu thêm giới sát, phóng sanh, bố thí... Ðấy là tâm địa
Bồ Tát rồi, mà cũng là hoằng pháp độ sanh và chân Phật tử rồi vậy. Cho nên
Kinh có nói: "Nhất niệm Nam Mô Phật, giai cộng thành Phật đạo".
Ðấng đầy đủ tướng tốt,
Kệ đáp Vô Tận
Ý:
Câu "Ðấng đầy
đủ tướng tốt" là chỉ về Ðức Phật. Lời hỏi của Vô Tận Ý bằng kệ, Ðức Phật
cũng dùng kệ mà đáp nên gọi là "Kệ đáp Vô Tận Ý".
Ông nghe hạnh Quán Âm,
Khéo ứng các nơi chỗ.
Thệ rộng sâu như biển,
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn.
Hầu nhiều nghìn Ðức Phật,
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta
vì ông lược nói,
Nghe tên cùng thấy thân.
Tâm niệm chẳng luống qua,
Hay diệt các cõi khổ.
Ông cần phải
nhất tâm nghe hạnh môn của Quán Thế Âm Bồ Tát là bất khả tư nghì. Bởi vì
Quán Thế Âm dùng trí nhất tâm tam quán soi thấu cả tiếng tăm mười pháp
giới thế gian là cảnh sở quán nhất cảnh tam đế. Năng quán, Sở quán chẳng
hai. Chứng trung đạo Diệu thể, khởi trung đạo Diệu dụng, khéo khắp ứng thị
hiện. Cho nên mười phương thế giới không một nơi chỗ nào mà chẳng thị hiện
được cả. Dùng 32 ứng thân để ứng hiện, giống như tấm gương soi vật, đồng
thời xuất hiện chẳng trước chẳng sau. Cùng khắp mười phương thế giới,
chẳng một thế giới nào mà không hiện, đứng tột ba thời quá khứ, hiện tại,
vị lai, không một thời gian nào chẳng hiện. Do đó nên còn gọi là Phổ Môn
Ðại Sĩ.
- Hoằng thệ là
lời thệ nguyện rộng lớn và thiết yếu. Quán Thế Âm Bồ Tát khi xưa là kẻ
phàm phu, đã từng phát 12 đại hoằng thệ nguyện rộng rãi vô biên, sâu thẳm
vô cùng như đại dương biển cả vậy. Vả lại từ vô lượng kiếp đến nay, cũng
đã từng tu đạo Bồ Tát đều là bất khả tư nghì: Như đã hầu hạ, phụng sự, gần
gũi cúng dường các Ðức Phật quá khứ nhiều ngàn ngàn vạn vạn, để vun trồng
cội phước huệ, thường phát thanh tịnh, đại nguyện chẳng chấp đắm không và
hữu. Nguyện đại, hạnh đại, nhiều kiếp cúng dường Phật. Nguồn dài dòng xa,
rễ sâu cội vững, cho nên mới có đủ ứng hóa thân Phổ Môn thị hiện như thế
ấy.
Ban bố đại vô
úy là Diệu lực bất khả tư nghì. Như nước lên thì thuyền nổi cao theo, vật
liệu nhiều thì đắp được tượng Phật lớn. Ðấy là lời Phật Thích Ca khen ngợi
Quán Thế Âm Bồ Tát Diệu lực bất khả tư nghì, chẳng phải một lúc mà có thể
nói hết được. Nay chỉ nói sơ lược mà thôi, cho nên kệ rằng: "Ta vì ông
lược nói". Chúng sanh, nếu nghe danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, hoặc xem
Thánh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, cung kính lễ bái nhất tâm xưng niệm, nhất
định chẳng luống công. Nghe danh là ý nghiệp, xưng niệm là khẩu nghiệp, lễ
bái là thân nghiệp. Ba nghiệp cung kính, nhất tâm bất loạn, thì năng diệt
được tất cả khổ nạn.
- Các cõi: Chỉ
cho ba cõi, chín cõi, 25 cõi. Ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Chín
cõi là: Dục có một, Sắc có bốn, Vô sắc cũng có bốn, cộng lại là chín cõi.
25 cõi tức bốn châu, bốn ác thú, sáu cõi trời Dục và một Phạm Thiên, bốn
Thiền, bốn Vô sắc, hai cõi Vô tưởng và Ngũ Na Hàm, cộng là 25 cõi. Nói
rộng là 25 cõi, nói hẹp là ba cõi, nói trung là chín cõi. Bởi vì nhân quả
chẳng sai mất, có nhân tức có quả, cho nên nguyên văn dùng chữ hữu là có
cũng là cõi. Chúng sanh ở 25 cõi đang sống trong sanh tử phiền não khổ
hải, nếu có thể thu nhiếp tam nghiệp, nhất tâm thân lễ, khẩu xưng, tâm
niệm thời tiêu trừ tất cả các khổ và những ách nạn trong 25 cõi vậy. Nhưng
chẳng những tiêu trừ ba nạn, bảy độc trong cõi Ðồng Cư, mà chúng sanh
trong hai cõi Phương Tiện và Thật Báo đều được như thế cả.
Giả sử sanh lòng hại,
Xô
rớt hầm lửa lớn.
Do
sức niệm Quán Âm,
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi giạt biển lớn,
Các nạn Quỷ, Cá, Rồng.
Do
sức niệm Quán Âm,
Sóng mòi chẳng chìm đặng.
Giả sử gặp kẻ
ác, khởi ý muốn sát hại đem người xô cho rơi trong hầm lửa lớn, tánh mạng
chẳng còn bảo đảm nữa. Hoặc giả có người vượt qua sông biển, thuyền bè bị
nghiêng úp, lại có các tai nạn Rồng, Cá, các quỷ La Sát. Người đang lúc
gặp phải đại nạn nước lửa, năng đem lòng chân thành xưng danh, nhờ sức oai
thần Ðức Quán Thế Âm, thời hầm lửa biến thành ao nước mát mẻ, ngàn vạn
sóng mòi trong biển cả kia cũng chẳng làm sao chìm người được.
Hoặc ở chót Tu Di,
Bị
người xô rớt xuống.
Do
sức niệm Quán Âm,
Như mặt nhựt treo không.
Hoặc bị người dữ rượt,
Rớt xuống núi Kim Cang.
Do
sức niệm Quán Âm,
Chẳng tốn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây,
Ðều cầm dao làm hại.
Do
sức niệm Quán Âm,
Ðều liền sanh lòng lành.
Các kệ tụng
này đều là tụng lại văn kinh trên, nên chỉ nói lược, không cần giải thích
tường tận. Hoặc giả có người ở trên chót núi Tu Di, bị kẻ oan gia xô rơi
từ trên cao sa xuống gộp đá, chắc chắn sẽ bị tan xương nát thịt. Nhờ sức
niệm Quán Âm gia hộ, thời như mặt nhựt đứng giữa hư không, chẳng đến nỗi
sa xuống đáy vực. Hoặc giả bị kẻ ác đuổi theo sa dưới núi Kim cương. Nhờ
sức niệm Quán Âm gia hộ, thời chẳng bị tổn hại một mảy lông. Hoặc giả bị
kẻ oán tặc, giặc cướp bao vây, mỗi người đều cầm dao bén gươm nhọn, đến
trước mặt quyết làm hại. Nếu năng niệm Quán Âm thì nhờ sức oai thần của Bồ
Tát gia hộ, bọn cướp kia tự nhiên khởi lòng từ, bao nhiêu tâm ác độc kia
lắng dịu xuống hết.
Trước đây ba
năm khi tôi (Pháp sư Bảo Tịnh) giảng kinh Ðịa Tạng tại Tô Châu, có Bào
Thánh Vân Cư sĩ, ông rất nhiệt tâm giúp đỡ cho pháp hội giảng kinh. Ngày
giảng hoàn mãn, Bào Cư sĩ cùng tôi lên ghe máy trở về lại Thanh Ðảo. Sau
khi ghe vừa rời khỏi cửa biển Ngô Công bị bọn cao bồi lưu manh uy hiếp ghe
bắt phải đổi hướng đi về phương Nam. Tôi xem thấy tình hình hơi bất ổn,
lòng chẳng yên, liền vì cả ghe, khởi niệm Quán Âm, tiếp theo mọi người
trong ghe đều cùng nhau xưng niệm Thánh hiệu Ðức Quán Thế Âm. Nhờ đó mà
được trọn thoát hiểm nạn. Sau một ngày một đêm mới về đến chùa Quán Tôn,
tôi có soạn một bài ký, nhan đề là "Bào Cư sĩ thoát hiểm" ghi rõ đầy đủ sự
việc đã xảy ra từ đầu đến cuối.
Hoặc bị khổ nạn vua,
Khi hành hình sắp chết.
Do
sức niệm Quán Âm,
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc tù cấm xiềng xích,
Tay chân bị gông cùm.
Do
sức niệm Quán Âm,
Tháo rã đặng giải thoát.
Hoặc gặp quốc
pháp vương nạn, đến nỗi phải bị chém đầu. Khi mà thọ mạng sắp chấm dứt,
nếu năng niệm Quán Âm Thánh hiệu, thời cái đao hành quyết kia, tự nhiên
gãy khúc rời từng đoạn một. Hoặc bị phạm quốc pháp, hoặc bị bọn giặc cướp
bắt nhốt tù, tay chân đều bị trói còng. Năng trì niệm danh hiệu Quán Âm
tức nhờ sức oai thần của Bồ Tát có thể được giải thoát. Xưa có một vị Tăng
đi vào trong núi sâu để tìm cây thuốc, bị giống người Mán bắt trói nhốt
tù. Khi chúng trói buộc cả hai chân tay sắp đem làm thịt ăn, vị Tăng nhất
tâm kiên thành niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Bỗng nhiên có con cọp chạy đến phá
tan rọ nhốt Ngài, và Ngài được thoát nạn.
Nguyền rủa các thuốc độc,
Muốn hại đến thân đó.
Do
sức niệm Quán Âm,
Trở hại nơi bổn nhơn.
Hoặc giả gặp
kẻ ác nhân dùng bùa chú nguyền rủa trù ếm người, hoặc dùng độc dược làm
hại người cho chết. Ở biên giới các tỉnh Quảng Ðông, Phúc Kiến, Vân Nam,
Tứ Xuyên thường có những nơi gọi là hắc điếm. Nếu ai vô phước sa vào đích
của họ thì bị độc dược chết ngay. Hoặc bị trù ếm chết để lấy tiền của. Nếu
năng niệm Quán Âm tức có thể khỏi ách nạn ấy. Ngược lại, kẻ cố ý làm hại
người ta sẽ bị cái hại ấy trở lại hại nơi bản thân mình. Ông Tô Ðông Pha
cho rằng "Trở hại nơi bổn nhân" thì không hợp với đạo từ bi, nên sửa lại
là "Hai bên đều vô sự." Như thế thì có lẽ từ bi hơn, vì có thể chẳng gây
hại cho người cũng chẳng gây hại cho mình vậy.
Lý luận như
thế vì ông Tô Ðông Pha chẳng hiểu hai pháp môn chiếc phục và thu nhiếp
trong Phật pháp. Phật pháp nên từ bi thì từ bi, nên chiếc phục tức chiếc
phục. Tức đè bẻ như hàng phục vậy. Nếu chỉ một mặt từ bi, mà chẳng chiếc
phục thời đối với kẻ ác không thể nào mà khiến họ từ bỏ tội lỗi cải đổi
tâm tính được. Ðối với hành động sát sanh, trong Phật pháp dĩ nhiên là
điều răn cấm, nhưng đối với trường hợp cần thiết thời cũng có thể làm.
Nhưng hành động này cần phải xuất phát nơi thiện tâm, từ bi tâm và vô ký
tâm (vô ký là chẳng thiện chẳng ác). Rất sanh lòng hổ trẽn. Tuyệt đối
chẳng nên có chút lòng giận hờn, tức ghét.
Như người Phật
tử thấy giữa đường có con rắn độc, đã cắn chết nhiều người, nhân đấy liền
giết chết rắn, để nó khỏi cắn người khác nữa. Hành động sát sanh này có
hai phương diện: Một vì cứu người, một vì muốn cho con rắn đời hiện tại
giảm bớt ác nghiệp, để trong tương lai chịu ít ác báo. Sát sanh mà như thế
thì cả hai phương diện đều có ích lợi. Bởi vì trong hành động sát sanh này
phát xuất từ lòng thương xót và muốn bảo vệ chúng sanh khác nữa. Thà tự
mình phạm giới, đọa địa ngục, trọn chẳng để kẻ khác chịu khổ trong địa
ngục vô gián vậy. Do nhân duyên ấy, đối với giới pháp không phạm, nên gọi
là vong phạm cứu vật.
Cho nên giới
pháp trong Phật pháp, tuy làm quan tòa, quan quân đều có thể thọ trì giới
pháp được cả. Ðối với những kẻ gây họa cho quốc gia, gây tai hại cho dân
chúng, giết người, đốt xóm làng, gian tặc, giặc giả... Chiếu theo quốc
pháp mà xử chúng đến tội tử hình, mới có thể khiến cho dân chúng an cư lạc
nghiệp, ăn ngon ngủ yên gọi là cao gối không lo. Ðấy cũng là Bồ Tát giới
đó, cũng không có phạm chi hết. Nếu chẳng phải như vậy, mà xuất phát nơi
tâm giận dữ, thời tội ác rất lớn sẽ bị đọa vào tam đồ địa ngục chịu khổ
báo. Về sau người ta cho sự sửa đổi của Tô tiên sinh là không hợp lý, nên
vẫn dùng nguyên câu kệ như cũ.
Thuở trước có
một ông thầy bói tên là Lại Tỉnh Cán, thường có hành vi bất chính. Trong
nhà ông có nuôi một con yêu quái để nghề bói được Thần linh ứng quẻ. Cứ
mỗi năm ông đến tỉnh Chiết Giang, bắt cóc một đứa đồng nam hay đồng nữ,
đem về nhà để cúng tế cho yêu quái trong nhà. Một lần, có một đứa bé gái
bị ông dẫn dụ về nhốt kín trong nhà. Sau mấy hôm ông bắt đứa bé tắm rửa
sạch sẽ, thay áo quần để đợi yếu quái đến ăn thịt. Nguyên em bé này ngày
thường đã biết niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Lúc ấy em nhất tâm niệm danh hiệu
Ðức Quán Thế Âm. Ðến nửa đêm, cánh cửa bỗng mở toang, đôi mắt của con quái
vật từ ngoài song cửa chiếu vào sáng như đèn điện soi.Tuy sợ hãi, em bé
nhưng vẫn nhất tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời từ trong miệng
em bỗng nhiên bay ra một tia sáng bắn thẳng vào thân con quái vật. Thình
lình từ trên song cửa rơi xuống một con vật. Thấy thế em bé gái bèn la
lớn: "Cứu tôi với." Vừa lúc đó, phía bên ngoài có mấy viên lính tuần đang
đi ngang qua, nghe tiếng la cầu cứu, họ liền xông vào nhà tức thì. Bấm đèn
soi thì thấy bên cạnh em bé là một con rắn độc rất lớn, đã chết nằm ngay
nơi đó. Sau mấy lời gạn hỏi em bé, lính tuần liền bắt thầy bói Lại Tỉnh
Can đem nộp cho quan nha để có biện pháp trừng phạt về tội trạng của y.
Ðấy tức là cố ý hại người mà phản trở lại hại mình, tức là trở hại nơi bản
nhân là vậy.
Hoặc gặp La Sát dữ,
Rồng độc các loài quỷ.
Do
sức niệm Quán Âm,
Liền đều không dám hại.
Nếu người gặp
phải quỷ La Sát hung ác và độc long cùng tất cả các thứ quỷ ác độc muốn
làm hại mạng. Nếu nhất tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tức thì bọn La Sát,
Rồng độc, Quỷ đều chẳng dám làm hại đến thân mạng. Cho nên gọi là: Liền
đều không dám hại. Quỷ sợ ánh sáng mà ưa thích bóng tối. Nếu người năng
nhất tâm bất loạn xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời thiên tánh
sáng láng, tức hiển hiện Ðại Quang Minh, cho nên La Sát, ác quỷ chẳng dám
đến hại.
Thuở xưa có
một người ưa thích hỏi người, gặp ai cũng hỏi. Một hôm đi đường gặp quỷ La
Sát, anh ta tự biết nguy hiểm cho tánh mạng lắm rồi. Nhưng với tánh hiếu
kỳ sẵn có, anh liền hỏi quỷ La Sát: "Này, tại sao bụng nhà ngươi trắng mà
lưng lại đen?". Quỷ đáp: "Tính tôi sợ ánh sáng mặt trời, nên khi chạy quay
lưng về phía trước bị nắng dọi cho nên lưng đen mà bụng trắng". Lúc đó anh
ta liền kéo quỷ La Sát đến chỗ ánh sáng mặt trời, quỷ tức thời tiêu tan.
Trong tự tâm chúng ta vọng tưởng bất tuyệt, tức là nhiều lớp màu đen, cho
nên quỷ thường đến làm họa gây hại. Nếu được chánh đại quang minh, nhất
niệm bất tà, thời những quỷ La Sát làm gì đến gần mà hại ta được.
Hoặc thú dữ vây quanh,
Nanh vuốt nhọn đáng sợ.
Do
sức niệm Quán Âm,
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
Rắn độc cùng bò cạp,
Hơi độc khói lửa đốt.
Do
sức niệm Quán Âm,
Theo tiếng tự bỏ đi.
Trên rừng núi,
ngoài đồng nội có những ác thú như chó sói, cọp beo, nhe nanh múa vuốt,
hùng dữ cực kỳ dễ sợ. Ở đồng bằng Trung châu ít khi thấy chúng. Trong núi
sâu rừng rậm, thường xuất hiện những ác thú, nếu khi gặp phải, mà nhất tâm
xưng niệm Ðức Quán Thế Âm, thì dù cho bốn bề đều có ác thú bao vây đi nữa,
chúng cũng liền chạy trốn hết cả.
Tại tỉnh Phước
Kiến, có một người tên là Lôi Pháp Chấn, sinh sống bằng nghề đốt than. Một
hôm ông phải vào trong núi sâu để hành nghề. Chẳng may ông gặp phải một
con hổ già, nhe nanh, múa vuốt dựng gáy nghinh mặt chạy sấn tới ông, trông
rất là kinh sợ. Ngay trong lúc nguy cấp này, bỗng nhiên có một nàng mỹ nữ
hiện đến và hét lớn một tiếng "Cọp". Con hổ liền quỳ xuống cúi đầu mà bỏ
đi. Ông Chấn may mắn được cứu sống. Và ông mừng qua, vòng tay thi lễ xin
hỏi danh tánh của nàng. Nàng mỹ nữ đáp: "Ta là khúc gỗ áp lan ở trong nhà
của ngươi". Nói xong nàng biến mất, chẳng còn thấy bóng dáng đâu cả. Ông
Chấn nhân đấy mới nhớ lại trong nhà mình có cây gỗ áp lan, thớ thịt rắn
chắc và mịn láng, nên ông đã có ý định chạm một tượng Ðức Quán Thế Âm để
thờ, nhưng vì bận rộn công việc làm ăn, nên chưa chạm xong được.
Mới chỉ sanh
một niệm nghĩ đến, mà đã được sự cảm ứng nhiệm mầu như thế. Cho nên chúng
ta sanh một thiện niệm, thời hoa quý ở cung điện trên trời đã thành. Sanh
một ác niệm thời chảo nước sôi ở địa ngục cũng đã bày ra rồi vậy. Cho nên
tâm móng khởi, niệm máy động, tất cả đều cần phải loại trừ ác niệm mà hãy
nghĩ theo điều thiện là vậy. Ông Lôi Pháp Chấn, sau khi thoát nạn trở về
nhà liền đem khúc gỗ áp lan ra chạm thành Thánh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát,
trọn năm suốt tháng phụng thờ hương khói rất trang nghiêm. Ðấy tức là dẫn
chứng "Ác thú bỏ chạy" vậy. Loại rắn đen độc lắm, cắn người chết đứng
không kịp ngã. Bò cạp là loại côn trùng cón bốn chân, nọc độc nóng như hơi
lửa đốt. Cũng nhờ sức niệm Quán Âm mà theo tiếng bỏ chạy.
Mây nổ sấm sét đánh,
Tuôn giá xối, mưa lớn.
Do
sức niệm Quán Âm,
Liền đặng tiêu tan cả.
Khi trời nổi
mây đen, gió mưa cùng lúc, sấm sét chớp nhoáng bốn phương. Tiếng sấm sét
đùng đùng và băng khối rơi xuống, hoặc lớn nhỏ ít nhiều không nhất định,
có thể làm hư hao mùa màng hay gây thương tích đến người và vật. Những
trận mưa lớn như nước từ trên trời đổ xuống. Hễ gặp những điều chẳng lành
như thế, đều là hiện tượng thiên tai hung hiểm. Nếu người đang đi dưới
những con mưa to gió lớn sấm sét, băng tuyết thời thế nào cũng bị nguy
hiểm đến tánh mạng. Nếu gấp gấp hồi đầu, xưng niệm danh hiệu Ðức Quán Thế
Âm Bồ Tát, thì tức khắc có thể mây tiêu, mưa tán, gió ngưng, sấm ngừng và
băng tuyết cũng tiêu hết, bầu trời trở lại quang đãng.
Chúng sanh bị khổ ách,
Vô
lượng khổ bức thân.
Do
sức niệm Quán Âm,
Hay cứu khổ thế gian.
Trong tâm
chúng sanh bị Tham, Sân, Si, Mạn... Các phiền não đó bức ép. Nơi thân thì
bị nước, lửa, binh, đao, đói khát, tam tai, bát nạn các khổ ấy thay phiên
nhau thường trực hoành hành dữ dội. Khốn ngặt ở trong thống khổ vô lượng
vô biên. Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Từ Ðại Bi, có đủ thần lực trí huệ Diệu
quán sát, không nạn nào mà chẳng cứu, không khổ nào mà chẳng vớt. Thậm chí
đối với chúng sanh ở cõi ba cõi Ðồng Cư, Phương Tiện và Thật Báo, tất cả
sanh tử phiền não khổ ách thảy đều năng cứu độ, khiến chúng sanh được giải
thoát.
Ðầy đủ sức thần thông,
Rộng tu trí phương tiện.
Các cõi nước mười phương,
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ:
Ðịa ngục, quỷ, súc sanh.
Sanh, già, bệnh, chết, khổ,
Lần đều khiến dứt hết.
Quán Thế Âm Bồ
Tát đầy đủ Thần thông diệu lực. Thần thông là thiên tánh, chẳng đo lường
được; Thông tức là huệ tâm. Dùng tánh thiên nhiên thấu soi vô ngại gọi là
Thần thông. Chúng sanh vốn đầy đủ thần thông diệu dụng, ngặt vì bị phiền
não vọng tưởng che lấp, nên chẳng hiển hiện được. Nếu có thể buông thả
muôn duyên, thần thông tức liền hiện ngay.
Bồ Tát, La
Hán, Thiên, Tiên, Quỷ, Thần đều có thần thông. Thần thông của Quỷ, Thần
gọi là quỷ thông, nhỏ bé lắm chỉ thấy được ít phần trong hai đạo Người và
Quỷ mà thôi. Thiên, Tiên tuy có thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng
và thần túc năm thông, nhưng cũng đều là nhỏ hẹp. Vả lại vì thiếu vô lậu
thông, cho nên gọi là hữu lậu thần thông, vì phiền não vẫn hoàn toàn còn
tồn tại vậy. Cho nên khi động đến sát cơ, tức là giết hại.
La Hán thêm đủ
vô lậu thông. Nhờ có đủ sức thần thông nên mới vượt khỏi ba cõi. Tuy vượt
khỏi hơn vạn vạn lần hữu lậu thần thông của Thiên, Tiên nhưng hãy còn chưa
hoàn toàn rốt ráo. Cho nên thiên nhãn, thiên nhỉ của La Hán chỉ thấy và
nghe trong phạm vi tam thiên đại thiên thế giới mà thôi. Với thần túc
thông, chỉ có thể du hành tự tại trong tam giới. Còn túc mạng thông thì
biết được sự tình trong tám vạn kiếp trở lại. Tha tâm thông thì chỉ biết
tâm niệm của sáu loại phàm phu mà thôi.
Bồ Tát phá
được một phẩm vô minh, cho nên thiên nhãn, thiên nhỉ có thể nghe và thấy
đến một trăm cái tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi ấy nếu so với La
Hán thì hơn cả một trăm lần, nhưng cũng vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ vậy. Chỉ
có Phật mới có thể thấy và nghe đến vô số lượng, vô cùng tận tam thiên đại
thiên thế giới. Xem vô số kiếp trước như hiện tại, suốt nguồn tận đáy, rốt
ráo đầy đủ.
Quán Thế Âm Bồ
Tát vốn đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, đã chứng được thể
tự tâm Thật tướng, đầy đủ sức đại Thần thông, bất khả tư nghì, cho nên so
với các vị Bồ Tát mới thành tựu thì chẳng đồng. Bởi vậy nên gọi là "Ðầy đủ
sức thần thông". Lại nữa, vì Ngài đã rộng tu đại trí huệ, đại phương tiện.
Trí tức thật trí, soi lý. Phương tiện là quyền trí, hiểu sự, tùy căn cơ
chúng sanh mà thuyết pháp. Hai mặt trí Quyền và Thật đều đầy đủ nên gọi là
rộng tu. Có Thật trí tức ngang với chư Phật, có Quyền trí là không chúng
sanh nào mà không độ được. Cho nên trong mười phương thế giới, tất cả cõi
nước, không một xứ nào mà Ngài chẳng thị hiện các loại ứng hóa thân mà
rộng độ chúng sanh tức các loại ác thú như: A Tu La, Ðịa ngục, Ngạ quỷ,
Súc sanh và Nhân đạo của chúng ta sanh, già, đau, chết, cùng tất cả các
thứ khổ nhiều vô lượng vô biên, chỉ cần xưng niệm danh hiệu Ðức Quán Thế
Âm, tức thì nhờ ánh từ quang gia hộ, có thể khiến mọi thống khổ dần dần bị
tiêu trừ.
Ðịa ngục có
tám sở lạnh, tám sở nóng là Ðại ngục. Chúng sanh gây tội ngũ nghịch, thập
ác tức bị đọa vào trong ngục này chịu quả báo. Quán Thế Âm Bồ Tát thấy
chúng sanh chịu khổ nơi địa ngục, nên thường đến để giáo hóa độ thoát.
Kinh nói: Ta chẳng vào địa ngục, thì ai vào đấy? Ngạ quỷ là trăm ngàn vạn
năm chẳng nghe đến nước uống huống là các thức ăn uống. Ðức Quán Thế Âm Bồ
Tát biến làm vị Quỷ chúa Diện Nhiên Ðại Sĩ. Nhân đấy mới dẫn khởi cho Ðức
Phật nói Chú Pháp Diệm Khẩu để có thể cứu độ cho tất cả Ngạ quỷ. Súc sanh
là chim bay, thú chạy, vảy lông, cánh sừng đều bởi mắc quả báo nghiệp
chướng đời trước đã gây nên. Hễ làm người mà dối gạt gian trá tức đọa vào
loại này. Hoặc trả nợ, hoặc đền mạng mà sanh ra để chịu khổ báo chẳng thể
kể xiết. Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát hay hiện thân súc sanh để giáo hóa chúng.
Còn về khổ sanh, lão, bệnh, tử tại nơi Nhân đạo thời bất luận giàu nghèo,
sang hèn đều chẳng tránh khỏi được. Cả Thiên đường, Tiên đạo cũng không
thể tránh khỏi được. Kinh nói: Nhân gian khó tránh bốn khổ, Thiên thượng
tài gì khỏi năm suy. Quán Thế Âm Bồ Tát vì thương xót chúng sanh chịu khổ.
Chỉ cần niệm danh hiệu của Ngài tức thì những nỗi thống khổ sẽ được tiêu
trừ, và tâm thường được an vui.
Chơn quán, Thanh tịnh quán,
Trí huệ quán rộng lớn.
Bi
quán và Từ quán,
Thường nguyện
thường chiêm ngưỡng.
- Chơn quán
tức chơn không quán. Tức là xét soi tất cả các khổ thảy đầu chơn không.
Chúng ta trong thâm tâm, ngoài có thế giới, đều bởi vọng niệm vọng kiến
phân biệt mà có, kỳ thật đều là hư vọng chẳng thật. Cái có của vọng kiến
giống như trong mộng thấy có, nhưng vốn chẳng phải chơn thật. Lại cũng
giống như mắt bị lòa nên khi nhìn ngọn đèn thấy có bóng tròn năm sắc, hoặc
thấy giữa không trung có những đốm hoa nhảy múa lăng xăng. Kỳ thật ngọn
đèn vốn không có bóng tròn năm sắc, và trong không trung cũng chẳng có hoa
đốm. Nhưng bởi vì mắt có bệnh, nên nhìn mà thấy thế thôi. Giống như thế
giới, quốc độ, con người, trai gái, lớn nhỏ, nội ngoại, giàu sang, nghèo
hèn, đều do vọng kiến mà có. Khi chứng đến địa vị Phật quả mới thấy rõ
ràng không có một vật gì cả. Như khi mắt lành bệnh, thì tự nhiên lúc nhìn
ngọn đèn không còn thấy bóng tròn năm sắc, và cũng chẳng thấy hoa đốm
trong không trung nữa. Tất cả vốn thanh tịnh, một mảy bụi cũng chẳng dính
dơ. Cho nên phải biết tất cả các cảnh giới đều do bởi vọng kiến mà có. Bởi
chấp là có, mới khởi tâm phân biệt. Ðã có phân biệt thời có yêu mến, có
giận hờn, có khổ vui, có tốt xấu đủ thứ đủ điều nói sao cho hết. Ngược
lại, nếu nhất niệm bất sanh, thân tâm trở về "Không" thì muôn vật đâu có
nữa. Lúc đó mới soi thấy năm "Uẩn" đều không. Tất cả cũng đều không, chứ
chẳng phải làm mất đi cái "Có" mới là không. Ðấy gọi là Chơn không quán. |