PHỤ LỤC TIỂU SỬ SƯ BỒ ÐỀ ÐẠT MA
Tổ thứ 28 Bồ
Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma) là người nước Quốc Hương, thuộc Nam Thiên Trúc
(Dekhan), tức Ấn Ðộ, con thứ ba của vua Chí Vương, dòng Sát đế lỵ, tên tục
là Bồ Ðề Ða La (Bodhitara).
Nhân đến Quốc
Hương thọ lễ cúng dường của nhà vua, Tổ thứ 27, Bát Nhã Ða La (Prajnâtara)
gặp Bồ Ðề Ða La, nhận thức ở vị hoàng tử này nhiều nét đặc biệt, mới thử
bảo cùng hai anh biện luận về chữ Tâm. Thấy Bồ Ðề Ða La phát minh được yếu
điểm của tâm, Tổ mới kêu đến và nói: "Hoàng tử đối với chư pháp đã được
thông lượng, mà Ðạt Ma có nghĩa là thông đạt rộng lớn, vậy hoàng tử nên
lấy tên là Bồ Ðề Ðạt Ma". Hoàng tử nhận và bái tổ thứ 27 làm thầy.
Nhớ lời Tổ dặn
phải xuất dương mới thành đạo nghiệp vĩ đại, Bồ Ðề Ðạt Ma vào độ gần tám
mươi tuổi xuống thuyền ra khơi Nam Hải. Triều nhà Lương bên Trung Quốc,
năm Phổ thông thứ 8, nhằm mồng một tháng mười năm Ðinh Mùi (520) sau
T.C.), thuyền đến Quảng Châu, thứ sử tỉnh nầy lấy lễ nghinh tiếp và dâng
biểu về triều báo tin. Lương Võ Ðế sai sứ đi thỉnh về thành đô là Kim
Lăng. Ðế hỏi:
- Trẫm từ lên
ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy
có công đức gì không?
Sư Ðạt Ma đáp:
- Ðều không có
công đức.
- Tại sao
không công đức.
- Bởi vì những
việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân
thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật.
- Vậy công đức
chân thật là gì?
- Trí phải
được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy
mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây
chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được.
Vua lại hỏi:
- Nghĩa tột
của thánh đế là gì?
- Một khi tỉnh
rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh.
- Ai đang đối
diện với trẫm đây?
- Tôi không
biết.
Sau câu chuyện
đối đáp này, Sư biết tâm vua không khế hợp được với pháp mình, vì vậy đến
ngày 19 tháng 10 năm ấy, Sư về Giang Bắc, rồi tới 22 tháng 11 lại sang Lạc
Dương. Ðến đời Hậu Ngụy, vua Hiếu Dương, năm Thái Hòa thứ 10, Sư lên Tung
Sơn vào chùa Thiếu Lâm, ngồi ngó vào vách, trọn ngày làm thinh. Người đời
không hiểu gì cả, gọi Sư là "Bích quán Bà la môn", nghĩa là ông Bà la môn
ngó vách.
Lúc bấy giờ có
một vị Tăng, tên là Thần Quang, học rộng hiểu nhiều. Nghe danh Sư, Thần
Quang đến Thiếu Lâm tự và đứng ngoài sân chùa chờ dịp yết kiến. Nhằm tiết
đông thiên (mồng 9 tháng chạp), đến đêm tuyết xuống như mưa, cao quá đầu
gối, Thần Quang vẫn trì chí đứng yên một chỗ. Sư thương tình, kêu hỏi:
- Ông đứng
trong tuyết lâu như thế, ý muốn cầu gì?
Thần Quang
khóc, bạch:
- Cúi xin Hòa
thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ quần sanh.
- Diệu đạo của
chư Phật phải nhiều kiếp tinh tấn, cần mẫn làm cho được những việc khó
làm, nhẫn cho được những điều khó nhẫn, hàng đức nhỏ, trí nông, lòng đầy
khinh khi, kiêu ngạo, há chịu nổi nhọc nhằn khổ cực sao mà muốn học phép
chân thừa.
Thần Quang
nghe Sư quở, bèn lấy dao bén, tự đọan cánh tay trái, để chứng minh lòng
thành khẩn cầu đạo của mình. Sư biết gặp được "pháp khí" (nghĩa là một khí
dụng tốt để truyền bá chánh pháp).
Bèn nói:
- Chư Phật,
lúc phát tâm cầu đạo, dám vì pháp bỏ thân, nay ông chặt tay trước mặt tội,
vậy ông muốn cầu gì?
Nói xong Sư
bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả.
Thần Quang
bạch:
- Có thể nghe
pháp ấn của chư Phật chăng?
- Pháp ấn của
chư Phật, không phải tùng người mà được.
- Nhưng tâm
tôi chưa được an bình thì làm thế nào? Xin Sư cho tâm tôi được an bình.
- Thì ông đưa
tâm đây. Sư đáp, ta sẽ cho.
- Tôi tìm tâm
mãi mà chưa được.
- Thế là ta đã
an tâm cho ngươi rồi.
Vua Hậu Ngụy
Hiếu Minh nghe Sư có nhiều sự lạ lùng, sai sứ đến triệu trước sau ba lần,
Sư đều từ không chịu xuống núi. Nhà vua càng đem lòng kính trọng và sai
người đem đến ban cho Sư hai áo cà sa và một bình bát bằng vàng. Sư cũng
từ ba phen, nhưng sau thấy nhà vua kiên tâm dâng cúng Sư mới nhận.
Chín năm trôi
qua, từ khi Sư đến Trung Quốc, Sư có ý muốn hồi hương, cho nên kêu các đệ
tử nói: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc
của mình".
Ðạo Phó bạch:
- Theo chỗ
thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn
tự.
Sư đáp:
- Ông được lớp
da của tôi rồi.
Tổng trì Ni
nói:
- Chỗ giải của
tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau
không thấy lại nữa.
Sư nói:
- Bà được phần
thịt của tôi rồi.
Ðạo Dục, một
đệ tử khác, bạch:
- Bốn đại vốn
không, năm uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp
nào khả được.
Sư đáp:
- Ông được bộ
xương của tôi rồi.
Rốt hết, tới
phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không
nói gì cả. Sư bảo:
- Ông được lớp
mỡ trong ống xương tôi rồi.
Rồi ngó Huệ
Khả, Sư nói tiếp:
- Xưa Như Lai
trao "Chánh pháp nhãn tạng" cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được
liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ,
luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi
nên khá biết.
Huệ Khả bạch:
- Thỉnh Sư chỉ
bảo cho.
Sư nói:
Trong, truyền
pháp ấn để khế chứng tâm; ngoài, trao cà sa để định tông chỉ. Ðời sau,
trong cảnh cạnh tranh, nếu có người hỏi ngươi con cái nhà ai, bằng vào đâu
mà nói đắc pháp, lấy gì chứng minh, thì ngươi đưa bài kệ của ta và áo cà
sa ra làm bằng. Hai trăm năm sau khi ta diệt rồi, việc truyền y dừng lại.
Chừng ấy, đâu đâu người hiểu đạo và nói lý rất nhiều, còn người hành đạo
và thông lý rất ít, vậy ngươi nên cố xiển dương đạo pháp, đừng khinh nhờn
những người chưa ngộ. Bây giờ hãy nghe bài kệ của ta;
Ngô bổn lai tư thổ,
Truyền pháp cứu mê tình.
Nhất hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch:
Ta
đến đây với nguyện,
Truyền pháp cứu người mê.
Một hoa nở năm cánh,
Nụ
trái trổ ê hề.
Sư lại nói
thêm: "Ta có bộ kinh Lăng Già bốn cuốn, nay cũng giao luôn cho ngươi, đó
là đường vào tâm giới, giúp chúng sanh mở được cửa kho tri kiến của Phật.
Ta từ Nam Ấn sang đến phương Ðông này, thấy Xích Huyện Thần Châu có đại
thừa khí tượng, cho nên vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người. Nhưng bao
nhiêu cuộc gặp gỡ không làm ta mất lòng, bất đắc dĩ phải ừ hử vậy thôi.
Nay được ngươi để truyền thọ y pháp, ý ta đã toại! Nói xong, Sư cùng đệ tử
đến chùa Thiên Thánh lưu lại ba hôm.
Có người tên
là Thành Thái, tự Dương Huyễn, sớm mộ phương tu thành Phật, đến hỏi:
- Nghe Sư bên
Tây Thiên, thừa tiếp pháp ấn làm Tổ, vậy xin dạy cho con biết con đường
đưa đến vị Tổ như thế nào?
Sư đáp:
- Sáng rõ Phật
là tâm, nói làm cho phù hợp, đó gọi là Tổ.
- Ngoài ra còn
gì không?
- Nên sáng tâm
người, biết rành kim cổ, chẳng chán có không, đối pháp chẳng nắm, chẳng
hiền chẳng ngu, không mê không ngộ. Giải được như thế, đáng xưng là Tổ.
Thành Thái lại
hỏi:
- Ðệ tử lấy
tâm quy y Tam bảo đã mấy năm rồi, nhưng trí huệ còn mù mờ, chân lý chưa
rõ. Nay nghe được một ít lời Sư, biết rằng đệ tử đã lầm lớn, cúi xin Sư từ
bi khai mở đường tu cho.
Sư biết lòng
Thành Thái đã đúng mức, liền nói bài kệ như sau:
Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm,
Diệc bất quán thiện nhi cần thố.
Diệc bất xả trí nhi cận ngu,
Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ.
Ðạt đại đạo hề quá lượng,
Thông đạt tâm hề xuất độ,
Bất dử thánh phàm đồng triền,
Siêu nhiên danh chi viết Tổ.
Dịch:
Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê,
Cũng đừng thấy lành mà ái mộ.
Cững đừng bỏ trí mà gần ngu,
Cũng đừng buông mê mà cầu ngộ.
Ðược vậy thì:
Ðến đại đạo rộng vô lượng,
Thông Phật tâm muôn cứu độ.
Chẳng ước thánh phàm sánh vai,
Vượt trên đối đải gọi là Tổ.
Thành Thái
nghe kệ nửa vui nửa xót, bạch:
- Xin Sư ở lâu
thế gian để hóa đạo quần chúng hữu tình.
- Ta sắp đi
đây, không thể ở lâu; người đời căn tánh muôn sai, ta đã gặp nhiều hoạn
nạn rồi.
- Ai làm hại
Sư, xin cho biết, đệ tử nguyện trừ.
- Ai đã đem bí
mật của Phật ra truyền để lợi ích quần mê, nay hại người để mình an, làm
sao có lý ấy đặng?!
- Sư chẳng
nói, lấy gì tiêu biểu cho sức thông biết khắp cùng của Sư?
Sư không đáp,
đọc một bài kệ sau đây có tính cách như một bài sấm:
Giang tra phân ngọc lãng,
Quản cự khai kim tỏa.
Ngũ khẩu tương cộng hành,
Cửu thập vô bỉ ngã.
Dịch:
Thuyền lướt, chia sóng ngọc,
Ðuốc nêu, mở khóa vàng.
Năm miệng đồng cùng khứ
Chín, mười hết ta, chàng.
Thành Thái
không hiểu gì cả, chỉ gắng ghi vào lòng rồi từ tạ lui gót.
Bài sấm của
Sư, đương thời không ai độ được, nhưng về sau đã phù nghiệm, như chúng ta
sẽ thấy.
Dưới thời nhà
Ngụy, kẻ anh tài chống lại với Thiền môn rất nhiều, nào Quang Thống luật
sư, nào Lưu Chi Tam Tạng... đều là bậc loan phụng trong hàng Tăng chúng.
Thấy Sư luôn luôn lấy tâm làm trọng, các vị đã cùng Sư luận nghị mấy phen,
nhiệt liệt ồn ào như ong vỡ tổ. Trong khi ấy, xa gần Sư đều cho nổi lên
một ngọn huyền phong và đổ xuống một trận mưa pháp, chan rải khắp nơi, kết
quả không sao lường được. Sự thành công vẽ vang này càng kích thích kẻ ác
gia tâm dùng thuốc độc hại Sư.
Trên thực tế,
Sư đã bị thuốc năm lần. Ðến lần thứ sáu, thấy sứ mệnh hoằng pháp đã hoàn
thành, công việc truyền pháp đã tìm ra người, Sư không tự cứu nữa, ngồi an
nhiên tịch diệt. Lúc ấy là năm Thái Hòa thứ 19 đời Hiếu Minh Hậu Ngụy,
nhằm ngày mồng 9 tháng 10 năm Bính Thìn, tức năm Ðại Thông thứ 2 triều nhà
Lương. Ðến ngày 18 tháng chạp cùng năm, nhục thể của Sư được nhập tháp tại
chùa Ðịnh Lâm, núi Hùng Nhĩ. Thật là đúng như lời sấm của Sư, câu "ngũ
khẩu tương cộng hành" có nghĩa là "ngô tương hành", vì ghép chử NGŨ trên
chữ KHẨU thì thành chữ NGÔ, và câu này có nghĩa là "Ta sẽ đi". Còn câu
chót "cửu thập vô bỉ ngã" quả là Sư đã nói trước ngày viên tịch: mồng chín
(cửu) tháng mười (thập).
Ba năm sau,
Tống Vân quan nhà Ngụy, đi sứ Tây Vực về, gặp Sư Ðạt Ma tại ngọn Thông
Lãnh. Thấy Sư tay cầm một chiếc dép, một mình đi mau như bay, Tống Vân
hỏi:
- Sư đi đâu
đó?
Sư đáp:
- Ta về Tây
phương.
Rồi Sư lại nói
thêm: "Chủ của Ông đã chán đời rồi".
Ngẩn ngơ, Tống
Vân từ giả Sư và hấp tấp về phục mạng, thì ra vua Minh Ðế đã thăng hà.
Tống Vân tâu việc gặp Sư lên vua Hiếu Trang mới tức vị. Vua ra lệnh quật
mồ. Trong quan tài không có gì cả, ngoài một chiếc dép da. Các quan lãnh
lịnh khám nghiệm hết sức kinh ngạc và thán phục. Vua sắc đưa chiếc dép của
Sư lưu lại về chùa Thiếu Lâm thờ. Ðến đời Khai Nguyên năm thứ 15 nhà
Ðường, nhằm năm Ðinh Mão hàng thiện tín lại dời báu vật về chùa Hoa
Nghiêm, đến nay không biết còn mất và ở đâu.
Tổ Bồ Ðề Ðạt
Ma được nhà vua phong là Viên Giác Thiền Sư, còn ngọn tháp của Tổ gọi là
Không Quán. Thiền tông Trung Hoa tôn Tổ làm Sơ Tổ.
CHÁNH TÍN (Viết theo sách Truyền Ðăng Lục) |