TÙY PHIỀN NÃO
Thưa quý vị! Mưới món phiền não tôi vừa kể
trên, trong kinh gọi là "Thập thiết". Nghĩa là 10 món này xiềng-xích này
nó xiềng- xích trói cột chúng-sanh không giải-thoát được sanh-tử luân hồi;
cũng kêu là "thập-sử", vì nó sai sử chúng ta làm nô lệ cho that tình lục
dục lăn lộn trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới, Vô-sắc-giới) và quanh quẩn
sáu đường (Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, Thiên, Nhơn, A-tu-la) chịu khổ.
Người học Phật phải phá trừ 10 cái xiềng xích này thì mới được tự do giải
thoát và mới khỏi làm nô lệ cho thất tình, lục dục. Như thế gọi là "Tu
Tâm".
Mười món trên đây, trong Duy-thức gọi là
căn bản phiền não; nghĩa là 10 món phiền não gốc. Từ 10 món phiền não gốc
này, sanh ra 20 món chi-mạt phiền não sau đây, trong Duy thức gọi là "Tùy
phiền não", nghĩa là phiền-não chi-mạt từ nơi gốc mà sanh ra.
11. Phẩn: là tức giận. Do đối với nghịch
cảnh, trước hết nổi nóng lên (sân), kế đó sanh ra tức giận nghẹn ngào, nói
chẳng ra tiếng, hoặc tuôn ra nước mắt lộ ra gương mặt hầm hừ, bộ dạng hung
hăng, mất tánh ôn hòa nhã nhặn. Vì tức giận nên mới đánh đập chưởi mắng
người, làm những điều tội lỗi. Vì tức giận mà đập bàn, vỗ ghế, la ó ray
rà, mất hết tư cách của người Phật-tử. Vì tức giận mà đánh người một cách
tàn nhẫn; chẳng biết đã tay; giết người như chém chuối, không chút đau
long!... Cũng có người tức giận bởi tình duyên trace trở, mà đâm ra liều
mình tự tử, uống thuốc độc hay trầm mình, hoặc giết con, đốt chồng v.v…
như trên mặt báo thường kể.
Hàng Phật-tử chúng ta ôn hòa nhã nhặn; mỗi
khi long tức giận nổi lên, phải định tâm niệm Phật, để dằn nó xuống. Như
thế gọi là "Tu Tâm"
12. Hận: là hờn. Có 2:1. Hờn mát, nghĩa là
hờn một chút thôi. 2. Hờn thiệt, nghĩa là gặp việc gì trái ý, hờn hoài
không bỏ. Người có tánh hờn mát, thì hay hờn lắm, dù là việc không đáng,
nhưng chỉ hờn trong giây lát thôi. Còn người hờn thật, thì ít hay hờn,
nhưng mỗi khi hờn, thì ít có bỏ qua được. Như lời tục nói "Hờn thâm xương"
Vì gặp nghịch cảnh, trước sanh ra nóng
giận, sau khi giận không bỏ qua được, nên mới có "Hờn". Vì hờn nên ôm ấp
oán thù. Bởi ôm ấp oán thu, cho nên lập mưu này kẻ nọ, để gặp cơ hội thuận
tiện đặng trả thù. Như lời tục nói "Thù xưa chẳng đội trời chung" là vậy.
Cái "Hờn" này tuy nó ngấm ngầm, mà dễ sợ
lắm! Cũng như lửa than, mỗi khi gặp bối hay bùi nhùi, có hơi gió thổi, thì
nó cháy phừng lên. Người ôm long "hờn oán" cũng thế: Nó chỉ ngấm ngầm
trong tâm mà thôi, mỗi khi có người chọc ghẹo đến, hoặc gặp những việc
trái ý, mặc dù chẳng xứng đáng chỉ, nhưng cũng nổi nóng lên làm dữ.
Người đáng lúc ôm ấp cái "hờn", thì gặp
cảnh nào cũng hướng mắt, thấy ai cũng muốn gây. Gặp những người như vậy,
chúng ta không nên chọc ghẹo đến họ. Phật-tử chúng ta, quán sát cái "Hờn",
có hại như thế, và trong lúc ta hờn người, sẽ nặng long mình! Sách nói:
"Oán gia nghi giải bất nghi kiết" (việc oán thù nên cởi mở, không nên trói
cột). Suy xét như vậy mà dẹp trừ dần đi. Như thế gọi là "Tu Tâm".
13. Não: là buồn rầu, bout rout. Vì gặp
những việc trái ý trước nóng giận và hờn, bởi không bỏ được, nên mới có
buồn. Buồn man mác, bout rout nơi long không vui được,hiện ra ngoài gương
mặt buồn buồn! Cằn cằn, cửi rừi, hoặc chẳng muốn nói cuời. Ai có hỏi đến
thì nói xuôi xị, nếu ai động đến thì gây liền.
Cái buồn man mác này tuy không ra gì, chớ
khó long lắm! Nhứt là khi tụng kinh, niệm Phật nó thường nổi lên. Nếu
chúng ta không hỷ xả được, thì nó làm cho ta buồn mãi không vui, có nhiều
khi phải thối chí với đạo.
Chúng ta cũng nên phân biệt cho rõ: Nóng
(sân), Giận (phấn), Hờn (hận). Buồn (não), bốn món tâm sở này khác nhau,
từ hành tướng cho đến công-năng đều khác. Nếu không khác, thì sao có 4
danh từ khác nhau. Tôi xin tạm thí-dụ để quý vị dễ nhận: Sân (nóng) cũng
như lửa rơm, nó chỉ cháy bừng lên, một cách cấp tốc. Giận cũng như lửa
củi, phừng phừng cháy tới, khó dập tắt liền được. Hờn,cũng như lửa than,
không lên ngọn mà vẫn cháy hoài, nóng lắm. Buồn, cũng như ngọn lửa tàn,
tuy hết cháy chớ nó còn vùi trong tro nóng, và cũng nóng hầm cả buổi mới
nguội.
Hàng Phật-tử chúng ta cố gắng dập tắt lửa
long, không còn chút gì ham nóng; làm sao cho tâm mình mát mẻ như nước ao
A-Nậu (thanh lương thủy). Như thể gọi là "Tu Tâm".
14. Phú: là che giấu tội lỗi của mình.
Mình làm điều gì sai quấy, không chịu phát-lồ sám hối; vì sợ người ta biết
rồi xấu hổ,mất danh tiếng và quyền lợi của mình, nên che giấu. Đâu biết
rằng "ai cho khỏi lỗi"; người có lỗi mà biết phát-lờ sám hối là một điều
hay, làm cho ai nấy điều chứng biết tội lỗi của mình; từ đó về sau mình
không dám làm nữa. Cũng như cái áo dơ có giặt, thì áo mới sạch, nhọt được
mổ rửa, thì nhọt mới mau lành. Trái lại, che giấu thì tội lỗi càng thêm;
trong lòng ăn năn buồn bã không an. Cũng như mụt ghẻ không chịu mỗ rửa,
thì nó đau nhứt nhiều ngày, áo dơ chẳng giặt thì mùi hôi không hết. Bởi
thế, người tu Phật có lỗi không được che giấu mà phải phát-lồ sám hối, tội
ấy mới được trong sạch. Theo thường lệ, Phật-tử mỗi tháng phải phát-lồ sám
hối hai lần, là ngày 14 và 29( tháng thiếu 28), thì tôi nghiệp mới được
tiêu trừ. Như thế mới gọi là "Tu Tâm".
15. Tật: là tật đố, ganh ghét. Thấy người
có tài hay, danh tiếng tốt, đức cao quyền trọng, mình sanh lòng đố k'èhen
ghét. Thấy người vinh hiển, mình lấy làm xốn mắt, chướng tai, trong lòng
xốn xang khó chịu, lộ ra cử chỉ nhún trề, háy nguýt, kiếm chuyện nói xấu,
làm cho giảm danh giá của người. Đây là tánh tiểu nhơn, người tu Phật phải
cố dẹp trừ tâm tật đố. Như thế gọi là "Tu Tâm".
16. Xan: là bỏn xẻn rít-rắm.; người đời
kêu là hà tiện. Có tiền của rất nhiều, nhưng không chịu đem bố thí giúp đỡ
cho ai; từ vật nhỏ cho đến vật lớn, dù gặp người đói rách hoạn nạn cũng
mặc tình. Biết được nghề hay, hay hiều được giáo pháp, không chịu chỉ dạy
cho người; dù có dạy cũng sơ sài mà thôi; thà cheat đem theo. Chớ không
muốn dạy người. Làm bộ tịch như người quê mùa nghèo khó, ăn không dám ăn,
mặc không dám mặc. Chứa để của cải, đến đổi hôi thúi, hư mục rồi đem đổ
bỏ; tiền bạc để mối ăn, rồi trách đất kêu trời, chớ chẳng bố thí một xu,
hay cho người một lon gạo.
Người tánh tình-rít rắm ấy, hiện đời không
ai ưa, sau cheat rồi làm loài ngạ quỉ. Hàng Phật-tử chúng ta, phải tự xét
lấy tâm mình, nếu có tánh bỏn xẻn về tài sản hay giáo pháp phải mau sửa
đổi đi. Như thế gọi là "Tu Tâm".
17. Cuồng: là dối gạt người. Vì cầu
danh-lợi, nên dối hiện như người thật thà, hiền hậu, hoặc làm như người tu
hành có phước đức lắm. Miệng Phật tâm rắn, lập những hạnh lạ thường, làm
nhiều điều khác chúng, bày những việc không thật, gait gẫm, phỉnh phờ
người, để trông cầu danh tiếng tài lợi. Người học Phật phải tự kiểm điểm
mình, nếu có tánh dối trá ấy, phải sửa đổi liền đi. Như thế gọi là "Tu
Tâm".
18. Kiêu: là kiêu căng. Ỷ mình giàu có,
quyền thế, danh vọng, hoặc tài hay rồi kiêu-căng, phách lối coi người
không ra gì, khinh người không thèm tiếp, gặp người chào hỏi chẳng trả
lời; hiêu hiêu tự đắc, mục hạ vô nhơn. Người có tánh kiêu-căng thì chẳng
ai ưa tự tốn âm- đức của mình. Phật tử chúng ta, tự xét lấy mình nếu có
tánh kiêu căng này phải mau sửa đổi. Như thế gọi là "Tu Tâm"
19. Siễm: là bợ đỡ, dua nịnh. Đối với
người có quyền thế hoặc giàu có v.v…bợ đỡ, nịnh hót, chìu uốn cho được
lòng người. Làm bộ cung kính và khen ngợi người, trau chuốt lời nói không
thật, để lợi dụng tiền của quyền thế hoặc công lao của người. Phật tử
chúng ta, tự xét lấy mình, nếu có tánh bợ đỡ dua nịnh, phải sữa đổi đi.
Như thế gọi là "Tu Tâm" .
20. Hại: là làm tổn hại. Đối với các loài
hữu tình đã không có lòng từ bi thương xót, lại làm tổn hại chúng nó. Mặc
dù những loài vật ấy không động phạm đến mình, nhưng hễ gặp đến thì vẫn
muốn giết hại, như cào cào chấu chấu v.v… nếu không ngắt cánh, thì cũng bẻ
giò. Một tỷ-dụ nữa: như trái cây của người, những trái dùng được thì hái
ăn đã đành, còn những trái non nớt, ăn không được cũng bẻ phá. Tánh phá
hại này làm tổn hại đức "Bi" của mình. Người học Phật cần phải sửa đổi.
Như thế gọi là "Tu Tâm"
21. Vô Tàm: là không biết hổ.
22. Vô Quí:là không biết thẹn. Nghĩa là:
làm việc sái quấy, đối với lương tâm mình không biết hổ, đối với người
khác mình không biết thẹn. Thấy người Hiền không biết kính trọng, gặp việc
phải chẳng màng. Bởi làm việc quấy không sở người chê cười, nên tội ác mỗi
ngày càng thêm lớn. Người không biết hổ thẹn, thì không đủ tư cách làm
người, bị chúng khinh cười, không còn giá trị.
23. Điệu cử: là lao chao. Tâm tánh lao
chao không được trầm tĩnh. Nhiều khi thố lộ nơi thân: nhịp vế rung đùi,
đứng ngổi lật đật. Phát hiện nơi miệng: nói năng lấp bấp, cười cợt không
ngừng. Người tánh neat lao chao, thì không ra người lớn. Nếu người có tư
cách Đại nhơn, nhứt là nhà Tu sĩ, phải cố gắng hàng phục tâm điệu-cử này.
Nếu thắng được nó, thì mới trở nên người đàng hoàng, đứng đắn. Tu như thế
gọi là "Tu Tâm".
24. Hôn Trầm: là mờ mịt. Như trong lúc
chúng ta nghe kinh, ngồi nghe một hồi rồi mơ màng, ngủ không phải ngủ, vì
tai vẫn nghe nói pháp văng vẳn; nhưng không nghe rõ vị Giảng-sư nói gì.
Một tỷ-dụ khác: như trong lúc chúng ta ngồi yean, tưởng Phật hay niệm
Phật, tưởng niệm một hồi tâm mơ màng rồi ngủ gục, không còn biết tưởng
niệm gì nũa cả.; mặc dù tay đương lần chuỗi, miệng vẫn niệm Phật.
25. Tán Loạn: là rối loạn. Tâm nghĩ xằng
xiêng tản mát, phân biệt lăng xăng, rong ruỗi theo cảnh trần. Bởi tán loạn
nên tâm không định, vì tâm không định, nên không phát sanh trí huệ, do
không trí huệ, nên không đoạn được vô minh phiền não. Phiền não không đoạn
thì không bao giờ thành đạo, chứng quả được. Tỉ dụ như cái đèn bị gió xao,
không đứng yean, nên không sáng tỏ. Bởi không sáng tỏ, nên không phá trừ
tối tăm. Tâm tán loạn làm chướng ngại chánh định và huệ. Người học Phật
phải cố gắng dẹp trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm"
Thưa quý vị! Bạch Thế Tôn! Ba món tâm sở:
điệu cử (lao chao), hôn trầm (ngủ gục) và tán loạn này, in tuồng không hại
chi lắ; nhưng đối với người tu hành, nó rất chướng ngại! Ví trong khi tụng
kinh, niệm Phật, tham thiền, quán tưởng, thì phần nhiều bị tâm sở điệu cử
và tán loạn nổi lên: Nghĩ nhớ xằng xiêng, hết chuyện này đến chuyện khác.
Có khi những chuyện đã qua 5,10 măm về trước, song đến lúc tụng kinh, niệm
Phật, thì nó đua nhau khởi lên không sót một việc. Khi biết đó là tán
loạn, là vọng tưởng, hành giả liền dẹp trừ không tưởng đến, nhưng vừa bỏ
được chuyện này, thì nó khởi lên chuyện khác. Hoặc những việc làm ăn hằng
ngày, đến khi tụng kinh, niệm Phật nó lại nổi lên hết. Khi dẹp trừ tâm sở
tán loạn (vọng tưởng) vừa êm êm, thì tâm sở hôn trầm (ngủ gục) lại nổi
lên. Hành giả phải cố gắng để tâm, cử niệm, dẹp trừ được hôn trầm (ngủ
gục) thì tán loạn nổi lên…. Tán loạn, điệu cử và hôn-trầm 3 món tâm sở
này, thay nhau khuấy nhiễu người mới tập tu thiền, niệm Phật không ít.
Thắng được Bạch Thế Tôn! món tâm sở này không dễ, mà có thắng nó mới được
thành công. Hành giả phải trải qua một thời gian hơi lâu và dụng công
nhiều mới thắng được.
26. Phóng Dật: là buông lung, không biết
tự kềm thúc lấy mình. Tánh nghinh ngang không trọng kỷ luật, không giữ
giới pháp của mình đã thọ. Nói năng, giỡn cười tự do muốn làm gì thì làm,
người khuyên nhắc không nghe, nên ác nghiệp mỗi ngày càng tăng, phước lành
tổn giảm. Người đời vì tánh buông lung cở bạc rượu trà, ăn chơi phá tán,
nên nhiều khi của cải tiêu tan, thân thể bịnh hoạn. Người tu Phật, phải
dẹp trừ tánh buông lung này, thì tu hành mới được thành công. Tu như thế
gọi là "Tu Tâm"
Quý vị cũng nên phân biệt một chút, để cho
rõ hành tướng của Bạch Thế Tôn! món tâm sở này:
1.- Điệu cữ là tâm lao chao; 2- Tán loạn
là tâm vọng tưởng, rối loạn; 3- Phóng data là tâm buông lung. Tôi xin tỷ
dụ để cho rõ 3 món tâm sở này:
1.- như con ngựa cột ở trong chuồng, tuy
đứng một chỗ, nhưng đầu và mình vẫn lắc qua, lắc lại, như thế là dụ cho
tâm lao chao. 2- Con ngựa không còn bị cột đứng một chỗ nữa, nó chạy tới
chạy luui lăng xăng trong chuồng, như thế dụ cho tâm tán loạn. 3.- Đến lúc
ngựa tông chuồng, rong ruổi theo cái, hoặc phá hại khoai bắp của người
v.v…như thế dụ cho tâm buông lung. Hành tướng của Bạch Thế Tôn! món tâm
này, khác nhau như thế.
27. Bất Tín: là không tin. Không tin nhơn
quả tội phước, không tin giáo pháp chơn chánh của Thánh Hiền, không tin
điều hay lẽ phải. Vì không tin cho nên không làm, vì không tin cho nên
sanh ra biếng nhác, ưa thích những điều ô nhiễm, làm cho tâm tánh đen tối.
Hàng Phật-tử phải trừ tâm bất tín. Như thế gọi là "Tu Tâm"
28. Giải Đải: là biếng nhác, trễ nãi. Bất
luận việc nhỏ hay việc lớn, đều biếng nhác không muốn làm. Giả sử có làm
thì cũng sơ sài, cẩu thả hoặc nửa chừng rồi bỏ, làm chừng nào rồi cũng
được. Trong giới sĩ, nông, công, thương các nghề nghiệp, nếu người có tánh
giải đãi thì công việc khó thành, dầu có thành cũng không được tốt đẹp.
Người tu hành do dãi đãi nên lâu được thành đạo, chứng qua. Vô số kiếp về
trước, Phật Thích Ca va Đức Di Lặc, hai ngài đồng thời tu hành. Đức Thích
Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa nhờ tinh tấn mà
thành Phật trước Đức Di Lặc một tiểu kiếp. Ngài Di Lặc do giải đãi,nên
hiện nay vẫn còn lảm Bồ tát. Chúng ta phải trừ tánh giải đãi của mình, thì
sự tu hành mới chóng thành công đắc quả. Tu như thế gọi là "Tu Tâm".
29. Thất Niệm: là không nhớ. Nghĩa là
không chăm chú, để ý đến công việc làm của mình. Vì quên mà hư hỏng nhiều
việc lớn lao! Người tu thiền hoặc niệm Phật, vì không nhớ chánh niệm nên
vọng niệm dễ sanh. Bởi thế, người tu Phật phải định tâm, chú ý và dẹp trừ
thất niệm (quên chánh niệm). Như thế gọi là "Tu Tâm"
30. Bất Chánh Trí: là hiểu biết không
chánh đáng. Nghĩa là hiểu tà vạy, hiểu mê lầm. Vì hiểu lầm nên mới làm
sai; có khi cũng vì hiểu lầm mà phải xích mích với nhau. Thế nên người học
Phật, phải hiểu biết rõ ràng và chánh đáng. Khi tiếp xúc một việc gì, phải
phán đoán và suy xét cho kỹ, để tránh những sự hiểu lầm hoặc không chánh,
có thế mới tránh khỏi được những hành vi không hay. Biết sửa đổi như thế
gọi là "Tu Tâm". |