Cách đây hơn
nửa thế kỷ, khoảng tháng tư, một chiếc thuyền con đã âm thầm tách bến qua
sông. Khuya hôm ấy dòng sông Hậu nước triều dâng, bầu trời tỏa ánh trăng
đêm trung tuần, lấp lánh những viên ngọc nước nổi lên từ đáy sâu, tiếng
chèo khua róc rách giữa thinh không cô tịch. Thuyền một bóng, sông một
dòng. Con nước rẽ đôi.
Chuyện đời
người không biết phải bắt đầu từ đâu? Bởi lẽ phút cuối bên cửa tử là giây
đầu nơi chốn sinh. Thầy đã đến và Thầy sẽ đi, hay Thầy đã đi và Thầy đã
đến? Chúng con không biết. Nhưng chắc chắn là Thầy đã có mặt, đang có mặt
và mãi mãi có mặt. Tất cả đều hiển nhiên nhưng thật bất ngờ. Bất ngờ như
chiếc áo phong sương hôm nào thoáng chốc biến thành chiếc cà-sa khoác lên
vai người sông Hậu năm xưa. Để từ đó, qua nhiều khúc trôi dạt nổi nênh,
Thầy độc hành độc bộ đi vào cõi thiền sắc sắc không không.
Thầy về núi
Tương Kỳ. Vì núi cao sẽ làm cho lòng người cao hơn, suối sâu sẽ làm cho
lòng người sâu hơn. Hai cung bậc, một nhịp duyên sinh vỡ tung trong khoảnh
khắc mà thiên thu tĩnh tại. Ở núi dễ tu. Lòng sơn tăng cũng sừng sững như
non, tiêu dao phóng khoáng, vương bổng chẳng thể buộc ràng. Chân Không
khiêm cung, giản dị. Nơi đây dòng thiền Việt Nam cuối thế kỷ 20 được khơi
mạch chảy tràn về đồng bằng phố thị. Thường Chiếu, Viên Chiếu, Linh Chiếu,
Huệ Chiếu, Phổ Chiếu… ra đời nói lên tâm nguyện của Thầy, mong cho dòng
thiền nước Việt sáng mãi, sáng khắp đến không cùng.
Ta-bà là
cuộc chơi, Thầy cũng dạo cho vui. Hai mươi năm sau lại lên non Phụng
Hoàng. Cánh chim Phụng tung gió một ở đầu non, một cuối ghềnh. Chiều Đà
Lạt, sương un khói nhạt, hồ Tuyền Lâm lặng lẽ như gương. Chúng con trở về
trước khi nắng tan, bất chợt thấy Thầy đã ngự trên đỉnh non tự bao giờ.
Thong dong, tiêu sái.
Trúc Lâm Đà
Lạt bây giờ hay Trúc Lâm Yên Tử thuở trước, đầu hay cuối? Thật ra điều này
không quan trọng mà quan trọng là hồn Trúc Lâm ở đâu? “Chỉn Bụt là lòng”,
vua Nhân Tông đã nói như thế. Bao nhiêu năm qua Thầy dạy chúng con xoay về
mình, biết được mình, sống với mình là tự đầy đủ rồi. Vạn sự giai không,
buông bỏ hết được mất hơn thua, thương ghét chẳng để lòng, sống thảnh thơi
nhẹ nhàng. Thế thôi!
Nơi đây, con
không dám viết về Thầy với dòng Thiền Việt Nam của những năm, những tháng
đánh dấu một thời. Tại vì con biết ngòi bút của mình không với tới. Con
chỉ biết Thầy là Thầy. Có gì lạ có gì quen của Thầy với Thiền tông Việt
Nam cuối thế kỷ 20 hay Thầy với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thuở trước, thì
Thầy vẫn là Thầy. Tâm thông trí sáng, lòng khoan dung độ lượng, nhậm vận
tùy duyên. An vui, thanh thoát.
Giờ đây,
chính Thầy cũng không ngờ ở tuổi tám mươi, mình lại chống gậy lên non một
lần nữa. Về Yên Tử. Rừng trúc núi thiêng sau 700 năm chợt tỉnh giấc u
trầm. Phong lai sơ trúc. Nhạn quá trường không. Bóng thiền tăng lại hiển
hiện về. Ra đi hay trở lại? Muôn đời chỉ thế thôi. Con nhớ, hôm cuối cùng
được gọi về hầu một bên Tổ, Thiền sư Bảo Sát đã thưa: “Tôn đức đi đến chỗ
nào?”. Tổ dùng kệ đáp:
Nhất thiết
pháp bất sanh,
Nhất thiết
pháp bất diệt.
Nhược năng
như thị giải,
Chư Phật
thường hiện tiền.
Dịch:
Tất cả pháp
chẳng sanh,
Tất cả pháp
chẳng diệt.
Nếu hay hiểu
như thế,
Chư Phật
thường hiện tiền.
- Nào có đến
đi gì?
Nói xong, Tổ
nằm an nhiên mà tịch như sư tử vương. Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Phật, Ngài
đứng lên như mặt trời, nằm xuống tựa trăng sao. Chẳng sanh chẳng diệt, nào
có đến đi gì? Trăm năm sau, nghìn năm sau, ánh sáng vằng vặc giữa trời
không. Cội xưa lá rụng về.
Xưa Tổ lên
núi để rồi xuống núi, về với nhân gian dựng lại chút mộng đời. Nay Thầy ở
núi mà chưa bao giờ bỏ chúng con trong vạn nẻo tử sanh. Tại vì, mỗi chúng
con là hạt mầm của Thầy, là hoa trái của Tổ. Khu vườn tuy cũng có lúc
hoang phế, xanh rêu nhưng con tin hóa thân Người luôn lẩn quất đâu đây
chăm chút, tưới tắm, chắt chiu, đợi chờ. Duyên Thầy trò có thể trong một
phút tình cờ nhưng lại là muôn thuở.
Thiền tông
Việt Nam có được Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là Phật giáo Việt Nam có được
viên ngọc sáng mang dấu ấn Như Lai. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử có được
Trần triều Thánh Tổ là dân tộc Việt Nam có được sức đại hùng đại lực chiến
thắng giặc ngoại bang và cội gốc tham sân phiền não. Trần triều Thánh Tổ
có được Thiền tăng Việt Nam 700 năm trước, 700 năm sau với trí tuệ và từ
bi tròn đầy, là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử có được mạng mạch cửu trụ trong
lòng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam.
Và như thế,
Khúc đời dạo
qua không còn là chuyện của một người, mà đã trở thành chuyện của trăm
người, nghìn người, trăm nghìn người… nối tiếp nhau trao truyền ngọn Tổ
đăng đất Việt, sáng mãi trong lòng nhân loại từ nghìn xưa cho đến nghìn
sau.