Thanh Mai sơn với Thiền sư Pháp Loa
Rời Côn Sơn, xe chạy theo những con đường
quê đất đỏ đến Thanh Mai sơn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.
Không đẹp và trầm mình giữa rừng thông cúc
nở tiết trùng dương như Côn Sơn, không màu sắc chơi vơi gợi sắc màu như
“Đường đi lên” của Trúc Thiên, không chập chùng mây nổi theo nhịp bước của
người lên kẻ xuống như Hương Sơn, Yên Tử Sơn… Thanh Mai sơn trầm mặc khiêm
cung, bình lặng sơn sơ. Một màu núi. Một màu không. Có lẽ vì thế, Thanh
Mai sơn đã được Thiền sư Pháp Loa chọn làm nơi yên nghỉ sau cùng.
Thiền sư Pháp Loa với phát tích kỳ đặc của
Ngài cũng đủ để cho ta thấy Thiền sư là một bậc pháp khí hiếm có. Và đã là
tăng sĩ Việt Nam, thiết tưởng chúng ta không thể không biết sơ lược đôi
nét về Ngài.
Sư sinh năm 1284. Trước khi sinh, thân mẫu
Sư nằm mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm. Từ đó bà biết mình có
thai. Nhưng vì quá chán ngán với tám lần sinh trước toàn là con gái, nên
lần này bà cố tình uống thuốc phá thai. Phá tới bốn lần mà thai nhi vẫn
chẳng sợ. Bà đành chịu. Đến khi sinh ra Sư, hay tin là trai, bà vui mừng
khôn tả và vì thế nên Ngài có tên là Đồng Kiên Cương.
Càng lớn, Sư càng đỉnh ngộ khác người.
Miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá. Năm 21 tuổi, Sư gặp Điều
Ngự Giác Hoàng liền xin xuất gia. Điều Ngự trông thấy bằng lòng nói:
- Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí,
vui vẻ tự đến đây.
Sư hầu hạ bên cạnh Điều Ngự, ra vào đều
thưa hỏi, lâu ngày có chỗ tỉnh. Một hôm, Sư trình kệ bị Điều Ngự chê. Sư
thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham. Sư vào phòng đầu óc nặng
trĩu, thức đến quá nửa đêm, bỗng thấy bông đèn tàn rụng, Sư chợt đại ngộ.
Sư đem chỗ ngộ trình lên Điều Ngự và được ấn chứng. Từ đây, Sư thệ nguyện
tu theo mười hai hạnh Đầu-đà. Sau khi thọ đại giới, thấy chỗ tu học của Sư
đã thành đạt, Điều Ngự ban cho Sư hiệu Pháp Loa.
Phật giáo đời Trần bắt đầu mở ra một thời
kỳ phát triển rộng khắp kể từ khi Giáo hội Trúc Lâm Yên Tử có được cánh
tay hỗ trợ đắc lực của Sư. Có thể nói, ngoài việc nối nắm tông phong, lãnh
đạo Giáo hội Trúc Lâm Yên Tử do Điều Ngự ủy thác, Ngài còn hoàn thành xuất
sắc các công tác Phật sự quan trọng khác như tạo tự, độ tăng, thuyết giảng
và đáng kể nhất là in ấn bộ Đại Tạng kinh Việt Nam đầu tiên, nhưng rất
tiếc đến nay đã không còn. Ngài quả thật là một tấm gương sáng cho tăng sĩ
Việt Nam, suốt một đời hành đạo và hóa đạo không biết mệt mỏi.
Càng đi lên, Thanh Mai sơn càng u tịch sâu
kín. Để bất ngờ, qua một ghềnh suối vắng, bật lên tòa cổ tháp rêu phong
với hai chữ “Viên Thông” hiển hiện như chính công hạnh tròn đầy của Tổ sư.
Ngài để nhục thân lại Thanh Mai sơn như một sự gắn bó chung thủy với núi
rừng của một sơn tăng thoát tục, dù bao năm gót chân có dẫm mòn lối vào
cung vàng điện ngọc hay qua lại dọc ngang trong cát bụi phù du.
Tôi nhớ tuổi của Tổ sư tịch nhưng tôi
không dám nhắc đến. Bởi vì tuổi thọ của một Thiền sư thật ngắn ngủi mà
cũng thật vô tận trong giới hạn của một trần gian này. Bài thơ từ biệt
chúng của Ngài đã nói lên được tất cả điều đó:
Vạn duyên tài đoạn
nhất thân nhàn,
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.
Dịch:
Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng.
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,
Bên kia trăng
gió rộng thênh thang.
Trong các nỗi khổ của nhân sinh, có lẽ nỗi
khổ lớn nhất là nỗi khổ tử biệt. Nhưng bài thơ của Thiền sư tuyệt nhiên
không có nỗi đau thương, không có lời nuối tiếc mà ngược lại toát lên
phong thái ung dung, thanh thản của một thiền tăng trở về quê xưa. Nẻo
thiên sơn vạn thủy, cảnh bát cơm ngàn nhà… vạn sự giai không. Ngài trả
giấc mộng lại cho muôn duyên để đi về “Bên kia trăng gió rộng thênh
thang”. Nhẹ nhàng, thanh thản đến vô cùng.
Chiều quá. Tôi theo Thầy xuống núi. Cả một
tòa Thanh Mai sừng sững giữa trời. Cỏ cây cũng bàng bạc trong sắc sắc
không không, như nói như cười, như có như không.
Sư có nói
một chiều
ghé Thanh Mai.
Tăng bào
chúng duyên
Thần tăng gởi lại.
Vạn cổ
thiên nhai
Sư đi về…
Thôi nhé! Thanh Mai. |