[Trang chu] [Kinh sach]

BÁT NHĂ TÂM KINH GIẢNG GIẢI

[muc luc][loi dau sach][bat nha tam kinh giang giai]


BÁT NHĂ TÂM KINH

Giảng giải

 

I - GIẢNG ĐỀ KINH

Bài Bát-nhă Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.

Bát-nhă Tâm kinh nói đủ là Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật-đa Tâm kinh, gồm một phần chữ Phạn phiên âm là Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật-đa và một phần chữ Hán  là Tâm kinh.

Ma-ha, Trung Hoa dịch là đại, nghĩa là lớn. Bát-nhă là trí tuệ. Ba-la-mật-đa là đáo bỉ ngạn, nghĩa là đến bờ kia, gần đây dịch là cứu kính. Ma- ha Bát-nhă ba-la-mật-đa  là trí  tuệ  rộng  lớn  cứu kính.

Tâm kinh là kinh nói về tâm. Nếu hiểu rơ th́ Ma-ha  bát-nhă  ba-la-mật-đa tức  là  tâm  kinh.  V́  sao ? V́ trí tuệ rộng lớn cứu kính, c̣n gọi là trí tuệ Bát-nhă, tức là Tâm vậy.

Trong kinh Bát-nhă có nói: Bát-nhă vô tri vô sở bất tri, nghĩa là Bát-nhă không biết mà không chỗ nào chẳng biết. Không biết tức Bát-nhă đối với cảnh không khởi vọng thức phân biệt. Không chỗ nào chẳng biết v́ Bát-nhă là trí tuệ hằng sáng hằng giác dụ như gương sáng, tất cả cảnh vật hoặc người qua lại đều hiện rơ ràng không thiếu sót. Biết mà không khởi vọng thức phân biệt là cái biết của Tâm.

II. GIẢNG VĂN KINH:

Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhă ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Khi Bồ tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhă ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách.

Trong đây khó nhất là chữ Không. Toàn bộ Đại Bát-nhă gồm 600 quyển, rất rộng rất nhiều, ở đây v́ bài kinh rút quá gọn, nên người đọc khó nhận ra được ư nghĩa. 

Soi thấy năm uẩn đều không bằng cách nào ?  Chữ Không ở đây là soi thấy năm uẩn đều không có tự tánh, chớ không phải là không ngơ hay là chân không .

Không ngơ là không có ǵ hết, tức là chấp không. Hiểu chữ Không như vậy là sai lầm, không đúng tinh thần Bát-nhă là phá chấp, phá chấp có và phá chấp không.

 Không nếu hiểu là chân không lại không ổn, v́ chân không không thể giải thích bằng ngôn ngữ văn tự được.

Để hiểu rơ chữ Không, chúng ta cần biết qua ba thời kỳ Phật giáo:

Sơ kỳ Phật giáo: Giải thích pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, cho đây là chân lư. Như thế là c̣n nằm trên h́nh thức, nói về tướng hoặc có, hoặc không, hoặc thiện, hoặc ác v.v…

Trung kỳ Phật giáo: Nói về lư tánh không tức là lư Bát-nhă.

Hậu kỳ Phật giáo: Nói về lư chân không diệu hữu.

Chữ Không trong Bát-nhă là không tự tánh, hay không tánh. Học Bát-nhă là học về lư tánh không. Tánh không là ǵ ? Tánh là danh từ chỉ cái ǵ cố định, bất di bất dịch. Tánh không chỉ tất cả pháp thế gian này đều không có cái ǵ cố định, bất di bất dịch, nghĩa là hằng đổi dời, không thật. Tinh thần Bát-nhă chống lại nghĩa tánh hữu, tức là các pháp đều có tự tánh, đều cố định, đều là thật. Quan niệm tánh hữu là không đúng theo lư Bát-nhă.

Các pháp thế gian không cố định nên không phải là thật, do duyên hợp nên không phải là không ngơ.

Soi thấy năm uẩn đều không tức là soi thấy năm uẩn đều không có tính cách cố định. Khi soi thấy năm uẩn đều không cố định, nên qua hết tất cả khổ nạn. V́ sao ? V́ tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay bị bệnh chấp ngă.

Bệnh thứ nhất của chấp ngă là chấp thường nhất. Chấp thường nhất là mỗi người đều chấp thân tâm ḿnh thật có, tức là thường c̣n thường nhất không thay đổi. Thử hỏi trong chúng ta, ai thấy được con người ḿnh luôn luôn thay đổi ? Từ thuở bé đến ngày nay khôn lớn bốn, năm mươi tuổi, con người ḿnh khi trước và ngày nay là một hay là hai ? Nếu nhận thấy nó không khác, là thường nhất, gọi là chấp ngă. Nhưng kiểm lại xem con người ḿnh về tâm sinh lư từ lúc bé thơ đến tuổi già nua có thật là thường nhất, có thật là không thay đổi, có thật là một chăng ? Nhận xét như  vậy mới biết chấp ngă là một quan niệm sai lầm của con người .

Bệnh thứ hai của chấp ngă là chấp chủ tể. Chấp chủ tể tức là chấp ḿnh làm chủ trọn vẹn con người ḿnh về cả hai mặt sinh lư và tâm lư. Ai cũng thầm nghĩ thân này là của tôi, tức là tôi làm chủ nó trọn vẹn, cũng như tôi có cái nhà và bàn ghế trong nhà, tôi làm chủ trọn vẹn tức là tôi có trọn quyền sử dụng nó không ai ngăn cản hay sửa đổi được.

Nhưng tôi có thật sự làm chủ con người tôi hay không ? Về mặt sinh lư, tôi luôn luôn muốn cho thân thể được khỏe mạnh hồng hào, nhưng đôi khi nó cũng bị đau yếu nhức nhối, đ̣i hỏi phải thuốc thang chữa trị. Như vậy tôi đâu có thật làm chủ thân tôi. Về mặt tâm lư, tôi không làm chủ được tư tưởng của tôi. Như trong lúc ngồi thiền tôi suy nghĩ miên man hết việc này đến việc khác, tôi muốn tâm thanh tịnh mà có mấy khi được như vậy.

Hai quan niệm chấp ngă: Ngă là thường nhất và ngă là chủ tể, là hai quan niệm sai lầm và lệch lạc. Do bệnh chấp sai lầm này nên chúng ta đau khổ. Nếu chúng ta nhận thấy rơ con người ḿnh không thường nhất và không có chủ tể là chúng ta phá được bệnh chấp ngă.

Trong  thời  sơ  kỳ  Phật  giáo, để  phá  bệnh chấp ngă, đức Phật bảo thân này do tứ đại ḥa hợp là cho những người thiên chấp về vật chất, thân này do ngũ uẩn ḥa hợp là cho những người thiên chấp về tinh thần.

Nếu thân này đă do tứ đại ḥa hợp, tức là đất nước gió lửa ḥa hợp, th́ thân này không có nghĩa là thường nhất được. Trong bốn đại, không đại nào làm chủ, nên biết thân này không có chủ tể.

Nếu thiên chấp về tâm, Phật dạy thân này do ngũ uẩn ḥa hợp, tức là ngoài sắc uẩn chỉ cho thân, c̣n có bốn uẩn thuộc phần tâm lư là: thọ, tưởng, hành, thức.

Thọ là cảm giác, lănh thọ. Ví dụ khi mắt nh́n thấy cảnh đẹp, ḿnh nhận đây là cảnh đẹp, rồi vui thích gọi là thọ lạc của mắt, khi nh́n cảnh xấu, ḿnh nhận đây là cảnh xấu và cảm thấy chán ghét gọi là thọ khổ của mắt. Khi tai nghe tiếng nhạc hay tiếng khen, ḿnh cảm thấy vui thích gọi là thọ lạc của tai, nếu nghe tiếng dở và tiếng chê, ḿnh cảm thấy ghét giận gọi là thọ khổ của tai. Như vậy khi mắt tai mũi lưỡi thân ư tiếp xúc với sáu trần bên ngoài, khi cảm thấy vừa ư và vui thích gọi là thọ lạc, khi cảm thấy trái ư và chán ghét gọi là thọ khổ. Cảm nhận sự vui buồn thương ghét gọi là thọ uẩn, tức thuộc phần tâm lư hay tâm thức.

Tưởng là những nghĩ  tưởng  về các  cảnh  đă thấy, như khi chúng ta tưởng lại các cảnh đă thấy ở thành phố hay núi non, th́ các cảnh ấy hiện ra với ḿnh. Hoặc khi chúng ta tưởng đến việc vị lai, th́ những việc ấy hiện ra với ḿnh. Như vậy những nghĩ tưởng trở về quá khứ hay hướng đến tương lai là thuộc về tinh thần hay tâm thức.

Hành là những suy tư tiếp nối miên man sanh diệt chẳng dừng ở một điểm. Như khi chúng ta đang suy nghĩ một vấn đề ǵ, tâm tư chúng ta luôn luôn nghĩ từ việc này sang việc khác liên tục không ngừng, như người bộ hành đi đường, bước này tiếp nối bước kia không dừng. Hành cũng thuộc về tâm thức.

Thức là cái phân biệt. Ví dụ mắt thấy sắc, phân biệt là đẹp là xấu, tai nghe tiếng, phân biệt là hay là dở v.v… Phân biệt gọi là thức, thuộc về tinh thần.

Thọ, tưởng, hành, thức bốn uẩn này thuộc về tâm. V́ tâm do bốn uẩn kết hợp không thể là thường nhất, cũng không có chủ tể, v́ không uẩn nào là chủ. Tại sao năm thứ đều gọi là uẩn ? Uẩn nghĩa chứa nhóm hay tích tụ. Sắc chứa nhóm bốn đại hay tích tụ bốn đại, thọ chứùa nhóm sáu thọ của sáu căn…

Trong  thời  sơ  kỳ  Phật  giáo  tức là thời kỳ nguyên thủy, Phật thuyết pháp vô ngă để phá bệnh chấp ngă về thân và tâm. Con người chúng ta là tướng duyên hợp do tứ đại hay ngũ uẩn kết hợp không thật, nên không thường nhất và không chủ tể. Vô ngă là không có một cái ngă thường nhất và chủ tể.

Nhiều người hiểu lầm nghĩa vô ngă, cho rằng vô ngă là không ngơ tức là không có ḿnh, không có thân này. Nếu không có thân này th́ ai đang sống đây, ai đang hoạt động, ai đang thọ khổ thọ vui ? Có thân này nên chúng ta mới có cảm giác nóng lạnh, đau nhức hay êm dịu; có tâm này nên chúng ta mới cảm nhận, suy tư hay phân biệt. Nhưng thân và tâm này là do duyên hợp tạo thành, nên không thường nhất và không chủ tể, gọi là vô ngă.

Lại có nhiều người nghĩ lầm thân tâm ḿnh, từ xưa đến nay là một không biến đổi, ḿnh làm chủ ḿnh hoàn toàn, ḿnh được tự tại, không ai có quyền làm chủ ḿnh. Nhưng thật sự thể xác và tinh thần chúng ta, từ xưa đến nay đă đổi thay không biết bao nhiêu lần và chúng ta thật sự có bao giờ làm chủ chúng ta đâu ! Nếu chúng ta nhận không đúng lẽ thật mà khăng khăng bám chặt vào quan niệm sai lầm, gọi là chấp. Có một quan niệm sai lầm về thân và tâm là thường nhất và có chủ tể, gọi là chấp ngă. Và chấp  ngă là nguyên  nhân  của tất cả khổ đau trong cuộc đời.

Đến giai đoạn thứ hai là thời trung kỳ Phật giáo, đức Phật không c̣n nói thân này không thật, do tứ đại hay ngũ uẩn duyên hợp giả có, mà đức Phật đi thẳng vào năm uẩn, soi thấy từng uẩn một đều không cố định. V́ mỗi uẩn không có tánh cố định, luôn luôn biến chuyển và đổi dời nên không thường nhất, không chủ tể, c̣n gọi là không tự tánh. Năm uẩn c̣n không cố định huống là cái hợp thể do năm uẩn hợp lại tức là thân, là bản ngă của chúng ta làm sao cố định được.

Lấy một ví dụ cho dễ hiểu là bàn tay chúng ta. Năm ngón tay co lại hợp thành nắm tay, nắm tay này không cố định, nếu cố định th́ đâu đợi năm ngón co lại mới hợp thành ? Nếu x̣e bàn tay chia ra từng ngón một th́ đâu có nắm tay. Năm ngón co lại thành nắm tay, thử hỏi ngón tay nào là chủ của nắm tay ? Trong năm ngón không có ngón nào làm chủ, nên nghĩa chủ tể của nắm tay không thành được. Nắm tay do năm ngón co lại nên không thường nhất, nếu thường nhất th́ đâu đợi năm ngón co lại mới thành, nếu thường nhất th́ khi x̣e bàn tay ra từng ngón một, nắm tay ở đâu ? Cái thường nhất có c̣n không ?

Như vậy nghĩa thường nhất của nắm tay cũng không. Nắm tay trước không có, do duyên hợp tạm có, duyên tan th́ mất, không thường nhất, không chủ tể, nên gọi là không cố định.

Tiến sâu hơn, chúng ta không nhắm vào nắm tay nữa, mà nói từng ngón tay, mỗi ngón tay có thật hay không ? Có đủ hai nghĩa thường nhất và chủ tể hay không ? Mỗi ngón tay cũng là tướng duyên hợp do xương gân máu thịt hợp thành, nên không có đủ hai nghĩa thường nhất và chủ tể. Một ngón tay không thường nhất và không chủ tể, năm ngón tay cũng thế, huống là nắm tay. Ngón tay là đơn vị hợp thành nắm tay, chính mỗi ngón tay ấy cũng là một hợp thể, cũng là tướng duyên hợp tạm bợ không thật, không cố định.

Đức Phật đi thẳng vào từng uẩn một của thân năm uẩn, soi thấy mỗi uẩn đều không cố định nên gọi là soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Làm sao qua được khổ ách ? Khổ ách gốc từ đâu mà có ? Nếu hỏi ai khổ th́ trả lời tôi khổ, tôi bị tai nạn. Tôi là ǵ ? Là bản ngă, là cái tôi trước sau như một, là cái tôi làm chủ. Nếu cái tôi trước sau như một, gặp điều ǵ trái sở thích gọi là khổ, gặp việc ǵ làm nó bị suy giảm gọi là nạn. Sở dĩ có khổ nạn là v́ chấp bản ngă, nếu bản ngă không c̣n th́ khổ nạn c̣n không ? Bản ngă không c̣n không có nghĩa là không ngơ, mà có nghĩa là không cố định. Bởi bản ngă không cố định v́ là tướng duyên hợp, bởi là tướng duyên hợp nên tạm bợ hư dối, đổi dời luôn luôn không dừng; không chủ tể, không thường nhất, đó là nghĩa “vô ngă”. Nếu ngay nơi năm uẩn, thấy rơ mỗi uẩn luôn luôn đổi dời không chủ tể và không thường nhất, th́ cái thân do năm uẩn hợp lại làm sao có chủ tể và thường nhất được. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không, tất cả khổ nạn theo đó liền dứt.

Nếu chúng ta thấy rơ thân này, về sinh lư cũng như tâm lư đều là tướng duyên hợp đổi dời không cố định, th́ mới biết thân này là hư dối không thật, cái ngă này là hư dối không thật. Và những ǵ đến với cái ngă hư dối không thật này, dù là tốt xấu hay vui buồn cũng đều hư dối không thật, th́ c̣n ǵ gọi là khổ ách nữa. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ nạn.

Người tu hành chỉ cần soi thấy năm uẩn đều không là qua hết khổ nạn, là được giải thoát. Nhưng chúng ta phải soi trong thời gian bao lâu mới thấy năm uẩn đều không ? Bồ-tát Quán Tự Tại hành thâm Bát-nhă ba-la-mật-đa thời…  Soi đây là hành, thâm là sâu xa đến bao giờ thâm nhập được trí tuệ Bát-nhă, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.

Trên đường tu tập Bát-nhă, chúng ta soi thấy năm uẩn đều có rơ ràng, như vậy lời Phật dạy không đúng sao ? Đó là v́ chúng ta chưa hành thâm Bát-nhă, thâm đây không phải năm mười ngày, đôi ba tháng hay hai ba năm, thâm đây là thâm nhập sâu xa trí tuệ Bát-nhă, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.

Sở dĩ chúng ta đau khổ là v́ mê lầm về bản thân nên sanh chấp ngă. Với trí tuệ Bát-nhă chúng ta thấy đúng như thật thân tâm này là tướng hư dối, luôn luôn biến chuyển không cố định, nên không c̣n mê chấp nữa. Không mê lầm chấp ngă nên hết khổ nạn. Giả sử có ai gọi tên ta và sỉ vả đủ điều, nếu chúng ta dùng trí tuệ Bát-nhă thấy đúng như thật thân tâm là tướng hư dối, không c̣n chấp ngă th́ các đau khổ liền dứt. Người học Phật phải thấy đúng như vậy, v́ đó là căn bản của sự tu hành.

Xá-lợi tư,û sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Này Xá-lợi-phất,  Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.

Đến đây Phật đi vào chi tiết, bảo ngài Xá-lợi-phất: Sắc uẩn chẳng khác với không, không chẳng khác với sắc uẩn. Không đây chẳng phải là không ngơ, hay trống không như hư không. Không đây là không tự tánh tức là không cố định. Sắc uẩn là phần thân tứ đại, thân tứ đại này là tướng duyên hợp đổi dời không cố định. Chính bản chất thân tứ đại này không cố định, nên không khác với không. Nếu thân tứ đại là cố định tức khác với không rồi. Cho nên nói sắc uẩn chẳng khác với cái không cố định và cái không cố định chẳng khác với sắc uẩn.

Ví dụ cái bàn là tướng duyên hợp nên không cố định, như vậy cái không cố định chẳng khác với cái bàn. V́ sao ? V́ ngay nơi cái bàn tự nó đổi dời sanh diệt nên không cố định, và cái không cố định là sẵn nơi cái bàn và ngay nơi cái bàn. Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc là như vậy.

Sắc tức là không, không tức là sắc.

Trong đoạn trước c̣n so sánh, thấy dường như hai, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Đến đây Phật chỉ thẳng chính sắc uẩn là không cố định, không cố định chính là sắc uẩn. Nghĩa là thân tứ đại này là tướng biến đổi không cố định, không cố định là thân tứ đại này. Nếu thân tứ đại cố định th́ không diệt, nhưng thân bị sanh diệt tức bản chất nó không cố định.

Như cái bàn này là không cố định, cái không cố định tức là cái bàn này, không phải rời cái bàn này có cái không cố định ở ngoài.

Nhiều người cho  rằng  sắc  là  sắc, không  là không, v́ sao lại nói sắc tức là không, không tức là sắc ? Phải hiểu chữ không đây là không cố định, là sanh diệt đổi dời.

Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Nghĩa là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, bốn uẩn này cũng lại như thế. Thọ uẩn chẳng khác với không cố định, không cố định chẳng khác với thọ uẩn, thọ uẩn tức là không cố định, không cố định tức là thọ uẩn. Tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng đều như vậy, chẳng khác với không cố định và tức là không cố định.

Xá-lợi tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Này Xá-lợi-phất, tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

Tướng không của các pháp là tướng không cố định của các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tướng không cố định ấy chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. V́ sao ? V́ là không cố định. Nếu nói sanh tức là cố định mất rồi, nếu nói diệt tức là cố định mất rồi; nếu sanh th́ đâu có diệt, nếu diệt làm sao có sanh ? Cho nên nói tướng không cố định không phải sanh, không phải diệt, là như vậy. Nó không phải nhơ, không phải sạch, v́ nếu là nhơ tức không bao giờ đổi thành sạch được , nếu là sạch tức không bao giờ biến thành nhơ được. Nên nói tướng không cố định không phải nhơ, không phải sạch. Cũng như vậy, tướng không cố định của các pháp không phải thêm, không phải bớt.

Nói tóm lại, tướng không cố định của các pháp không phải sanh, không phải diệt, không phải nhơ, không phải sạch, không phải tăng, không phải giảm. Tướng không cố định ấy không phải tất cả những tướng đối đăi. V́ sao ? V́ nếu nó là cái này hay là cái kia tức là nó cố định mất rồi. V́ tướng không cố định, nên sanh có thể biến thành diệt, nhơ biến thành sạch, tăng biến thành giảm, hoặc diệt biến thành sanh v.v… Tướng của các pháp tùy duyên đổi thay nên không cố định.V́ tùy duyên đổi thay nên không thể xác nhận nó là cái ǵ được. Tỉ dụ chúng ta có một ly nước đang trong sạch, nếu đem bỏ đất vào th́ ly nước biến thành nhơ đục mất rồi. Như vậy ly nước không cố định phải là sạch hay là nhơ mà tùy duyên, tức là từ sạch do duyên đổi, biến thành nhơ. Nếu là cố định, khi sạch phải sạch măi không nhơ, khi nhơ phải nhơ măi không sạch, mà thật ra nó tùy duyên thay đổi làm sao gọi là cố định. Đó là ư nghĩa tướng không cố định của các pháp, nó không phải là cái ǵ hết v́ nó là tướng tùy duyên.

Thị   cố   không  trung  vô  sắc,  vô  thọ, tưởng,  hành,  thức;  vô nhăn,  nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhăn giới năi chí vô ư thức giới.

Cho nên trong tướng không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;  không có nhăn giới cho đến không có ư thức giới.

Ở đây Phật dạy tướng không cố định không phải là năm uẩn, không phải là sáu căn, không phải là sáu trần, không phải là mười tám giới. Nếu nó là cái nào tức là cố định rồi. V́ nó không phải là cái nào hết, nên nó mới tùy duyên không cố định. Nên nhớ chữ Vô ở đây là không phải: không phải sắc, không phải thọ,ï tưởng, hành, thức v.v… v́ căn cứ trên tướng không cố định mà nói như vậy.

Khi chúng ta chấp nặng sắc thân, đức Phật dùng tứ đại để phá chấp; khi chấp nặng phần tâm lư, đức Phật dùng ngũ uẩn để phá chấp. Khi chúng ta chấp về căn thân và trần cảnh, đức Phật dùng thập nhị xứ để phá chấp; khi chấp căn, trần và thức, đức Phật dùng thập bát giới để phá, cho nên nói không phải nhăn giới cho đến không phải ư thức giới. Nói tóm lại, trong cái không cố định không phải là sáu căn, không phải là mười hai xứ, không phải là mười tám giới, nghĩa là cái không cố định không phải là tất cả pháp thế gian.

Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc.

Không có vô minh cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ cũng không có chứng đắc.

 Đây là chỉ pháp xuất thế gian. Thập nhị nhân duyên thuộc về sơ kỳ Phật giáo, bắt đầu là vô minh, hành, thức, danh-sắc v.v… cho đến lăo tử, đó là chiều lưu chuyển. Vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt … cho đến lăo tử diệt, đó là chiều hoàn diệt. Như vậy, cái không cố định, không phải là mười hai nhân duyên trong chiều lưu chuyển, cũng không phải mười hai nhân duyên trong chiều hoàn diệt.

Không phải khổ, tập, diệt, đạo.

Tức là không phải pháp Tứ đế, nghĩa là cái không cố định không phải khổ đế, không phải tập đế, không phải diệt đế, không phải đạo đế. Pháp Tứ đế thuộc về sơ kỳ Phật giáo, là bốn pháp chân thật không dời đổi, tức là cố định. Nhưng ở đây nó không phải khổ tập diệt đạo là để phá cái  chấp  cố định của Tiểu thừa.

Tiểu thừa đối với giáo pháp Phật  nói  cho  là chân lư, nên chấp chặt đó là thật. Nhưng ở đây phá luôn cái chấp Mười hai nhân duyên và Tứ đế. V́ sao ? V́ Mười hai nhân duyên và Tứ đế là tướng không thật, đổi dời và không cố định.

Không phải trí, cũng không phải đắc.          

Đây là nói đến quan niệm Bồ-tát. Thường thường Bồ-tát dùng Sáu ba-la-mật để độ chúng sanh, nhưng trong Sáu ba-la-mật, trí ba-la-mật là căn bản. Nếu Bồ-tát dùng sáu ba-la-mật độ chúng sanh, sẽ đắc quả Sơ địa đến Thập địa Bồ-tát, tức là có trí có đắc. Nhưng sự thật ở đây nói không trí cũng không đắc, v́ không có sở đắc, tức là không có cái để chứng được.

Sự thật của pháp thế gian, tại sao nói không cố định, không phải tất cả pháp thế gian ? Không phải tất cả pháp thế gian, nghĩa là không phải tất cả pháp đối đăi của thế gian. Cái không cố định đó, nó không phải là cái ǵ trong các pháp đối đăi thế gian, bởi v́ nếu nó là cái ǵ th́ thành cố định cái đó rồi, cho nên nói cái không cố định không phải tất cả pháp thế gian, nhưng là tất cả pháp thế gian. Tất cả pháp đối đăi thế gian không khác với không cố định, mà chính là không cố định. Đây là ư nghĩa thâm trầm của tinh thần Bát-nhă.

Thường thường tất cả pháp thế gian, khi lập ra cái ǵ người ta đều cố định cái ấy,  xét cho  kỹ có pháp thế gian nào mà chúng ta không chấp là thật đâu ? Khi nói phải chúng ta chấp phải là thật, khi nói quấy chúng ta chấp quấy là thật, nói tốt xấu dài ngắn đều chấp là thật, nói cái ǵ đều chấp cái đó là thật. Nhưng thử hỏi tất cả cái ấy có thật không ? Có cố định không ? Nếu nói phải, có cố định là phải chăng ? Nói quấy, có cố định là quấy chăng ?

Ở thế gian khi người ta nói như thế này là phải, th́ tất cả người nghe theo nhận đó là phải và cho cái phải đó là cố định. Nhưng người khác lại nói như thế kia là phải, th́ sao ? Tức nhiên cái phải quấy chỉ là cái bày ra đấy thôi. Cái bày ra đó của ai ? Tức nhiên là của những người lớn có uy quyền, rồi người sau bắt chước, chấp đó là phải, là cố định. Tỉ dụ hồi xưa các cụ nho nói người nữ là “Khuê môn bất xuất”, cho đó là phải. Lúc ấy mọi người đều thấy như thế là phải. Nhưng ngày nay người nữ ngang quyền với người nam, có quyền ra ứng cử… Như vậy quyền b́nh đẳng đó là phải hay là quấy ? Nếu hiện nay là phải, th́ cái phải ngày xưa với cái phải ngày nay c̣n là một được không ? Có khác nhau không ? Nếu ngày xưa là phải, th́ hiện nay đâu phải. Nếu ngày nay là phải th́ ngày xưa hết phải. Như vậy ai phải ? Cái nào phải ?

Qua tỉ dụ trên, chúng ta thấy cái phải  không cố định, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp, tùy theo sự sắp đặt của người trên trước có uy quyền. Thời đó phải sống như vậy mới là phải, tức là cái phải của thời đó, của lúc đó mà thôi, chớ đâu phải là cái phải miên viễn muôn đời. Nếu chúng ta chấp cái đó là phải, mà có người nói khác đi tức nhiên ta phản đối lại, do đó sanh ra bao nhiêu tranh căi phiền phức.

Xét kỹ lại tất cả cái phải đều không cố định, đă không cố định th́ đâu có thật. Phải đă như vậy, th́ quấy cũng như vậy. Giả sử có những việc ngày xưa cho là quấy, ngày nay trở thành phải, cũng có những việc ngày xưa cho là phải, ngày nay trở thành quấy. Mỗi thời mỗi lúc đều mỗi khác, cho nên phải quấy đều không cố định, nếu chúng ta chấp sự việc là cố định, tức nhiên là sai lầm, là không đúng sự thật.     Thiện ác có cố định được không ?

Thường thường chúng ta hay nói làm việc này là thiện, làm việc kia là ác. Nhưng, tỉ dụ vào một buổi chiều ngồi trên thiền thất, tôi thấy một con kỳ nhông đang ḅ trên thân cây tràm. Bỗng từ xa bay nhanh lại một con chim b́m bịp chực chụp mổ kỳ nhông, con kỳ nhông hoảng sợ chạy loanh quanh thân cây, b́m bịp cũng bay loanh quanh đuổi theo. Đứng trước cảnh đó, tôi phải làm sao ? Tôi ra đuổi con b́m bịp để cứu con kỳ nhông, việc làm đó là thiện hay ác ? Thấy qua dường như là thiện, cứu được sanh mạng con vật bé nhỏ, đuổi được con vật lớn hiếp đáp, đó là việc thiện chớ ǵ ? Nhưng xét kỹ lại, quí vị thấy việc thiện đó đă thật là thiện hay chưa ? Đứng về bên con kỳ nhông đây là việc thiện. Nhưng  đứng  về  bên  con  b́m  bịp  th́  thế nào ? Buổi chiều đang đói, chim b́m bịp đi kiếm ăn, gặp được miếng mồi, sắp mổ ăn, mà bị người ngăn lại, làm sao khỏi sanh tức giận. Khiến kẻ khác tức giận đó là việc ác chớ ǵ ? Như vậy việc đuổi chim b́m bịp chỉ thiện đối với con kỳ nhông mà ác đối với chim b́m bịp, thiện ác có cố định không ? Xét xa hơn nữa, chẳng những ác với chim b́m bịp mà c̣n ác với con mồi khác nữa, v́ chim b́m bịp đâu chịu nhịn đói, tức nhiên phải kiếm một con mồi khác để ăn. Và con mồi này là nạn nhân của tôi v́ nó đă thế mạng con kỳ nhông, nếu nó biết việc này tức nhiên nó sẽ oán thù tôi luôn !

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy phải định thiện ác như thế nào ? Thiện ác có cố định chăng ? Một việc làm mới nh́n dường như là thiện, nhưng nh́n qua một khía cạnh khác lại là ác, chính đó là trong đối đăi không cố định, nghĩ làm việc thiện mà việc ác đă ở bên cạnh rồi. Thiện ác không cố định mà chấp là cố định, là chúng ta đă sai lầm. Tuy nhiên trong đối đăi, làm việc ǵ lợi ḿnh lợi người là thiện, hoặc hại ḿnh mà lợi nhiều người là thiện, c̣n làm việc ǵ lợi ḿnh hại người là ác.

Nói lại tỉ dụ ly nước khi năy, nó có cố định là nhơ hay sạch chăng ? Một ly nước đang trong sạch, bỏ đất vào thành nhơ mất, đâu có cố định. Ly nước thành nhơ ấy, để lóng lại, lọc qua ly khác th́ trở thành trong sạch. Ly nước luôn luôn đổi thay tùy duyên không cố định, nếu chấp vào một cái ǵ cố định là chúng ta sai lầm.

Đến tỉ dụ sự dài ngắn, một cây dài một thước để gần cây năm tấc, th́ cây một thước là dài, cây năm tấc là ngắn. Khi cây một thước để gần cây hai thước th́ cây một thước là ngắn, cây hai thước là dài. Như vậy chúng ta thấy tùy duyên mà cây một thước biến thành dài ngắn trong đối đăi, chớ không cố định.

Sự tốt xấu của sự vật cũng như vậy. Một món vật trung b́nh để gần một vật tốt th́ trở thành xấu, nếu để gần một vật xấu hơn th́ trở thành tốt. Cái tốt biến thành xấu hay cái xấu biến thành tốt là tùy duyên thay đổi, không có cái xấu tốt cố định, nếu chấp vào sự vật cố định tức là sai lầm.

Cũng như vậy, tất cả các pháp thế gian đều là đối đăi không cố định, nếu thấy các pháp không cố định là thấy đúng như thật, nếu thấy các pháp cố định là thấy sai lầm, tức là khổ vậy.

Học kinh Bát-nhă là phá chấp, nếu biết tất cả là không cố định th́ c̣n chấp vào cái ǵ ? Cho nên nói không phải tất cả, không có nghĩa là không có, mà ngay nơi đó thành tất cả. Bởi v́ cái không cố định này không phải là cái ǵ hết, không phải tất cả mà tùy duyên thành lập tất cả.

 Tinh thần Bát-nhă chỉ cho chúng ta thấy rơ tất cả các pháp đối đăi ở thế gian này là không có thật. Không thật là tướng tùy duyên không cố định, không cố định nên luôn luôn thay đổi theo duyên, theo duyên thay đổi nên không ở măi một vị trí, không ở măi một h́nh thức, không ở măi một hoàn cảnh nào, luôn luôn tùy thời chuyển biến đổi thay.

Như vậy cái chuyển biến đổi thay tùy thời tùy duyên gọi là không cố định. Nh́n thấy rơ như  vậy là thấy đúng như thật, gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-nhă. Nếu thấy một bên là thấy bằng thiên chấp, tức là thấy lầm. Nếu thấy bằng thiên chấp là cái thấy của vô minh, không bao giờ thấy đạo. Nếu thấy đúng như thật là thấy bằng trí tuệ, là thấy đạo.

Câu chuyện thiền sau đây cho chúng ta thấy các pháp tùy duyên chuyển biến. Thiền sư Đạo Ngô và đệ tử là Tiệm Nguyên đi đám tang của một thí chủ. Khi ấy Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: Đây là sanh hay tư ? Ngài Đạo Ngô trả lời: Sanh không nói, tử cũng không nói. Tiệm Nguyên tức quá hỏi lại thầy: Tại sao không nói ? Ngài Đạo Ngô chỉ trả lời: Không nói ! Không nói !

Tiệm Nguyên càng tức, v́ sao thầy không nói tử mà cũng không nói sanh. Sau khi xong đám ra về, đi ngang qua cánh đồng, Tiệm Nguyên lại thưa: Thầy phải nói cho con nghe, thầy không nói con sẽ đánh thầy. Vị thầy bảo: Đánh th́ đánh, nhất định không nói. Ông học tṛ liền thoi vị thầy. Khi về đến chùa vị thầy bảo: Thôi chú hăy cuốn gói đi đi, nếu Tri sự hay việc này chú sẽ không yên. Tiệm Nguyên đành phải ra đi. Sau khi rời thầy,  Sư cất một cái am ở xa để tu, Sư cứ măi băn khoăn vấn đề tại sao không phải sanh, không phải tử, v́ sao sanh tử đều không nói ? Cho đến một đêm nghe am ở gần bên tụng kinh Phổ Môn, đến câu: “ Ưng dĩ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết pháp…” Khi nghe đến đây Sư liền ngộ. Như vậy tại sao Tiệm Nguyên ngộ ? Tại sao ngài Đạo Ngô không chịu nói sanh hay tử ? Chúng ta quen sống trong đối đăi cho nên chấp cái ǵ cũng thật hoặc là sanh hoặc là tử. Nhưng theo tinh thần Bát-nhă th́ sanh tử không cố định; nếu là sanh th́ không tử, nếu là tử th́ không sanh. Nhưng trong ṿng luân hồi sanh tử không dừng: tử rồi lại sanh, sanh rồi lại tử, không cố định, nếu nói là sanh hay là tử là nói một bên. Cho nên vị thầy thà để học tṛ đánh mà không nói. Sau này ngài Viên Ngộ b́nh rằng: “ Thật là ông thầy v́ tṛ mà máu ra lênh láng”. Thầy đă hy sinh tột độ để nhờ đức hy sinh đó người học tṛ mới ngộ. Nhưng Tiệm Nguyên đă ngộ cái ǵ ? Khi nghe tụng: Nếu cần dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để độ, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà v́ đó nói pháp… Như vậy là tùy duyên mà hiện chớ không có cái ǵ cố định cả. Đó là chỗ Tiệm Nguyên đă ngộ. Ngài đă thấy đạo.
        Trong kinh Pháp Bảo Đàn, lời di chúc của Lục Tổ cũng dạy như vậy. Lục Tổ bảo: Nếu người hỏi tối th́ lấy sáng đáp, hỏi có th́ lấy không đáp. Ví dụ  hỏi  thế nào là tối, đáp không sáng.  Hỏi  thế nào là có, đáp chẳng phải không. Dạy cách đối đáp như vậy, Lục Tổ muốn chỉ cho chúng ta thấy tối sáng là tướng đối đăi không thật, không thật là không cố định, là tướng tùy duyên.  Nếu nói là tối là sáng, là cố định, tức nhiên khiến người ta chấp vậy. Thà nói không phải tối, không phải sáng để người nghe thầm nhận tối và sáng là tướng đối đăi  không cố định. Có và không cũng lại như vậy, sở dĩ  có là đối với không mà nói, chớ đâu có thật. Biết các pháp không thậât là thấy đạo. Lục Tổ đă ứng dụng triệt để tinh thần Bát-nhă  trong  cách  đối  đáp  về  các  tướng đối đăi tùy duyên.

Trong nhà Thiền, khi được hỏi những ǵ c̣n chấp một bên, các thiền sư thường đưa hai ngón tay lên để chỉ rằng người hỏi c̣n kẹt ở hai bên, tức chưa thấy đạo. Dùng trí tuệ Bát-nhă thấy các pháp là tướng tùy duyên không cố định, đó là cửa vào nhà thiền, là cửa không, tức là không cố định vậy. Các pháp biến chuyển tùy duyên, vật này biến thành vật kia thấy đúng như vậy gọi là trí tuệ Bát-nhă thấy đúng như thật, và đó cũng hợp với tinh thần khoa học hiện nay.

Pháp thế gian không cố định, c̣n pháp xuất thế có cố định không ? Pháp Phật nói như những thứ thuốc để trị bệnh cho chúng sanh, chúng sanh có những bệnh ǵ đức Phật lập ra những thứ thuốc ấy, v́ vậy thuốc và bệnh là hai cái đối đăi nhau th́ làm sao thật được ? Nếu cố chấp là thật tức là cố định, là sai lầm mất rồi. Cho nên nói không phải vô minh… cho đến không phải hết lăo tử là để phá chấp của Tiểu thừa cho Tứ đế và Thập nhị nhân duyên là thật pháp. Chẳng qua v́ chúng sanh có những bệnh nên đức Phật  phải lập những phương thuốc để trị, nếu bệnh hết rồi th́ thuốc cũng phải bỏ. V́ vậy pháp Tứ đế và Thập nhị nhân duyên đức Phật tạm lập ra để trị bệnh cho chúng sanh, nếu chúng ta chấp cho là thật pháp th́ sai lầm.

 Trí và đắc của Bồ-tát cũng không thật. Thật ra trên thế gian này không có cái sở đắc. Nếu có cái sở đắc là có cái bị được, tất phải có cái hay được; hay được và bị được là đối đăi nhau, năng và sở đối đăi nhau th́ làm sao thật được. Cho nên nói không trí cũng không đắc để phá luôn cái chấp trí đắc của Bồ-tát.

 Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhă ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu kính Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhă ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

V́ không có chỗ được, nên Bồ-tát y theo Bát-nhă  ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. V́ không ngăn ngại nên không sợ hăi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu kính Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhă ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Niết-bàn là vô sanh, tức là không sanh không diệt. Chúng sanh v́ bị các thứ điên đảo và mộng tưởng, tức là những cái nh́n trái với sự thật, và những cái tưởng mơ màng không đúng lẽ thật, cho bản thân ḿnh về tâm lư cũng như sinh lư là thường nhất và có chủ tể. Thấy như vậy là điên đảo, sai lầm không sáng suốt. V́ không sở đắc, nên Bồ-tát nương trí tuệ cứu kính xa ĺa được các điên đảo mộng tưởng. Nhờ trí tuệ cứu kính ấy, các Ngài hoàn toàn thoát ly sanh tử nên nói là cứu kính Niết-bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhă ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  Tức là thành Phật.

V́ không sở đắc, Phật nhân trí tuệ Bát-nhă mà được thành Phật. V́ không sở đắc, Bồ-tát nhân trí tuệ Bát-nhă mà xa ĺa tất cả sai lầm được an ổn Niết-bàn. Chính là vô đắc mà đắc, đây là tinh thần Bát-nhă. Như trong kinh Kim Cang, Phật nói: “…Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên đức Phật Nhiên Đăng mới thọ kư cho ta rằng: Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni”.

Chúng ta tu theo Phật phải đi đường nào để được Niết-bàn, để xa ĺa điên đảo mộng tưởng, để thành Phật ? Tức là phải dùng trí tuệ Bát-nhă, nên ở đây nói:

 Cố tri Bát-nhă ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.

Nên biết, Bát-nhă ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không dối.

V́ sao trí tuệ Bát-nhă lại có diệu dụng như là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú ? V́ ngày xưa ở Ấn Độ, những chú này thường được dùng để trừ hết các khổ của chúng sanh. Cũng như vậy, trí tuệ Bát-nhă có đủ công dụng như những thần chú ấy, chân thật không dối, đó là diệu dụng của Bát-nhă.

Cố thuyết Bát-nhă Ba-la-mật-đa chú tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.

V́ vậy nói chú Bát-nhă ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.

V́ sao đă nói trí tuệ Bát-nhă là đại thần chú, là đại minh chú… có diệu dụng trừ tất cả khổ, chân thật không dối, lại c̣n nói thêm câu chú Yết-đế, yết-đế… chi cho thừa.

Cách kết thúc bài Bát-nhă Tâm kinh này là một nghi vấn cho chúng ta. Có những nhà khảo cứu giải rằng: Trong thời trung kỳ Phật giáo (thời kỳ Bát-nhă), Mật tông đă chen vào trong giáo tức là trong kinh điển cho nên rốt sau bài Bát-nhă Tâm kinh có một câu chú để kết thúc.

Nhưng với cái nh́n của Thiền sư th́ không phải như vậy. Thiền sư thấy câu chú ở phần kết thúc là đúng nghĩa Tâm kinh. V́ sao ? Chúng tôi xin trích dẫn câu nói của Thiền sư Duy Tín: “Trước khi gặp thiện tri thức, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông”. Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích để quí vị nhận rơ:

Trước khi gặp thiện tri thức, thấy núi sông là núi sông: Khi chưa học Bát-nhă, chúng ta thấy núi sông là núi sông, v́ chúng ta thấy tất cả pháp thế gian đều là thật. Núi thật là núi, sông thật là sông. Pháp nào cũng thật, pháp nào cũng cố định cả.

Khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, thấy núi sông không phải là núi sông: Khi học Bát-nhă rồi, chúng ta thấy tất cả pháp tùy duyên, tất cả pháp không cố định, cho nên núi không phải là núi, sông không phải là sông. Ví dụ như v́ một nguyên do nào, quả đất chúng ta đang ở bỗng rung rinh sụp đổ, núi cao có thể biến thành biển cả, sông ng̣i lại hóa thành đồi nổng v.v... V́ vậy các pháp đều tùy duyên, không cố định, nên núi sông không phải là núi sông, tức là thấy đúng trí tuệ Bát-nhă.

Sau ba mươi năm, thấy núi sông là núi sông: Ba mươi năm hành thâm Bát-nhă rồi, mới thấy núi sông là núi sông. Nhận thấy núi sông là núi sông ở đây, có giống với nhận thấy núi sông là núi sông thuở trước, khi chưa gặp thiện hữu tri thức không ? Chắc hẳn là không ! Khi xưa thấy núi sông là thật, đến khi dùng trí tuệ Bát-nhă quán chiếu, biết núi sông là tướng tùy duyên không cố định. Khi biết các pháp hư dối, tùy duyên nên tâm không c̣n chấp một pháp nào, tức không c̣n dính mắc vào một pháp nào cả, gọi là tâm vô quái ngại, được cứu kính Niết-bàn, đó là đến chỗ như như. Tâm như như rồi, thấy núi là núi, sông là sông, không khởi phân biệt, không c̣n dính mắc. Thấy núi là núi, sông là sông là cái thấy của Thiền sư, là sống được với bản tâm thanh tịnh của ḿnh tức là tâm kinh vậy. Kết thúc bằng tâm kinh, tức là kinh này nói thẳng vào tâm, là chỗ không có ư niệm, không khởi phân biệt: núi là núi, sông là sông.

Chúng tôi xin dẫn thêm bài kệ của Thiền sư Tŕ Bát đời Lư, ḍng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Khi sắp tịch Ngài nói kệ:                  

Hữu tử tức hữu sanh             

Hữu sanh  tức hữu tử            

Tử vi thế sở bi

Sanh vi thế sở hỉ                                

Bi hỉ lưỡng vô cùng              

Hốt nhiên thành bỉ thử

Ư chư sanh tử bất quan hoài 

Án tố rô tố rô tất rị.

Dịch:

 Có tử tức có sanh

Có sanh tức có tử                                                     

Tử làm người đời buồn                                             

Sanh làm người đời vui

Buồn vui hai không cùng

Bỗng nhiên thành bỉ thử

Đối với sanh tử không bận ḷng

Án tố rô tố rô tất rị.

Có tử tức có sanh, có sanh tức có tử. Tử làm người đời buồn, sanh làm người đời vui. V́ vậy để kỷ niệm ngày sanh, người ta gọi là ăn mừng sanh nhật, c̣n nhớ tưởng đến ngày mất, người ta buồn sợ nên gọi là ngày kỵ cơm. Vui buồn, hai cái không cùng tột, bỗng nhiên thành ra có kia, có đây, trong ṿng đối đăi. Đối với sanh tử không bận ḷng, tức không c̣n thấy hai bên, nghĩa là không c̣n cố chấp hai bên nữa. Không c̣n cố chấp thật sanh, không c̣n cố chấp thật tử, th́ như thế nào ? Án tố rô tố rô tất rị ! Ư nghĩa câu thần chú này là ǵ ? Tức là khi người ta không c̣n chấp hai bên th́ tâm hết dính mắc. Tâm hết dính mắc tức đến chỗ như như. Đọc câu chú ấy lên mà không dấy niệm phân biệt, đó là như như. Như vậy, khi kết thúc bằng mấy câu thần chú là để nói dùng trí tuệ Bát-nhă đến chỗ cứu kính rồi, th́ tâm thể như như, đó tức là Tâm kinh. Các Thiền sư thời xưa hay dùng câu thần chú để kết thúc, như Quốc sư Tông Cảnh đă dùng “Án tố rô tố rô tất rị” để kết thúc bài tán ngài Tuệ Trung Thượng sĩ.

III- KẾT THÚC:

Bát-nhă chia làm ba phần: Văn tự Bát-nhă, Quán chiếu Bát-nhă, Thật tướng Bát-nhă. Văn tự là chữ nghĩa để chúng ta đọc tụng, hiểu nghĩa. Quán chiếu là xem xét soi thấu. Thật tướng là chỗ chân thật Niết-bàn. Văn tự Bát-nhă ví như con thuyền, quán chiếu Bát-nhă ví như ra công chèo bơi, thật tướng Bát-nhă ví như bờ bên kia. Người muốn qua bờ bên kia, khi xuống thuyền rồi hài ḷng ở đó th́ không bao giờ toại nguyện, cần phải chèo bơi mới mong tới bờ kia, đến bờ rồi chúng ta mới tự tại đạt được sở nguyện của ḿnh. V́ thế kinh này đặt nặng ở hai chữ chiếu kiến, tức là quán chiếu Bát-nhă.

Trong bài Bát-nhă Tâm kinh, nếu chúng ta ứng dụng triệt để th́ con đường tu hành đă sẵn đầy đủ trong đó chớ không đâu xa. Nếu chúng ta hằng dùng trí tuệ Bát-nhă soi măi, thấy rơ ràng tất cả thân cảnh đều là duyên hợp không có tự tánh, tức là không cố định. Bởi tất cả pháp đều là tùy duyên biến đổi không cố định, thử hỏi chúng ta nhằm vào đâu mà chấp ? Nếu chấp là chấp vào cái ǵ cố định. Bây giờ không cố định là phải, không cố định là quấy, không cố định là hơn, không cố định là thua, tất cả đều không cố định th́ thử hỏi chấp vào cái ǵ ? Phá hết các chấp rồi là hết khổ, hết khổ th́ tâm không c̣n bị ngăn, bị chướng, dứt hết các điên đảo mộng tưởng, được hoàn toàn không sanh không diệt. Đây tức là Tâm kinh. Tâm kinh là con đường chư Bồ-tát đă đi, chư Phật cũng từ đó mà chứng đạo. Ngày nay chúng ta tu, đâu có lối nào khác hơn, cho nên các thời kinh đều dùng bài Bát-nhă Tâm kinh để kết thúc.

Thế mà có lắm người hiện nay không nhận thấy Bát-nhă là trí tuệ phá các chấp mê lầm của chúng sanh, mà cho bài Bát-nhă là để bổ túc những thiếu sót trong bài tụng ở trước, đó là một điều hết sức sai lầm. Ông cha quá thông minh, đến con cháu quá dốt nát, không hiểu được ư người xưa, nên nói lệch lạc ngược lại với ông cha của ḿnh.

Người học đạo nếu thật t́nh muốn tiến tu để thoát ly sanh tử, th́ không ai mà không ứng dụng trí tuệ Bát-nhă. Chính Lục tổ ngộ cũng từ kinh Kim Cang Bát-nhă, đến khi dạy Ngài cũng lấy phẩm Bát-nhă làm quan trọng; và đến giờ phó chúc Ngài cũng dùng tinh thần Bát-nhă để nhắc nhở đồ đệ. Cửa Thiền là cửa không. Không đây là không cố định. Dùng trí tuệ Bát-nhă thấy các pháp không cố định là thấy cửa vào nhà Thiền.   

Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa việc ứng dụng tu hành: Hằng dùng trí tuệ Bát-nhă quán chiếu thân ngũ uẩn là tướng duyên hợp không thật, trần cảnh cũng là tướng duyên hợp không thật, hằng nhận thấy như vậy tức nhiên chúng ta bớt chấp thật. Khi biết các pháp là không thật, th́ vọng tưởng sẽ giảm dần và chúng ta mới buông bỏ vọng tưởng dễ dàng hơn. Thân tứ đại không thật, tâm vọng tưởng không thật th́ dù ai có khen có chê, chúng ta cũng chẳng bận ḷng, phiền năo chấp trước càng ngày càng nhẹ bớt đi. Dùng trí tuệ Bát-nhă ứng dụng vào việc tu hành th́ chúng ta tu sẽ được an ổn nhẹ nhàng và thảnh thơi.

Biết các pháp là tướng tùy duyên không cố định th́ nói sao cũng tốt, không có ǵ quan trọng. Người đời nói là phải ta cũng gật đầu, người đời nói quấy ta cũng gật đầu, v́ tùy theo thời gian, hoàn cảnh mà người ở thế gian cho là phải hay quấy. Nhưng trên phương diện tu hành, chúng ta biết các pháp là không thật th́ buông xả dễ dàng không chấp trước, việc phải quấy là tướng đối đăi tùy duyên, có ǵ mà phải bận ḷng ! Nói thế, không có nghĩa chúng ta là kẻ ba phải, v́ ba phải là kẻ nói ǵ cũng gật, c̣n chúng ta sống bằng trí tuệ Bát-nhă thấy rơ lẽ thật của cuộc đời nên không cố chấp. Chấp là ngu si đau khổ, hết chấp là giải thoát Niết-bàn. 

]

 


[muc luc][loi dau sach][bat nha tam kinh giang giai]

[Trang chu] [Kinh sach]