CỬA THỨ BA: NHỊ CHỦNG NHẬP
Phàm vào đạo
có nhiều đường nhưng nói cho cùng thì không ngoài hai đường này:
Một là lý
nhập.
Hai là hạnh
nhập.
I. LÝ NHẬP:
là mượn "giáo" để ngộ vào "tông", tin sâu rằng tất cả sanh linh đều chung
đồng một chân tánh, chỉ vì khách trần bên ngoài và vọng tưởng bên trong
che lấp nên chân tánh không hiển lộ được.
Nếu bỏ vọng về
chân, tinh thần ngưng trụ như vách đá (1) thì không thấy có ta có người,
thánh phàm một bực như nhau; nếu một bực kiên cố không lay chuyển, rốt
cùng không lệ thuộc vào văn giáo, được như thế tức ngầm hợp với lý, hết ý
niệm phân biệt.
Vô vi một cách
vắng lặng và hồn nhiên gọi là lý nhập
II. HẠNH NHẬP:
là nói về bốn hạnh, ngoài ra các hạnh khác đều bao gồm trong ấy.
Bốn hạnh là
gì?
- Một là báo
oán hạnh.
- Hai là tùy
duyên hạnh.
- Ba là vô sở
cầu hạnh.
- Bốn là xứng
pháp hạnh.
1. Sao gọi
là BÁO OÁN HẠNH?
Người tu hành
khi gặp cảnh khổ nên tự nghĩ như vầy:
"Ta từ bao
kiếp trước buông lung không học, bỏ gốc theo ngọn, trôi dạt theo vật chất,
nặng lòng thương ghét, gây hại không cùng. Ðời nay tuy ta không phạm lỗi,
nhưng nghiệp dữ đã gieo từ trước tới nay kết trái chín, điều ấy nào phải
do trời hoặc người tạo ra đâu, vậy ta đành nhẫn nhục chịu khổ đừng nên oán
trách".
Kinh nói: "Gặp
khổ không buồn.
Vì sao vậy? Vì
thấu suốt (luật nhân quả) vậy.
Khi tâm ấy đã
sanh (2) ấy là ứng hợp với lý.
Mượn oán mà
hành đạo nên nói là hạnh trả oán.
2. TÙY
DUYÊN HẠNH
Chúng sanh đều
do duyên nghiệp chuyển thành, chẳng có cái tôi. Mọi nỗi khổ vui đều do
nhân duyên sanh. Nếu nay được quả báo tốt, hưởng đủ vinh dự, ấy là do nhân
lành thuở trước cảm nên, nay mới được vậy. Hễ hết duyên thì lại hoàn
không, mừng vui nỗi gì? Ðược mất đều tùy theo duyên, nhưng tâm người không
vì vậy được thêm hoặc bớt mất.
Nếu thấu đáo được vậy thì gió vui chẳng động, lặng lẽ mà thuận đạo, nên
nói là hạnh tùy thuận theo duyên nghiệp.
3. VÔ SỞ
CẦU HẠNH
Người đời mãi
đắm mê, việc gì cũng tham trước thế gọi là cầu.
Bậc trí ngộ
được lẽ chân, chuyển ngược thế tục, nên tâm an trụ ở vô vi, thân hình tùy
nghi vận chuyển.
Muôn vật đều là không, có gì vui mà cầu được.
Hể
có công đức thì liền có hắc ám đuổi theo.
Có
thân ắt khổ, được gì mà vui?
Ở
lâu trong ba cõi khác nào như trong nhà lửa.
Có
thân ắt khổ, được gì mà vui?
Thông suốt
được như vậy, ắt buông hết sự vật, dứt tưởng chẳng cầu.
Kinh nói: "Còn
cầu còn khổ. Hết cầu mới được vui".
Xét biết không
cầu mới thực là đạo hạnh, nên nói là hạnh không cầu mong.
4. XỨNG
PHÁP HẠNH
Cái lý thanh
tịnh của tự tánh gọi là pháp.
Tin hiểu lý ấy
thì mọi hình tướng hóa thành không, không nhiễm không trước, không bỉ,
không thử.
Kinh nói: Pháp
không có chúng sanh, hãy lìa chúng sanh cấu. Pháp không có tướng ngã, hãy
lìa ngã cấu.
Bậc trí tin
hiểu được vậy thì tùy xứng theo pháp mà hành.
Bổn thể của
Pháp vốn không tham lẫn, cho nên dù đem thân mạng và của cải ra bố thí vẫn
không hối tiếc. Thấu rõ ba cái không (3) thì không còn ỷ lại và chấp
trước. Chỉ cần gạn trừ trần cấu, tùy nghi giáo hóa chúng sanh, nhưng không
mắc phải hình tướng, thế là tự hành, đã lợi người lại thêm trang nghiêm
đạo Bồ đề. Bố thí đã vậy thì năm độ (Bát nhả) khác cũng thế. Vì dứt trừ
vọng tưởng mà hành phép tu sáu độ, nhưng thật không có gì gọi là hành cả
nên nói là hành tùy xứng theo pháp. Kệ rằng:
Ngoại tức chư duyên,
Nội tâm vô đoạn.
Tâm như tường bích,
Khả dĩ nhập đạo.
Minh Phật tâm tông,
Ðẳng vô sai ngộ.
Hành giải tương ưng,
Danh chi viết tổ.
Nghĩa:
Ngoài bứt muôn duyên,
Trong bặt nghĩ tưởng.
Tâm như tường vách,
Mới là vào đạo.
Sáng Phật tâm tông, (4)
Thảy không sai ngộ.
Lấy hiểu hợp nhau,
Ấy
gọi là Tổ.
GHI CHÚ:
(1) Nguyên
văn: ngưng trụ bích quán có nghĩa là lắng đọng trong cái định bích quán,
cái định ấy không khác gì hơn là Tổ sư Thiền.
(2) Khi có
được tư tưởng ấy.
(3) Ba không:
không người cho, không người nhận, không vật bị cho; nói chung thì không
ngã, không nhân, không vật mà chỉ có hành động.
(4) Lấy tâm
Phật làm tông chỉ, tức là Thiền, đối với các pháp môn khác lấy lời nói của
Phật làm tông chỉ gọi là Phật ngữ tông. |