CỬA THỨ SÁU: HUYẾT MẠCH LUẬN
Ba cõi dấy lên
cùng về một tâm.
Phật trước
Phật sau đều lấy tâm truyền qua tâm, chẳng lập văn tự.
Hỏi: Nếu chẳng
lập văn tự thì lấy gì làm tâm?
Ðáp: Ngươi hỏi
ta, tức đó là tâm ngươi.
Ta đáp ngươi,
tức đó là tâm ta.
Ta đáp ngươi,
tức đó là tâm ta
Nếu ta không
tâm, nhân đâu giải đáp cho ngươi.
Nếu người
không tâm, nhân đâu thưa hỏi ta.
Hỏi ta, tức là
tâm ngươi đó.
Từ vô số kiếp
kiếp âm u đến nay, tất cả hành vi động tác nào, bất cứ thời nào, bất cứ
nơi đâu, đều do nơi bồn tâm của ngươi, do nơi bổn Phật của ngươi. Nói tâm
là Phật thì cũng như vậy đó.
Trừ tâm ấy ra,
quyết không có Phật nào khác chứng được.
Lìa tâm ấy ra
mà tìm Bồ đề Niết bàn, không đâu có được.
Cái chân thật
của tự tánh chẳng phải nhân chẳng phải quả.
Pháp tức là ý
nghĩa của tâm.
Tự tâm là Bồ
đề.
Tự tâm là Niết
bàn.
Nếu nói ngoài
tâm có thể chứng được Phật cùng Bồ đề Niết bàn, điều ấy không đâu có được.
Phật và Bồ đề
ở tại đâu?
Ví như có
người dang tay đón bắt hư không, có thể nắm được không? Hư không chỉ là
một tên gọi, tuyệt không tướng mạo, nên nắm chẳng được, buông chẳng được:
không thể bắt cái không vây.
Cũng vậy, trừ
tâm ấy ra tìm Phật, rốt chẳng tìm được.
Phật là tự tâm
tạo nên. Sao lại lìa tâm tìm Phật. Cho nên Phật trước Phật sau chỉ nói đến
tâm.
Tức tâm là
Phật.
Phật tức là
tâm.
Ngoài tâm
không Phật.
Ngoài Phật
không tâm.
Nếu nói ngoài
tâm có Phật, Phật ở nơi nào?
Ngoài tâm vốn
không Phật, sao còn vọng thấy Phật, lại lần lượt phỉnh gạt nhau, đã không
rõ suốt tâm mình lại còn bị ngoại vật vô tình thâu nhiếp đến không còn
chút tự do phân biệt nữa.
Nếu ngươi vẫn
không tin điều ấy, là tự ngươi phỉnh gạt ngươi chứ có ích gì.
Phật không lầm
lỗi.
Chỉ vì chúng
sanh điên đảo nên không tự giác tự tri được chính tâm mình là Phật.
Nếu biết tâm
mình là Phật, thì chẳng nên tìm Phật ngoài tâm.
Phật chẳng độ
Phật.
Ðem tâm tìm
Phật tức không hiểu Phật.
Kẻ nào tìm
Phật ở ngoài, kẻ ấy hoàn toàn chẳng biết tâm mình là Phật.
Cũng đừng đem
Phật ra lạy Phật.
Ðừng đem tâm
ra niệm Phật.
Phật chẳng
tụng kinh.
Phật chẳng giữ
giới.
Phật chẳng
phạm giới.
Phật chẳng giữ
chẳng phạm, cũng chẳng tạo lành, tạo dữ.
Nếu muốn tìm
Phật phải cần thấy tánh.
Tánh tức Phật.
Nếu chẳng thấy
tánh thì chay lạt, giữ giới đều vô ích.
Niệm Phật thì
được nhân tốt.
Tụng kinh thì
được thông minh.
Giữ giới thì
được sanh lên cõi trời.
Bố thí thì
được phước báo.
Nhưng tìm Phật
bằng những cách ấy quyết chẳng được vậy.
Nếu tự mình
không sáng tỏ, cần tham vấn các bậc thiện trí thức để thấu rõ nguồn gốc
sanh tử.
Nếu không thấy
tánh thì chẳng được gọi là thiện trí thức.
Nếu chẳng được
vậy thì phỏng có giảng nói được mười hai bộ kinh vẫn không thoát khỏi vòng
sanh tử, vẫn chịu nỗi khổ trong ba cõi không hẹn ngày ra.
Xưa có Tỳ kheo
Thiện Tinh (1) tụng làu làu mười hai bộ kinh, nhưng vẫn không thoát sanh
tử luân hồi, chỉ vì không thấy tánh. Thiện Tinh kia còn vậy, huống nữa
người đời nay mới giảng được năm ba bộ kinh đã coi đó là pháp Phật thì là
kẻ ngu vậy.
Nếu không thấu
rõ được tự tâm thì tụng đọc kinh sách gì cũng chỉ là hư văn, không dùng
vào đâu được.
Nếu cốt tìm
Phật, trực tiếp cần thấy tánh.
Tánh tức là
Phật.
Phật là người
tự tại, là người vô tác.
Nếu không thấy
tánh thì suốt ngày lăng xăng cầu cạnh, tìm kiếm Phật ở ngoài, đời nào gặp
được, dù rằng rốt cuộc không một vật nào khá hơn.
Nếu cần thông
hiểu nên tham vấn bậc thiện trí thức, nên thiết tha mà tu, công khó mà
cầu, đem tâm hội giải lớn vấn đề lớn về sanh tử, đừng bỏ trôi suông, tự
phỉnh mình vô ích.
Ví châu báu
chất cao như núi, bà con nhiều như cát sông Hằng, mở mắt thấy đó, nhắm mắt
thấy gì đâu? Mới hay mọi pháp hữu vi đều là mộng mị. Nếu chẳng gấp tìm
thầy, ắt uổng kiếp sống buông xuôi trong khi tánh Phật mình vẫn sẵn có.
Nếu không nhờ
thầy, quyết chẳng sáng tỏ được.
Không thầy mà
ngộ, điều ấy hiếm lắm.
Nếu tự mình
nhờ cơ duyên tốt mà thông suốt được thánh ý, đó là hàng thắng học, sanh ra
đã biết.
Nếu chưa thông
rõ, nên siêng năng khổ học, nương theo giáo phương (2) để chứng ngộ.
Nếu tự mình
sáng tỏ được thì chẳng cần học, khác với kẻ mê trắng đen không phân rõ lại
còn lếu láo tuyên lời Phật dạy, báng Phật chê pháp. Các vị ấy nói pháp như
mưa: đó là ma nói, chẳng phải Phật nói. Thầy là vua ma, học trò là dân ma.
Kẻ mê mặc sức
múa máy theo người, phút chốc đọa sanh tử. Ðó là những người không thấy
tánh xưng càn là Phật. Hạng chúng sanh ấy phạm tội lớn, phỉnh gạt tất cả
chúng sanh đưa vào vòng ma giới.
Nếu không thấy
tánh thì dù giỏi nói mười hai bộ kinh vẫn là ma nói. Ðó là hàng bà con của
nhà ma, chẳng phải học trò của nhà Phật.
Ðã chẳng phân
rõ trắng đen, bằng vào đâu mà thoát sanh tử?
Nếu thấy tánh
tức là Phật.
Không thấy
tánh tức là chúng sanh.
Nếu lìa tánh
chúng sanh thì không có tánh Phật nào khác chứng được.
Phật nay tại nơi đâu?
Tánh chúng
sanh tức là tánh Phật vậy.
Ngoài tánh
không Phật.
Phật tức là
tánh.
Trừ tánh ấy
ra, không Phật nào có được.
Ngoài Phật,
không tánh nào có được.
Hỏi: Nếu không
thấy tánh thì niệm Phật, tụng kinh, bố thí, giữ giới, tinh tấn, rộng ban
điều phước lợi có thành Phật được không?
Ðáp: Không
được.
Lại hỏi: Sao
không được?
Ðáp: Nếu có
chút pháp nào chứng được thì đó là pháp hữu vi - pháp nhân quả, pháp thọ
báo, pháp luân hồi. Không sáng tỏ lẽ sống chết, đời thuở nào thành được
Phật đạo?
Thành Phật cần
thấy tánh.
Nếu không thấy
tánh thì nói gì về nhân quả vẫn chỉ là pháp ngoại đạo.
Nếu là Phật, chớ tập pháp ngoại đạo.
Phật là người
không nghiệp, không nhân quả.
Nói có chút
pháp nào đó có thể thành được quyết là phỉ báng Phật. Dựa vào đâu mà thành
được chứ? Ðó là sự chấp trước ở một "tâm", một "năng", một "giải", một
"kiến", điều ấy Phật có hứa bao giờ đâu.
Phật không
giữ, không phạm giới.
Tâm tánh vốn
không cũng chẳng dơ sạch.
Các pháp đều
không tu không chứng, không nhân không quả.
Phật chẳng giữ
giới.
Phật chẳng tu
hành.
Phật chẳng tạo
dữ.
Phật chẳng
tinh tấn
Phật chẳng
biếng lười.
Phật là người
vô tác.
Cho nên đem
tâm trụ trước ra thấy Phật, không đâu hứa có vậy.
Phật chẳng là
Phật.
Nếu không thấy
được nghĩa ấy thì bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, đều không tỏ được bổn tâm.
Nếu không thấy
tánh thì bất cứ lúc nào, bất cứ nghĩ gì hoặc không nghĩ gì, đều là kẻ đại
tội, là người si, đắm giữ cái không vô ký, ngầy ngật như người say, chẳng
rõ phân tốt xấu.
Nếu muốn tu
pháp vô tác, trước cần thấy tánh, sau đó tự nhiên dứt lo.
Nếu không thấy
tánh mà thành được Phật đạo, không đâu có được.
Có người phá
bỏ lẽ nhân quả, thẳng tay tạo nghiệp dữ, nói càn tất cả là không, tạo ác
không gì hơn, hạng người ấy đọa địa ngục vô gián mãi mãi không hẹn ngày
ra.
Nếu là người
trí, chớ có lối kiến giải như vậy.
Hỏi: Nếu trong
bất kỳ lúc nào, bất cứ cử chỉ hành động nào cũng đều là tự tâm, sao trong
khi mang sắc thân vô thường này tôi không thấy được bổn tâm?
Ðáp: Bổn tâm luôn ở trước mắt, tại ngươi không chịu thấy?
Hỏi: Tâm ở
trước mất sao tôi không thấy?
Sư hỏi: Ngươi
thường nằm mộng chứ?
Ðáp: Thường
nằm mộng.
Hỏi: Trong khi
ngươi nằm mộng thì đó là bổn thân ngươi chứ?
Ðáp: Ðúng là
bổn thân tôi.
Lại hỏi: Lời
nói và việc làm của ngươi trong lúc ấy có khác hay chẳng khác với chính
ngươi?
Ðáp: Chẳng
khác.
Sư nói: Nếu
chẳng khác thì thân ấy tức là pháp thân ngươi, pháp thân ấy tức là bổn tâm
ngươi.
Tâm ấy từ vô
số kiếp đến nay vẫn y như hiện giờ, chẳng sai khác, chưa từng có sống
chết, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thêm chẳng bớt, chẳng sạch chẳng dơ,
chẳng tốt chẳng xấu, chẳng qua chẳng lại, cũng không phải trái, cũng không
tướng nam nữ, cũng không tăng tục, già trẻ, không thánh phàm, cũng không
Phật không chúng sanh, không tu chứng, không nhân quả, không gân cốt,
không tướng mạo, giống như hư không , nắm chẳng được, bỏ chẳng được, núi
sông tường đá không ngăn nổi, ẩn hiện qua lại thần thông tự tại, vượt núi
ngũ uẩn, qua dòng sanh tử, không một nghiệp nào trói buộc được pháp thân
ấy.
Tâm ấy vi diệu
khó thấy.
Tâm ấy chẳng
giống sắc tâm.
Chính từ trong
ánh sáng của tâm ấy ứng dụng lên tất cả hành động, tay đưa chân bước.
Cũng như hỏi
về số cát sông Hằng thì ai trả lời được, đành trơ như người gỗ. Cũng vậy,
tâm là thọ dụng của chính ngươi, sao ngươi không biết lại đi hỏi người
khác.
Phật nói: Tất
cả chúng sanh đều là người mê, do đó tạo nghiệp đọa vào dòng sanh tử, muốn
thoát ra lại chìm xuống, chỉ vì không thấy tánh.
Ví chúng sanh
không mê sao lại thắc mắc hỏi làm gì chuyện ấy không một ai giải đáp được?
Tự tay mình đưa, chân mình bước sao mình không biết?
Mới hay thánh
nhân chẳng sai lầm, chỉ tại người mê không tự sáng tỏ được.
Mới hay lẽ khó
tường ấy, chỉ mình Phật mới hiểu nổi, ngoài ra tất cả người, trời và các
loài chúng sanh đều không sáng tỏ được.
Nếu trí huệ
chiếu sáng tâm ấy, cũng gọi là pháp tánh, cũng gọi là giải thoát, mới hay
tâm ấy không bị sanh tử buộc ràng, không một pháp nào trói mắc được, nên
gọi là Ðại Tự Tại Vương Như Lai, cũng gọi là Bất Tư Nghị, cũng gọi là
Thánh Ðế, cũng gọi là Trường sanh bất tử, cũng gọi là Ðại Tiên; tên gọi
tuy khác nhau, bổn thể vẫn là một.
Thánh nhân
phân biệt tất cả mà vẫn không lìa tự tâm.
Sức chứa rộng
lớn của tâm ứng dụng không cùng: ứng vào mắt thấy màu, ứng vào tai nghe
tiếng, ứng vào mũi ngửi mùi, ứng vào lưỡi biết vị, cho đến bất cứ cử động
nào cũng đều là tự tâm cả.
...Sắc thân
bốn đại tức là phiền não. Phàm là sắc thân phải chịu sanh diệt.
Pháp thân thường trụ, nhưng không chỗ trụ. Pháp thân Như lai hằng còn
không đổi khác, nên kinh nói: Chúng sanh nên biết bổn tánh Phật vốn sẵn tự
có đủ đó,
Ca Diếp chính là người ngộ được bổn tánh này.
Bổn tánh tức
là tâm.
Tâm tức là
tánh.
Tức chung đồng
với tâm chư Phật.
Phật trước
Phật sau chỉ truyền tâm ấy.
Trừ tâm ấy ra,
không Phật nào có thể được.
Chúng sanh
điên đảo không biết tự tâm là Phật, cứ hướng ngoài cầu cạnh giữ gìn, suốt
ngày lăng xăng niệm Phật lạy Phật. Phật tại nơi đâu? Ðừng nên có những lối
thấy như vậy.
Chỉ cần biết
tự tâm.
Ngoài tâm: rốt
không có Phật nào khác.
Kinh nói: Phàm
cái gì có tướng đều là dối trá.
Lại nói: chính
tại nơi đây mới là có Phật.
Tự tâm là
Phật.
Ðừng nên đem
Phật lễ Phật như vậy.
Ví bỗng dưng
hiện ra trước mắt tướng mạo Phật cùng Bồ tát, quyết đừng nên kính lạy.
Tâm mình vốn
không tịch, không hề có những tướng mạo ấy.
Nếu giữ tướng
tức là ma, rơi vào nẻo tà, chẳng qua đó là những bóng dáng do tâm dấy lên,
đừng nên lễ lạy.
Người lạy ắt
không biết.
Người biết ắt
không lạy.
Lại ắt bị ma
hớp. Sợ người học không hiểu nên ta giải rõ như vậy.
Trên thể tánh
của chư Phật Như lai đều không có những tướng mạo ấy.
... Tâm mình
vốn thanh tịnh: không đâu có thể có những tướng mạo như trên. Cho đến các
loại tướng của thiên long, dạ xoa, quỷ thần, Ðế thích, Phạm vương cũng chớ
nên đem lòng kính trọng, cũng chớ sợ sệt.
Tâm mình vốn
không tịch. Tất cả tướng mạo đều là vọng tưởng. Chớ nên giữ tướng.
Nếu mống lòng
thấy Phật, thấy pháp cùng các thứ tướng mạo của Phật, Bồ tát khởi lòng
kính trọng, đó là tự mình đọa vào địa vị của chúng sanh.
Hỏi: Tại sao
không nên bái lạy chư Phật và Bồ tát?
Ðáp: Các loài
thiên ma ba tuần, a tu la cũng có thể dùng phép thần thông tạo ra tướng
mạo Bồ tát, biến hóa đủ cách, toàn là ngoại đạo, nào phải là Phật đâu.
Phật là tự tâm, chớ lầm bái lạy.
Phật là tiếng
của nước Tây Thiên Trúc (Ấn Ðộ), tại đây (Trung Quốc) gọi là giác tánh.
Giác tức là
linh giác: ứng đối với cơ duyên, tiếp xúc với sự vật (ứng cơ tiếp vật).
Ngẩng mày nheo mắt, cử động tay chân, đều do tánh linh giác của chính
mình.
Tánh tức là
tâm.
Tâm tức là
Phật.
Phật tức là
đạo.
Ðạo tức là
thiền.
Chỉ một chữ
thiền, thánh và phàm chẳng suy lường nổi.
Thấy thẳng
tánh mình thì gọi là thiền.
Nếu chẳng thấy
tánh, tức không phải thiền.
Dù có giỏi nói
được ngàn kinh muôn luận mà không thấy tánh thì vẫn là phàm phu, chẳng
phải là pháp Phật.
Ðạo lớn kín
sâu, không thể nói cho hiểu.
Kinh điển dựa
vào đâu nói tới?
Chỉ cần thấy
tánh dù không biết một chữ vẫn được đạo.
Thấy tánh tức
là Phật.
Thánh thể xưa
nay vốn thanh tịnh, chẳng có sạch dơ.
Sở dĩ có lời
nói là vì thánh nhân nương theo tâm mà khởi dụng.
Dụng chỉ là
một danh từ trống không. Lời nói kia còn chưa đạt tới thì mười hai bộ kinh
bằng vào đâu đạt tới?
Ðạo tự nó viên
thành, chẳng dùng tu chứng.
Ðạo chẳng phải
thanh sắc nên vi diệu khó thấy.
Cũng như người
uống nước, nóng lạnh tự mình biết, cũng vậy ta không thể hướng về người
khác nói ra.
Chỉ Như Lai là
thông suốt, ngoài ra các bậc người và trời đều không hiểu thấu.
Trí óc phàm
phu vói không đến, do đó mới chấp tướng, chẳng biết tâm mình xưa nay vốn
không tịch.
Vọng chấp
tướng cùng mọi pháp tức rơi vào ngoại đạo. Ví biết muôn pháp đều theo tâm
sanh, ắt không nên chấp như thế. Chấp tức chẳng biết.
Nếy thấy được
bổn tánh thì mười hai bộ kinh hóa thành chữ nghĩa suông.
Ngàn kinh muôn luận cốt mở sáng tâm.
Nếu thoắt nghe
đã hợp nhau rồi thì "giáo" còn dùng làm gì?
Nói cho cùng
lý: giáo là lời nói, thật chẳng phải đạo.
Ðạo vốn không
lời.
Lời nói là
vọng.
...Nếu thấy
được tánh thì chẳng cần đọc kinh niệm Phật.
Học rộng biết
nhiều nào có ích gì.
Vì lẽ để
chuyển hôn mê cho thần thức nên mới có "giáo", lập ra cốt tiêu biểu cho
tâm.
Nếu ý thức
được tâm thì coi giáo làm gì.
Thánh nhân
sống tự tại ngay giữa dòng sanh tử, ẩn hiện vào ra không định trước, không
nghiệp nào trói buộc được.
Thánh nhân phá
tà ma. Tất cả chúng sanh chỉ cần thấy tánh thì mọi dư tập đều tiêu diệt
tức thì, thần thức hết mờ; chỉ cần tiếp nhận thẳng là lãnh hội ngay; muốn
thực lãnh hội đạo, chỉ cần tại đây, như bây giờ đừng chấp vào một pháp
nào, cần dứt nghiệp dưỡng thần, thì dư tập cũng hết theo và tự nhiên trắng
rõ chẳng cần dụng công phu.
Ngoại đạo
không lãnh hội được ý Phật, dụng công nhiều quá, trái với thánh ý, suốt
ngày lững đững niệm Phật, chuyển kinh, làm cho thần tánh mê mờ, chẳng khỏi
luân hồi.
Phật là người
an nhàn.
Ích gì bôn ba
khắp nơi cầu danh lợi, để sau này dùng làm gì? Chỉ những người không thấy
tánh mới khư khư lo tụng kinh niệm Phật, tinh tấn học hoài, đêm ngày hành
đạo, ngồi mãi không nằm, học rộng nghe nhiều, lấy đó làm pháp Phật, đó
toàn là hạng người chê Phật chê pháp.
Phật trước
Phật sau chỉ nói thấy tánh.
Muôn vật đều
vô thường.
Nếu không thấy
tánh lại nói càn rằng "ta được quả chánh đẳng chánh giác", ấy là kẻ đại
tội.
Trong hàng
mười đệ tử lớn của Phật, ngài A Nan là "đệ nhất đa văn", ở với Phật mà
không thông hiểu gì hết, chỉ cốt học nhiều.
Hạng Thanh văn
và Duyên giác, cùng ngoại đạo cũng không hiểu Phật, chấp vào mấy từng tu
chứng, đọa vào nhân quả, chịu báo chúng sanh, không tỏ sanh tử, đi ngược ý
Phật, đó là chê bai Phật, tội không gì hơn.
Kinh nói:
Người xiển đề không phát sanh tín tâm, tội không gì hơn.
Ai có tín tâm, tức kẻ ấy là Phật ở địa vị người.
Lành dữ tự
nhiên, nhân quả phân rõ, thiên đường địa ngục chỉ ở trước mắt.
Người tu không tin, hiện tại mắc giữa địa ngục tối đen mà vẫn không hay
biết, vì duyên nghiệp nặng nề, do không có tín tâm. Tỉ như người mù không
tin có ánh sáng. Ví có ai nói cho nghe cũng không tin, chỉ vì họ mù mắt,
nên bằng vào đâu mà nhận có ánh sáng mặt trời? Kẻ ngu cũng như vậy. Hiện
tại, họ đọa làm thân súc sanh đủ loại, sanh ở nơi nghèo cùng, thấp hèn,
cầu sống không được, cầu chết không xong. Mặc dù chịu khổ như vậy, mà hỏi
đến thì nói rằng ta nay rất vui khoái lắm, khác gì ở thiên đường. Mới biết
tất cả chúng sanh đều lấy lối sống khổ làm vui mà không hay biết gì, chỉ
vì nghiệp chướng nặng nề, nên không thể phát tín tâm, không thể tự mình mà
chỉ do người.
Nếu thấy tâm
mình là Phật thì không cần cắt tóc cạo râu.
Hàng áo trắng
(1) vẫn là Phật.
Nếu không thấy
tánh, cắt tóc cạo râu, vẫn là ngoại đạo.
Hỏi: Hàng áo
trắng có vợ con, dâm dục không trừ, bằng vào đâu thành Phật được?
Ðáp: Tôi chỉ
nói thấy tánh, chẳng nói dâm dục. Chỉ cần thấy được tánh mới vỡ lẽ rằng từ
vô thỉ dâm dục vẫn là không tịch, chẳng có gì phải dối trá dứt trừ, mà
cũng chẳng mắc vào dục lạc. Tại sao vậy? Vì tánh của mình vốn thanh tịnh,
dù nó trụ ở sắc thân năm uẩn. Tánh ấy bổn lai thanh tịnh, không gì có thể
nhuốm dơ được. Pháp thân bổn lai tự nó có, không do ai ban cho, không đói
khát, không lạnh nóng, không bịnh, không ân ái, không bà con, không khổ
vui, không xấu tốt, không dài ngắn, không mạnh yếu. Bổn lai không một vật
nào khá được, vì chấp có sắc thân này nên mới có đủ tướng nóng lạnh, đói
khát, chứng bịnh đủ thứ. Nếu chẳng chấp thì mặc tình đi đứng, được tự tại
giữa dòng sống chết, chuyển vận tất cả pháp, cùng với thánh nhân tự tại vô
ngại như nhau, không đâu chẳng an.
... Nếu thấy
tánh, chiên đà la (2) cũng thành Phật được.
Hỏi: Chiên đà
la gây nghiệp giết chóc, sao gọi là thành Phật được?
Ðáp: Tôi nói
thấy tánh, chẳng nói gây nghiệp. Tuy nghiệp gây ra chẳng đồng nhau, nhưng
dù sao vẫn không một nghiệp nào ràng buộc được "nó" (tánh). Từ vô lượng
kiếp đến nay, vì không thấy tánh nên đọa vào địa ngục, do gây nghiệp sanh
tử luân hồi.
Nếu ngộ được
bổn tánh, rốt cùng vẫn không có gì gọi là gây nghiệp.
Nếu không thấy tánh thì niệm Phật, rõ báo kia còn chẳng được, huống nữa
luận về chuyện giết mạng sống.
Nếu thấy được
tánh thì mọi ngờ vực trong tâm phút chốc trừ ngay, thì việc giết mạng sống
còn nêu lên làm sao được?
Trời Tây hăm
tám Tổ sư Thiền đều lần lượt truyền tâm ấn cho nhau.
Ta nay tới xứ
này cũng chỉ vì truyền một tâm ấy không luận về giới thí, tinh tấn, khổ
hạnh, cả đến việc vào nước lửa, lên lưỡi gươm, chay lạt ngày một lần, ngồi
hoài không nằm, thảy thảy chỉ là pháp hữu vi của ngoại đạo.
Ví ý thức được
tánh linh giác của chính mình trong mọi cử động hành vi, tức ý thức được
tâm Phật.
Phật trước
Phật sau chỉ nói pháp truyền tâm, ngoài ra không pháp nào khác. Nếu thấu
rõ pháp ấy thì phàm phu ngu dốt không biết một chữ cũng vẫn là Phật.
Nếu không thấu
rõ tánh linh giác của chính mình thì dù đem thân nầy nghiền nát ra thành
vô số bụi bặm để cầu tìm Phật, rốt chẳng được vậy.
Phật ấy cũng
gọi là pháp thân, cũng gọi là bổn tâm.
Tâm ấy không
có hình tướng, không nhân quả, không gân cốt,tợ như hư không, không thể
nắm được, không chung đồng với vật chất, với ngoại đạo.
Tâm ấy chỉ
mình Như lai lãnh hội được, kỳ dư không ai sánh tỏ nổi.
Tâm ấy không
lìa ngoài sắc thân bốn đại.
Nếu lìa tâm
ấy, tức không còn vận động gì được, vì đó là thân vô tri, khác gì cây cỏ
ngói gạch.
Thân đã là vô
tình, làm sao vận động được?
Nếu tự tâm
động, thì tất cả mọi ngữ ngôn, mọi hành vi cử động, mọi điều thấy nghe cảm
biết đều là tâm động.
Tâm động dụng động,
Ðộng tức là dụng.
Ngoài động không tâm,
Ngoài tâm không động.
Ðộng chẳng là tâm,
Tâm chẳng là động.
Ðộng vốn không tâm,
Tâm vốn không động.
Ðộng chẳng lìa tâm,
Tâm chẳng lìa động.
Ðộng không tâm lìa,
Tâm không động lìa.
Ðộng là tâm dụng,
Dụng là tâm động.
Tức động tức dụng,
Chẳng động chẳng dụng.
Dụng thể vốn không,
Không vốn không động.
Ðộng dụng đồng tâm,
Tâm vốn không động.
Nên kinh nói:
Ðộng mà không có sở động.
Bởi vậy:
- Suốt ngày
thấy mà chưa từng thấy.
- Suốt ngày
nghe mà chưa từng nghe.
- Suốt ngày
cảm mà chưa từng cảm.
- Suốt ngày
ngày biết mà chưa từng biết.
- Suốt ngày
đi, ngồi mà chưa từng đi, ngồi.
- Suốt ngày
hờn vui mà chưa từng hờn vui.
Nên kinh nói:
Lời nói làm cho đạo dứt, tâm động làm cho giác ngộ tiêu (ngôn ngữ đạo
đoạn, tâm hành xứ diệt).
Thấy, nghe,
cảm, biết vốn tự nó viên tịch, cho đến mọi niềm giận vui cũng vậy.
... Nếu biết
giận vui vẫn là tánh không thì chỉ cần đừng chấp tức thoát khỏi mọi
nghiệp.
Nếu tụng kinh
mà không thấy tánh, điều ấy quyết không bằng vào đâu cả, mà nói mấy vẫn
không cùng.
Nếu sợ lẽ
chánh tà trên, chẳng qua chỉ đôi phần thôi vậy.
Xin nói bài
tụng vầy:
1.- Ngô bổn lai tư thổ,
Truyền pháp cứu mê tình.
Nhất hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.
Ta
cốt qua Trung thổ,
Truyền pháp cứu mê tình.
Một hoa năm cánh trổ,
Tự
nhiên trái kết thành. (3)
2.- Giang tra phân ngọc lãng,
Quảng cự khai kim tỏa.
Ngũ khẩu tương cộng hành,
Cửu thập vô bỉ ngã.
Bè
lau rẽ sóng ngọc,
Ðuốc sáp mở khóa vàng.
Năm miệng cùng nhau bước,
Chín mười không ta người. (4)
GHI CHÚ:
(1) Áo trắng:
người tu tại nhà.
(2) Chiên đà
la: hạng hèn mạt ở Ấn độ, coi như thú vật, ai thấy cũng phải tránh sa sợ
nhiễm dơ, chuyên sống về nghề hàng thịt, giết trâu bò.
(3) Bài kệ này
báo trước hậu vận của đạo Thiền. Một hoa (hoa Ấn độ) là Bồ Ðề Ðạt Ma; năm
cánh (cánhTrung hoa) là năm vị tổ kế tiếp truyền tâm ấn Phật: Huệ Khả,
Tăng Xán, Ðạo Tín, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng. Sau Huệ Năng là thời kỳ "tự
nhiên trái kết thành", thiền phong lên như vũ bão với các Sư Huyền Giác,
Thạch Ðầu, Bàng Uẩn, Mã Tổ, Lâm Tế v.v... không học mà ngộ, không tu mà
chứng.
(4) Bài tụng
này báo trước ngày Tổ Ðạt Ma viên tịch. Ba câu chiết tự chữ NGÔ là ta, do
chữ NGŨ (năm) - KHẨU (MIỆNG) thành chữ NGÔ (ta). Ý nói "ta" sẽ thâu thần
vào cõi Niết bàn tịch diệt (vô bỉ ngã) vào ngày 9 (cửu) tháng 10 (thập),
nhằm năm Bính Thìn (536) triều nhà Lương, năm Ðại Thông thứ 2. Ðó là ngày
vía của Tổ Ðạt Ma. |