Tôi đến Linh
Chiếu vào mùa An cư năm 1981. Mười bốn năm trôi qua như giấc mộng, kỷ niệm
đong đầy, chua chua ngọt ngọt, ngon tợ ô mai.
Cầm viết
viết lại những giấc mộng quả là một chuyện ngô nghê. Thế nhưng, biết đâu
chừng, hôm nào đó tự trong chiều sâu của những cơn mộng mị, ta thức dậy và
chợt phát hiện ra rằng đâu có cái gì chia cách giữa đôi bờ mộng thực. Thế
thì, nhắc lại chút kỷ niệm cho vui, cho mỗi lần hoài nhớ là mỗi lần ta có
dịp cảm tạ tri ân.
Hồi đó chùa
còn nghèo, chị em có mười mấy đứa, sống với nhau thiệt tình. Thương ra
thương, giận ra giận, khóc ra khóc, cười ra cười đàng hoàng. Để rồi cuối
cùng lại “thấy nhói buốt tim hồng khi nhìn người thân chia ly ra đi” (nhạc
Sư cô Thuần Trí).
Tôi còn nhớ,
lúc đó quý Sư cô còn trẻ măng, chưa vào tuổi tứ tuần. Mỗi sáng cũng chít
khăn vuông ra đồng với chúng, thương chúng có tiếng. Lần nào đi chợ, Sư cô
Phó cũng mua bánh bao chỉ về cho tụi tôi ăn lỡ buổi. Vì thế mỗi khi thấy
Sư cô vừa thắng xe đạp là tụi tôi chạy ùa ra đón… cái giỏ. Có hôm hết tiền
không có bánh, mấy chị em xách cái giỏ đi vô tiu nghỉu buồn hiu, báo hại
Sư cô phải luýnh quýnh chạy vào bếp, moi móc lục lạo thứ khác đền bù cho
bầy em.
Lần đó tôi
bị bệnh, thèm ăn đậu hũ quá sức. Ai đến thăm, tôi cũng năn nỉ: “cho xin
miếng đậu hũ đi”. Trời ơi, lúc đó tương rau không đủ ăn, có đâu tới đậu
hũ! Vậy mà nghe tôi nằn nì, Sư cô Thủ Bổn cầm lòng không đậu, phải chạy
qua hàng xóm “mượn” đậu hũ về cho tôi ăn. Ăn xong, tôi hết bệnh. Sau này,
mỗi lần nhắc đến chiến tích đời tư, mấy chị em nhất định không tha cho tôi
cái chuyện ấy. Thiệt là “xin miếng đậu hũ mà thành thiên thu”.
Có lẽ nhờ
thế biết bao cơ cực, gian khổ, lao lung, chúng tôi cũng đều có thể vượt
qua. Đầu đội trời, chân đạp đất, bận đồ tắc kè (áo vá vải bông đủ màu)
không biết mắc cỡ là gì. Chị em cùng nhau xông bờ lướt bụi, vào ruộng ra
rẫy miễn sao có cơm ăn áo mặc, tu được là đủ rồi. Tu trong bận rộn không
chưa oai, chúng tôi tu luôn trong hồi hộp cho xứng danh. Một trong những
kỷ niệm khó quên nhất của tôi vẫn là cái lần ấy…
Số là tôi
với Bổn cùng làm rẫy. Ban rẫy có hai người, Bổn trưởng tôi phó. Vì vậy
việc gì khó thì Bổn làm tôi nghỉ, việc gì dễ thì tôi nghỉ Bổn làm, chuyện
này ai cũng biết. Hôm đó, tôi kéo nước, Bổn gánh tưới, thình lình dây đứt,
thùng nước rơi xuống giếng (ngày xưa chỉ có giếng cần vọt, chớ không có
giếng quay hay giếng đóng như bây giờ). Thế là đổ nợ, phải xuống giếng lấy
thùng lên. Và dĩ nhiên chuyện xuống giếng là chuyện của Bổn, chớ không
phải chuyện của tôi. Nhưng rắc rối là hôm đó Bổn bệnh, không thể xuống
giếng được. Dòm tới dòm lui, không thấy ai ngoài tôi, Bổn bấm bụng hỏi:
- Chiếu
xuống giếng được hông?
Nhìn cái
giếng không cạn không sâu đủ để cho dân học trò như tôi rợn người khi nghĩ
tới chuyện phải lặn xuống đó, gặp lúc mùa mưa nước nhiều nữa chứ. Tôi ngập
ngừng hỏi lại:
- Nước sâu
hông?
- Hông. Tới
ngực hà, cao lắm là tới lỗ mũi thôi. Chết chóc gì mà sợ.
- Tui hổng
biết lội đó nha Bổn.
- Xì! Cạo
đầu còn dám, xá gì chuyện xuống giếng. Vậy mà nói “Bỉ ký trượng phu ngã
diệc nhĩ” (kia trượng phu, ta đây cũng trượng phu) cái nỗi gì?
Bổn xuất
chiêu quá đẹp, tôi trúng tên liền, bèn quyết định cái rụp: “Thôi được,
chuyện nhỏ”. Thế là cây cần vọt được Bổn thả xuống chờ đợi. Lần đầu tiên
trong đời, phiêu lưu ký bất đắc dĩ kiểu này, tôi chỉ còn nước nhắm mắt,
nín thở, bóp bụng… cầu Phật trời gia hộ. Hai, ba! Tôi đu một cái vào cây
cần vọt rồi tuột xuống từ từ, trong tâm dứt bặt vọng tưởng, vô ký, hôn
trầm.
Vừa để đôi
chân vào hai cái lỗ ở thành giếng thì “bựt” một cái, cây cần vọt gãy
ngang, tôi chỉ kịp “á” lên một tiếng rồi bặt vô âm tín. Phần sợ, phần hết
hồn, loi ngoi trong nước lâu hết sức tôi mới ngóc đầu dậy được. May quá
nước chỉ mới tới cần cổ. Tôi nghe cái bụng óc ách, tim đập ình ình, tưởng
đâu trên kia chắc Bổn cũng xính vính lo lắng cho mình, ai dè dòm lên tôi
thấy Bổn cười như điên. Tức khí, không thèm cầu cứu, tôi vẫy tay chào
luôn: “Cho tui kính lời thăm Thầy và toàn thể đại chúng nghe Bổn”.
Đến bây giờ
nhớ lại, thật là có những con đường chân rong qua nửa bận mà nhớ suốt bình
sinh. Nhưng kể từ đó, tôi không còn sợ bất cứ việc gì cả, dù lặn xuống
giếng hay leo lên nóc nhà. A! Chuyện lên nóc nhà, lại cũng là chuyện lịch
sử.
Ai đời con
gái mà lại vắt vẻo trên mấy cây đòn tay, dưới này lại toàn là thanh niên
thợ thầy. Nói thiệt, lần đầu ông già bắt leo lên lợp nhà, tôi run thì ít
mà mắc cỡ thì nhiều. Nhưng riết rồi quen, chúng tôi đâm nghiền. Mái lá nào
của Linh Chiếu, mấy chị em cũng xúm nhau leo lên vừa lợp vừa đua, đến quí
thầy Thường Chiếu cũng phải chào thua.
Không dừng
lại ở cái chuyện lợp nhà. Lần đó, nổi máu nghệ sĩ, tôi rủ Nguyên qua Thầy
xin tiền cất một cái chòi thượng, vừa để giữ rẫy, vừa để… ngắm cho thỏa
chí bình sinh. Ký giấy phép xong, một tuần sau Thầy giật mình khi hay tin
mười hai giờ trưa, đám con gái của mình bất kể sống chết, đòng đưa trên
hai cây thang tre được nối nhau bằng sức người, để gác cây đòn dong và lợp
mái nhà thượng cao vút.
Nửa tháng
trôi qua, cái chòi cất xong. Mái tranh duyên dáng xuôi xuôi quớt quớt,
phập phều trong gió. Tôi lo sợ không dám thỉnh Thầy thượng sàn, nhưng vẫn
treo sẵn chiếc võng trên đó cho phải đạo và ngỡ rằng Thầy sẽ quên đi nếu
mình không nhắc. Ngờ đâu hôm ấy, mấy chị em đang lui cui kê tấm dalle dưới
chân sàn để ngồi chơi thì thấy Thầy dẫn phái đoàn nữ nghệ sĩ nổi danh Bạch
Tuyết nhắm thẳng cái chòi tiến lên. Đoàn người bước tới đâu cái sàn nhún
tới đó. Chiếc võng kẽo kẹt của Thầy đong đưa làm cho bốn cây cột tre chèo
tới chèo lui như thuyền ra khơi. Nhưng Thầy vẫn vui vẻ nhìn khách rồi long
trọng tuyên bố:
- Hôm nay
Thầy khánh thành cái chòi tranh do tự tay mấy cô ở đây cất lấy. Xấu đẹp gì
không biết, nhưng Thầy thích của báu trong nhà. Cái chòi này cũng hơi có
nét nghệ sĩ nên Thầy dẫn tụi con đến thăm. Vậy con có gì hay hãy đem ra
biểu diễn góp vui.
Cô Bạch
Tuyết liền cất cao giọng:
- Chiếc thân
tứ đại khói, sinh hoạt thế gian mây, thành công khối nước đá, thất bại
chùm bọt tan… chung cuộc cơn gió thoảng, viên mãn bầu trời trong.
(Thơ: HT. Thanh Từ - Nhạc: Bạch Tuyết)
Thầy gật đầu
hoan hỷ. Ngoài kia đám rẫy xanh um, cái chòi hiện lên rung rinh trong gió
nhưng vẫn nằm đó như một phép lạ. Chơi một chút khách được dẫn đi. Bọn tôi
thở phào nhẹ nhõm.
Ba bữa sau
trở ra, mái tranh nghiêng một góc 60o. Tôi kinh hãi trong khi Tường tỉnh
bơ:
- Ha! Có gì
đâu. Quăng dây kẽm gai lên, cột vào đòn dong xiết chặt, ghì xuống, quấn vô
sắt ấp chiến lược, đóng xuống đất. Trời gầm cũng hổng ngã.
Kế hoặch
được duyệt và thực thi ngay. Quả thật cái chòi thượng đến nay vẫn còn, còn
trong lòng mỗi đứa ngày xưa. Nhưng cái xác của nó đã rạp xuống ngay sau đó
không lâu.
Công việc
mần ăn đã lạ mà chuyện tu hành còn lạ lùng hơn nữa. Để gạn lọc thân tâm,
thiểu dục tri túc, phong trào phát nguyện nhịn ăn hoặc ngày ăn một bữa bắt
đầu xuất hiện. Trong số đó có chị Tường tôi. Buổi trưa sau khi chán chê ê
chề một bụng, sư phát nguyện không ăn chiều. Xế hôm sau trị nhật năn nỉ
đại chúng độ dùm bún ế, khởi đại bi tâm, sư vớt luôn ba tô và phát nguyện
lại: Cần thì ăn, không cần thì thôi.
Linh Chiếu
có thông lệ, phong trào nào cũng chỉ được ba bữa. Thiệt vậy, sau khi thấy
các tôn giả hành kỳ hạnh (hành cái hạnh kỳ cục) sắp lết, Sư cô Trụ trì
khẩn trương ban hành đạo luật mới:
- Cấm đại
chúng không được nhịn ăn trị bệnh hay ngày ăn một bữa. Yêu cầu mấy huynh
đệ sống bình thường, ai sao mình vậy, đừng làm gì khác hơn.
Thế là xong
một chiến dịch.
Nghe nói
chúng ham tu nhưng cực khổ quá, không có thì giờ hạ thủ công phu, Thầy
liền cho dựng lên mấy cái thất lá để thử sức thử lòng. Lần đầu được vào
thất, chắc nổi chí xung thiên, cũng sư Tường ba giờ khuya xách bồ đoàn tọa
cụ ra giữa trời ngồi lim dim chờ giờ sao Mai mọc. Được mấy bữa, sao chưa
kịp mọc, sư đã nằm dẹp tuần lễ. Lý do cảm nhập lý.
Nối tiếp
truyền thống vô quái ngại của đám lớn chúng tôi, mấy đứa Linh sau này cũng
chẳng thua gì. Hôm nọ đang dùng tiểu thực sáng, bỗng chúng tôi nghe Sư cô
Trụ trì triệu Linh Trúc lên Quả đường:
- Con à con,
Thầy nghe nói con ngồi thiền trên chảng ba cây đào, phải không con?
- Dạ…
- Thôi! Cho
Thầy xin đi con. Thà làm một chúng sanh lành lặn còn hơn làm một ông Phật
cà thọt, khổ lắm con ơi. Kệ, hổng thẳng tu, chậm mà chắc nghe con, làm ơn
vô Thiền đường ngồi dùm Thầy. Thầy hồi hộp quá, tóc bạc hết rồi nè con.
Đó là điểm
qua vài thành tích lẻ tẻ cá thể không nhằm gì, chuyện tập thể mới đáng lưu
tâm.
Tối hôm đó,
phái đoàn Phật tử Châu Đốc lên Thiền viện nhằm giờ tọa thiền. Sau một vòng
nhiễu quanh Tăng bảo cung kính, bà Năm khều bà Ba nói nhỏ:
- Chị Ba à,
ở đây mấy cô “lên” cũng giống Cậu dưới mình quá tay. Chà! Coi kìa.
- Xuỵt! Đừng
nói bậy tội chết. Mấy cô đang đuổi ma đó.
- Chèng đéc
ơi, vậy ha! Đuổi ma gì a chị Ba?
- Ma ngủ!
Nhưng mới
đây, trong ngôi Thiền đường chánh hiệu, toàn thể dân Linh Chiếu, em chị
chú cháu chia thành bốn hàng ngồi thẳng tắp, im re. Không biết thấy dáng
dấp mặt mũi chúng tôi khôi ngô tuấn tú cỡ nào mà vừa xả thiền ra, Sư cô
Thủ Bổn liền xuất khẩu thành thơ:
Ngôi thiền
đường trang nghiêm rực rỡ,
Đại chúng
ngồi tư thế lặng yên,
Như quên đi
tất cả ưu phiền,
Chỉ sống lại
“bản lai diện mục”.
Sư cô vừa
dứt lời, một tràng pháo tay vang lừng. Tôi không biết địa chỉ của bà Năm ở
đâu để tin cho bà rõ, mấy cô trên này hết “lên” rồi nghen!
Linh Chiếu
chư thiền đức hành trạng còn dài, xin dành lại cho người sau kể tiếp…
Nơi đây,
Tôi chỉ tạm
mượn đôi tháng ngày với cuộc sống và những con người đã qua, để nói lên
cái còn lại hôm nay. Không thanh thoát diệu kỳ như Trúc Lâm, không đường
bệ uy nghi như Thường Chiếu, không tài hoa lỗi lạc như Viên Chiếu, không
tươi mát son trẻ như Huệ Chiếu - Phổ Chiếu; Linh Chiếu chỉ là một cô gái
quê miền Nam bộ rụt rè bước vào tuổi xuân thì, chân chất hiền lành với một
chút duyên ngầm vậy thôi. Thế nhưng, tôi luôn trân quí những đường nét hôm
nay của Linh Chiếu như trân quí sự hiện diện của một cụm rêu xanh bên cội
tùng trăm trượng, âm thầm lặng lẽ, nhưng hiển hiện tròn đầy với vẻ đẹp kín
đáo khiêm cung.
Còn con
người nơi đây thì… tôi e ngại ngôn năng. Xin mời bạn cứ đến, đến rồi sẽ
biết.