Chùa Bửu Quang - Cao
Lãnh - 2000.
Nhớ
lại năm 1964 tôi đã có về Đồng Tháp giảng mấy lần, đến nay ba mươi sáu
năm, tôi mới trở lại thăm Tăng Ni và quý Phật tử. Cho nên gặp lại người cũ
thì ít mà người mới thì nhiều. Vậy tôi xin có lời thăm tất cả quý vị.
Đề tài chúng tôi
giảng hôm nay: Đức Phật là bậc Vô Thượng Y Vương. Vô Thượng Y Vương là sao
? Nghĩa là Phật là vua thầy thuốc, không ai hơn.
Hồi xưa lúc làm tăng
ở Phật học đường Ấn Quang, nghe từ này tôi hơi ngại, không biết người sau
có quá tôn trọng chăng ? Vô Thượng Y Vương là vua thầy thuốc không ai hơn,
nhưng Phật có hốt thuốc lần nào đâu mà gọi là vua thầy thuốc. Sau này khi
được học và tu rồi, tôi mới thấy lời tán thán đó chân thật, chớ không phải
lời tán thán suông. Tại sao ?Bởi thầy thuốc cứu chữa cho người, nếu là
bệnh thập tử nhất sanh mà chữa được lành, thì gọi là thầy thuốc giỏi. Như
vậy thầy thuốc giỏi có thể cứu được bệnh nhân sắp chết sống trở lại. Nhưng
sống thêm dài lắm chừng mười năm, hai mươi năm thôi. Như vậy mà người ta
đã tán thán vị đó rồi. Còn đức Phật cứu sống chúng sanh được bao nhiêu ?
Chúng ta tu Phật, ai
cũng biết mình đang mang chiếc thân vô thường, tạm bợ. Nhưng nếu biết
nương nó, khéo tu thì chúng ta sẽ đi đến chỗ giải thoát sanh tử. Mà giải
thoát sanh tử thì sống chừng bao lâu ? Sống mãi không có ngày cùng, sống
hoài không chết. Như vậy Phật pháp là những phương thuốc trị tâm bệnh. Khi
lành rồi, chúng ta không còn bị vô thường chi phối, vì vậy sống mãi không
cùng tận.
Bậc đem phương thuốc
đó chỉ dạy cho người, không phải vua thầy thuốc thì là gì ? Gọi vua thầy
thuốc được rồi, tại sao nói không ai hơn ? Không ai hơn nghĩa là có người
bằng. Tại sao có người bằng ? Vì nếu chúng sanh chịu khó tu hành đến khi
công đức viên mãn thì sẽ thành Phật. Như vậy Phật là Phật đã thành, chúng
ta là Phật sẽ thành. Khi thành Phật rồi thì có thua Phật bậc nào đâu. Nếu
thành Phật thì Phật hồi xưa đến đâu chúng ta đến đó, ngang bằng Phật mới
gọi là Phật, nếu thấp hơn Phật thì không gọi là Phật được. Như vậy để hiểu
rằng chúng ta tu theo Phật là cốt thành Phật, mà cốt thành Phật thì sau
này sẽ bằng Phật. Đó là ý nghĩa của Vô Thượng Y Vương.
Hiểu rõ được ý nghĩa
đó, chúng ta biết có quả vị ngang bằng Phật, chớ không có người hơn Phật
nên gọi Vô thượng. Vì đến đó là giác ngộ viên mãn rồi. Đức Phật là bậc Vô
Thượng Y Vương nên Ngài dạy chúng ta trị bệnh để hết sinh tử khổ đau. Vậy
bệnh đó là bệnh gì ? Ở đây, tôi sẽ lần lượt nêu ra.
Như trong kinh
thường nói, chúng sanh có bệnh gì thì Phật có pháp ấy để đối trị. Nên từ
chữ Hán gọi “Tùy bệnh dữ dược”, nghĩa là theo bệnh cho thuốc. Người ta bị
bệnh gì thì mình cho thuốc ấy để trị lành bệnh. Thầy thuốc ở thế gian khi
chẩn mạch biết bệnh rồi thì phải tìm, phải chọn thuốc đúng với bệnh đó.
Trị đúng thì bệnh mới lành.
Ở đây Phật cũng xét
kỹ chúng sanh có bệnh gì, Phật cho thuốc ấy. Nhưng bệnh của chúng sanh là
tâm bệnh. Thầy thuốc thế gian thì trị thân bệnh, còn Phật thì trị tâm
bệnh. Trong kinh Phật thường nói chúng sanh có tám muôn bốn ngàn phiền não
thì Phật có tám mươi bốn ngàn pháp môn.
Hiện giờ trong chúng
ta có ai không bệnh không ? Tâm chúng ta hoàn toàn tốt, hoàn toàn tỉnh
giác hay vẫn đầy đủ tham, sân, si. Như vậy mỗi khi chúng ta sanh một niệm
xấu, một niệm ác, là đã có một bệnh. Có bệnh thì phải lấy thuốc Phật uống
vô cho lành bệnh.
Quý Phật tử tu theo
Phật phải biết thuốc gì để trị bệnh mình ? Có nhiều vị tu cũng đã lâu mà
hỏi dùng thuốc gì trị bệnh thì lắc đầu không biết. Chỉ tụng kinh niệm Phật
vậy thôi. Đó là vì chưa hiểu chính xác đường lối tu của Phật dạy. Tu theo
Phật năm mười năm mà phiền não vẫn còn nguyên, bệnh nào tật nấy không thay
đổi. Rồi nói thuốc của Phật không có giá trị, không hết bệnh. Thế là bỏ
thuốc luôn.
Như vậy Phật tử mới
thấy rằng, chúng ta tu mà chưa nắm vững được đường lối, thì không biết
mình tu cái gì, không biết mình bị bệnh gì, không biết dùng thuốc gì để
trị... lỗi tại không rành, không hiểu. Đó là một yếu điểm mà chúng ta cần
phải biết. Nói pháp Phật là thuốc trị bệnh mà người ta hỏi trị bệnh gì và
dùng pháp gì để trị thì không biết, như vậy làm sao hết bệnh được.
Thường thường chúng
ta có bệnh về thân, thì bác sĩ chẩn mạch xong cho thuốc trị. Nếu cho thuốc
mà chúng ta không uống thì có lành không ? Chắc chắn là không rồi. Vậy mà
vẫn có người đến xin bác sĩ cho tôi khỏi bệnh, chớ không cần chẩn mạch.
Quý vị nghĩ người đó có thể trị lành bệnh không ? Bởi vì bác sĩ chẩn bệnh
cho thuốc để trị bệnh mà bệnh nhân chỉ cầu xin bác sĩ cho hết bệnh, chớ
không cần cho thuốc, không chịu uống thuốc thì bệnh làm sao lành được.
Phật tử chúng ta
cũng giống như những bệnh nhân đó vậy. Phật dạy tu, nghĩa là mình có bệnh
gì thì dùng pháp đó để trị. Thế nhưng Phật tử chỉ chấp tay cầu Phật gia hộ
cho con được bình yên, Phật gia hộ cho con mạnh khỏe, chớ không chịu tu.
Nghĩa là không chịu uống thuốc, không chịu trị bệnh mà xin Phật cho mạnh
khỏe, bình yên thôi. Phật đã từng tuyên bố rằng: “Ta không có quyền ban
phước giáng họa cho ai”. Nếu Phật ban phước giáng họa được thì Phật không
dạy chúng ta tu nhân quả. Tạo nhân lành thì hưởng quả lành, tạo nhân ác
thì hưởng quả ác. Chúng ta tạo chúng ta hưởng, Phật không có can thiệp
chút nào hết. Phật chỉ dạy chúng ta biết đường lối tu để dẹp phiền não,
hết khổ đau. Nhưng chúng ta không chịu tu, cứ xin Phật cho hết phiền não,
hết khổ đau thì xin chừng nào mới được ?
Thêm một hạng người
nữa, như bác sĩ chẩn mạch cho toa xong, bảo mua thuốc đó uống sẽ lành
bệnh. Nhưng người ấy đem toa về nhà đọc hoài, đọc thuộc lòng mà không chịu
mua thuốc uống. Người này có hết bệnh không ? Phật tử có giống như vậy
không ? Chắc cũng như vậy.
Phật dạy những bài
pháp cho mình tu, nhưng chúng ta cứ lấy kinh ra đọc tới, đọc lui cho Phật
nghe, như vậy là tu rồi đó. Đêm nào cũng đem đọc cho Phật nghe, mà bệnh
vẫn còn nguyên. Mới thấy chúng ta từ lầm lẫn này sang lầm lẫn khác, nên tu
không có kết quả. Chúng ta phải tu cách nào cho đúng lời Phật dạy ? Đó là
điều mà tôi nói ở đây.
Phật là vua thầy
thuốc, có những toa thuốc hay trị tất cả bệnh của chúng sanh. Chúng ta
bệnh phải dùng những toa thuốc đó thì bệnh mới lành. Muốn lành bệnh chúng
ta phải chịu uống thuốc, chớ không thể đọc toa thuốc, hoặc chấp tay xin
thầy thuốc cho lành bệnh. Đó là hai điểm tôi nhắc cho quý vị nhớ rõ.
Quý vị có biết mình
bao nhiêu bệnh, đã lành hết chưa ? Về thân thì nay yếu mai đau, về tâm thì
sao vẫn cứ phiền não hoài. Chừng nào ở trong chúng, trong gia đình mà cả
tháng chúng ta cứ cười vui, không buồn không giận ai hết, không một chút
than thở gì, đó mới là ít bệnh. Nếu lại có người chỉ mang một ít bệnh,
nhưng những bệnh đó là bệnh quan trọng thì thế nào ? Trong kinh Phật có kể
lại: Một hôm Phật hỏi các vị Tỳ Kheo:
- Nếu các ông nhốt
ba con rắn độc chung một nhà thì thế nào ?
Các thầy Tỳ Kheo
bạch rằng:
- Chúng con ngủ
không yên.
Phật hỏi:
- Làm thế nào các
ông ngủ mới yên ?
Các thầy Tỳ Kheo
bạch rằng:
- Chúng con phải
đuổi mấy con rắn độc ra khỏi nhà thì ngủ mới yên.
Phật nói:
- Cũng vậy, nếu các
ông còn tham sân si trong tâm thì các ông ngủ không yên. Vì tham sân si
còn hại hơn rắn độc nữa. Rắn độc cắn chỉ chết một thân này, tham sân si
tạo nghiệp chịu khổ không biết khi nào mới hết.
Như vậy hiện giờ nội
tâm của chúng ta đã hết tham sân si chưa hay còn đủ ? Nếu còn đủ chúng ta
có yên lòng ngủ không ? Nó độc hơn rắn độc mà chứa nó, thì làm sao chúng
ta yên được ? Vậy mà Phật tử không biết đuổi rắn độc ra, lại đi xin Phật
cho con bình yên. Thử hỏi làm sao bình yên được ?
Chúng ta tu là mong
hết khổ, để đi tới an lạc giải thoát. Nếu còn tham sân si là còn đau khổ.
Cho nên dù tu năm mười năm, mà tham sân si không hết thì việc tu đó vô
hiệu rồi. Hiện nay, chẳng những người tại gia cư sĩ mà cả hàng xuất gia,
có ai hết tham sân si chưa ? Chưa ai hết. Như vậy thì chúng ta chưa có
bình an, phải không ? Bởi vì trong nhà còn rắn độc thì làm sao bình an
được. Đó là một lẽ thật.
Thế nên, muốn được
bình an phải đuổi ba con rắn độc ấy đi. Phật dạy phương pháp đuổi nó,
chúng ta phải khéo nghe và khéo tu thì sẽ đuổi được bọn chúng ra khỏi nhà.
Trước tiên, tôi nói
về con rắn tham. Muốn đuổi rắn tham ra khỏi nhà thì phải dùng thuốc gì ?
Trước khi nói cách đuổi, tôi giải thích rõ tham có nhiều loại. Thông
thường có năm thứ: tham tài, tham sắc, tham danh, tham thực, tham thùy. Đó
là năm thứ tham. Năm thứ tham này phải trị bằng thuốc gì ?
1- Người tham tiền
của nhiều thì dùng thuốc bố thí để trị. Tại sao bố thí lại trị được bệnh
tham tiền của ? Bởi vì tham nên được ít muốn nhiều, được nhiều muốn nhiều
hơn nữa. Như gia đình mình mỗi tháng có một triệu bạc thì sống thoải mái,
nếu tháng đó có được triệu rưỡi thì sao ? Dư năm trăm phải không ? Người
tham khi dư năm trăm, liền muốn kiếm thêm năm trăm nữa cho được hai triệu.
Do đó để trị bệnh
tham, Phật dạy phải bố thí. Khi dư năm trăm, chúng ta xem ai nghèo thiếu,
ai khổ hơn mình thì giúp cho họ. Bố thí như vậy vừa được việc lợi ích cho
người, vừa hết lòng tham cho mình. Có dư liền cho thì đâu còn tham, dư mà
tích lũy hoài thì đó là tham. Nên trong kinh Phật thường dạy, lòng tham
như túi không đáy, bỏ bao nhiêu nó cũng tuột hết, không biết tới đâu là
đầy, tới đâu là đủ. Vì vậy chúng ta có dư nên giúp người nghèo thiếu, đó
là biết trị bệnh tham tài.
2- Tham sắc dùng
thuốc gì để trị ? Nếu người tham sắc phải dùng thuốc quán bất tịnh để trị.
Quán bất tịnh có hai cách: Một là quán nơi thân mình có ba mươi sáu vật
nhơ nhớp. Hai là quán thân người chết, từ khi mới tắt thở lần lần tới sình
thối v.v... quán như vậy sẽ hết tham sắc. Tại sao ? Vì thấy thân này nhơ
nhớp, bẩn thỉu đáng gớm thì thân người khác cũng nhơ nhớp, bẩn thỉu như
thế, có gì để yêu thích. Nói tóm lại thân mình, thân người chỉ là một cái
bô đậy kỹ vậy thôi. Quý vị nghĩ trong nhà có một cái bô đã khó chịu rồi,
huống là thêm hai, ba cái nữa thì đáng gớm không?
Khi đức Phật gần
thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ma vương đến phá Ngài bằng cách hiện hình những
thiếu nữ kiều diễm ca múa, để Ngài nhớ trở về hoàng cung. Ngài liền quở:
“Đi, các ngươi là đãy da hôi thúi. Ta không có dùng”. Chúng hổ thẹn rút
lui hết. Sau đó, chúng hiện ra một đám đầu trâu mặt ngựa hung dữ, cầm gươm
giáo bao vây muốn khiến cho Ngài run sợ. Nhưng đức Phật chỉ an ở trong
chánh định, không thèm nghĩ, không thèm thấy nó. Lát sau, bọn chúng cũng
bỏ đi. Nên trong kinh nói rằng, đức Phật dùng cung Thiền định, kiếm trí
tuệ mà dẹp tan ma quân.
Chúng ta tu là dùng
thiền định, trí tuệ để dẹp sạch ma quân. Nhưng bây giờ có nhiều người ngồi
Thiền hoặc niệm Phật bắt ấn, đọc chú hoặc vẽ bùa để trấn ma. Đó là đã đi
lệch hướng rồi. Chúng ta phải dùng Thiền định, dùng trí tuệ để dẹp ma chớ
không phải dùng bùa, dùng chú. Bùa chú như vậy là lạc vào ngoại đạo rồi.
Quý vị nhớ phải thật kỹ.
Nói thân này nhơ
nhớp, có người không bằng lòng, vì họ cho rằng mình vệ sinh sạch sẽ thì
làm sao nhơ nhớp được ? Tôi nói một thí dụ rất đơn giản để minh chứng điều
này. Nếu thân này sạch thì nó luôn toát ra mùi thơm như hoa sen rồi, chúng
ta đâu cần phải dùng xà bông thơm. Nhưng vì nó hôi quá nên phải dùng xà
bông thơm, dùng nước hoa cho bớt hôi. Vì biết mình nhơ nhưng muốn giấu,
không cho người ta biết nên dùng cái này cái kia để khỏa lấp đi. Đó là
chúng ta chưa thấy lẽ thật.
Thêm một điều nữa,
biết rõ thân mình nhớp nhúa, nhưng nghe ai nói: “Chị này hôi quá” thì buồn
liền. Sự thật mình nhớp nhưng nghe người ta chê lại buồn. Như vậy rõ ràng
chúng ta không dám nhìn nhận sự thật. Chúng ta chỉ tưởng tượng chứ không
thấy đúng lẽ thật.
Người biết tu rồi
phải nhìn thấu đáo sự thật. Thân này nhớp nhúa, chúng ta nhận là nhớp nhúa
nên nghe ai chê, mình chấp nhận đúng như vậy. Chúng ta kiểm lại từ đầu đến
chân có cái gì không nhớp đâu. Như quý nhất là con mắt, nhưng khi ghèn
cháo đổ ra có gớm không ? Rồi đến lỗ mũi, nước mũi chảy ra có gớm không ?
Kế là miệng, miệng khi khạc nhổ ra rồi, có can đảm liếm lại không ? Như
vậy tất cả từ đầu đến chân toàn là nhơ nhớp, mà chúng ta cứ tưởng nó sạch.
Tưởng tượng thì không phải lẽ thật. Đó là cái thấy sai lầm, không có trí
tuệ. Chúng ta biết rõ thân này nhớp nhúa, mà đã nhớp nhúa thì tại sao lại
mê đuổi theo nó ? Đó là điểm thứ nhất.
Thứ hai, nếu người
bệnh tham ái trầm trọng, thấy ai cũng dễ thương hết, thì Phật dạy quán
thây chết. Từ lúc mới tắt thở cho đến một giờ, hai giờ, tới bầm xanh rồi
sình lên v.v... Bây giờ nói gần nhất như người thân của mình, hoặc anh em
cha mẹ, khi tắt thở chừng vài chục tiếng đồng hồ, mình dám lại gần không ?
Đó, lúc sống là cha, là mẹ, là anh, là em mà chết liền thành thây ma, gớm
sợ đủ thứ hết. Như vậy mới thấy rằng thân đó không thật quý. Nếu thật quý
thì chúng ta đâu có sợ.
Phật bảo ai bệnh
nặng về sắc, thì phải luôn luôn quán thân là nhớp nhúa. Từ tóc, lông,
răng, móng, da, thịt, gân, xương, ba mươi sáu vật xét cho thật kỹ, vật nào
cũng nhớp hết. Quán như vậy mà không hết bệnh thì phải quán thây chết. Đó
là cách trị bệnh tham sắc.
Lâu nay quý vị có
trị bệnh đó chưa ? Tu mà không chịu trị bệnh, nên bệnh còn hoài. Rồi than
sao tôi tu lâu quá mà những thói xấu không chịu hết. Vì có chịu quán đâu,
không chịu uống thuốc mà cứ đọc toa thuốc của Phật suốt ngày thì làm sao
hết bệnh được. Đó là bệnh thứ hai.
3- Bệnh tham danh.
Tham danh tức là muốn được chức phận cao, muốn được người ta khen ngợi
v.v... Phật dạy bệnh tham danh lấy thuốc vô thường để trị. Giả sử người ra
ứng cử Tổng thống được đắc cử, người đó hưởng địa vị ấy bao lâu ? Bốn năm,
tám năm rồi cũng hết. Sau đó cũng thành thường dân trở lại, đâu có bền,
đâu có lâu dài mà phải chịu bao nhiêu thứ khổ sở. Đó là dùng thuốc vô
thường để trị bệnh tham danh. Song muốn uống cho hết gốc thì phải thêm
thang thuốc quán “khổ” nữa.
Bởi vì người cầu
danh trước khi được cũng khổ, sau khi được cũng khổ. Như trước khi được
làm Tổng thống phải vận động, chạy ngược chạy xuôi cầu mong người ta bỏ
phiếu cho mình, vận động là khổ rồi. Đến khi đắc cử Tổng thống có vui
không ? Phải lo đủ thứ việc, rồi lại sợ người ta đoạt mất ghế nữa. Đó,
được và gìn giữ cho đừng mất cũng khổ. Đến khi lỡ rớt xuống có khổ không ?
Khổ. Như vậy quán ba thời đều là khổ: trước khổ, giữa khổ, sau cũng khổ.
Một cái vô thường mà muốn được, phải khổ như vậy thì muốn làm gì ? Muốn
được khen ngợi làm gì, muốn chức tước cao làm gì ? Nhờ quán như thế, tự
nhiên mình hết tham danh vọng chức tước cao. Đó là phương thuốc trị bệnh
tham danh.
4- Bệnh tham ăn.
Bệnh tham ăn này ai cũng có hết. Ăn thì muốn ăn thật ngon, cho vừa với cái
lưỡi tham vị ngon. Bệnh tham ăn này phải dùng thuốc gì để trị ? Phải dùng
hai thứ thuốc trị mới lành.
Thuốc thứ nhất là
quán thức ăn nhơ nhớp, không sạch. Khi còn ở trên mâm, nó thơm tho hấp
dẫn, nhưng nhai nuốt rồi nó mất. Sau khi mất, tới hồi trả ra rất ghê gớm.
Như vậy nó có thật ngon không ? Nếu thật ngon thì trước sau đều ngon. Khi
đem vô ngon, lúc trả ra cũng phải ngon. Nhưng đằng này đem vô thì ưa, mà
đem ra thì gớm. Như vậy đâu phải thật ngon. Đó là nói tiêu hóa được, còn
như không tiêu hóa, ăn vô khỏi cổ mà bao tử không chịu chứa, bắt ụa ra thì
có gớm không ? Như vậy ngon chỗ nào ? Chúng ta xét thức ăn nhơ nhớp không
có gì quan trọng, ăn để sống chớ không phải ăn để tìm vị ngon. Mà không
tìm vị ngon thì bớt tham ăn.
Thuốc thứ hai, chúng
ta xét thức ăn ngon chỉ có mấy phút ở lưỡi thôi, khi nuốt vô rồi liền hết
ngon. Cái ngon đó là cảm giác tạm bợ, vô thường, không lâu bền. Vì vô
thường nên không quan trọng. Lại thêm nữa, nếu người có tiền của dư dả,
muốn ăn gì đều được nấy. Ăn đủ thức ăn ngon sẽ dẫn đến kết quả mập phì, bị
bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, đủ thứ bệnh v.v... Như
vậy ăn càng ngon thì càng khổ, càng bệnh chớ có lợi gì đâu.
Tóm lại, cái mà
chúng ta nói ngon đó không phải là lẽ thực, không phải là kế lâu dài, chỉ
là tạm bợ. Nếu chúng ta lệ thuộc nó thì phải khổ thôi. Quán cái ngon là vô
thường, là nhơ nhớp thì lần lần hết tham muốn ăn ngon. Như vậy dùng thuốc
quán vô thường, quán bất tịnh để trị bệnh tham ăn.
5- Bệnh tham ngủ.
Bệnh này trong chùa dễ mắc lắm. Vì phải thức khuya dậy sớm, nên người nào
tham ngủ nhiều sẽ khó thức lắm. Hồi tôi còn ở trường, có mấy huynh đệ
thường dặn: “Khuya nhớ kêu tôi dậy đi công phu nghe”. Tới khuya đánh kẻng
tôi kêu, lắc qua lắc lại một hồi, huynh ấy nói đau đầu quá, rồi ngủ ót
không thèm dậy công phu luôn. Đó là bệnh tham ngủ. Bởi tham ngủ nên mất
hết thì giờ tu hành của mình.
Làm sao để trị bệnh
tham ngủ ? Muốn trị bệnh này, cũng có hai thứ thuốc. Một là thuốc vô
thường. Hồi xưa, mỗi khi tụng kinh thường nghe câu: “Thị nhựt dĩ quá, mạng
diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư ...” nghĩa là ngày nay đã qua, mạng cũng
theo đó mà giảm, như cá cạn nước... Như vậy cuộc sống thật ngắn ngủi, thật
tạm bợ mà mình cứ lo ngủ, tức là giết hết thì giờ quý báu rồi. Cho nên
phải siêng năng thức dậy tu.
Hai là lấy roi tinh
tấn để đánh ma ngủ. Nghe tiếng kẻng, chưa chịu dậy thì phải rầy cho nó
trỗi dậy liền. Tu hành mà lười biếng là cái nhân đọa vào đường ác. Nên
phải mạnh mẽ, phải tinh tấn, nhắc như vậy cho mình cố gắng lên. Đó là dùng
thuốc tinh tấn và thuốc quán vô thường để trị bệnh lười biếng. Nhờ thế ma
ngủ lui mất.
Tóm lại, để trị năm
thứ bệnh tham đó, chúng ta phải biết và dùng các toa thuốc như sau:
- Tham tài dùng
thuốc bố thí.
- Tham sắc dùng
thuốc quán bất tịnh.
- Tham danh dùng
thuốc quán vô thường và quán khổ.
- Tham ăn dùng thuốc
quán bất tịnh và quán vô thường.
- Tham ngủ dùng
thuốc quán vô thường và roi tinh tấn.
Trong năm thứ tham
này không ai giống ai, kẻ tham thứ này, người tham thứ kia, không giống
nhau. Cho nên mỗi thứ đều có thuốc để trị. Như vậy là trị được bệnh tham.
Trị được bệnh tham là đuổi con rắn tham ra rồi.
Đến con rắn sân.
Người bị bệnh sân lấy thuốc gì để trị ? Phật dạy dùng hai thứ thuốc để
trị. Một là nhẫn nhục, hai là từ bi. Khi người ta nói trái ý hoặc làm
thương tổn đến danh dự của mình, lúc cơn giận bừng bừng nổi lên. Chúng ta
liền dùng thuốc nhẫn nhục. Nhẫn làm sao, uống bằng cách nào ?
Khi nóng giận phừng
phừng nổi lên thì nó sẽ phát ra lời nói, phát ra hành động. Vì vậy lửa sân
vừa dấy lên thì chúng ta liền phải trị bằng thang thuốc nhẫn nhục. Song
nhẫn bằng cách nào, làm sao nhẫn ? Nói nhịn là được, nhưng sự thực nói
nhịn không thì chưa đủ sức để nhịn. Chúng ta phải nói rõ rằng: “Nhịn là
khôn, nói là dại”, nhắc tới nhắc lui câu đó chừng chục lần thì hết giận.
Bởi khi giận nói ra
liền nói bậy. Có khi nào mình nổi nóng mà nói đàng hoàng đâu. Nổi nóng thì
toàn là nói bậy, nói lời không hay, nói lời thô tục v.v... Vì vậy mà phải
tự nhắc “nhịn là khôn, nói là dại”. Chúng ta muốn khôn, không muốn dại thì
nhịn, làm thinh bỏ qua. Nhưng bỏ qua một lát thì dễ, đến chừng nhớ lại
cũng nổi nóng nữa. Bây giờ phải làm sao trị cho dứt tận gốc mới được ? Nên
phải dùng thuốc quán từ bi để trừ căn.
Quán từ bi là quán
thế nào ? Như khi ta nổi giận lên, lúc đó thấy người làm cho mình giận dễ
thương hay dễ ghét ? Rất dễ ghét, chẳng những ghét mà còn muốn chửi, muốn
đánh họ cho đã giận. Nên phải dùng thuốc quán từ bi. Nhưng quán từ bi bằng
cách nào ? Họ chửi mình làm sao quán từ bi được ? Tôi sẽ chỉ cho quý vị
cách quán từ bi không khó.
Ví dụ chúng ta vào
bệnh viện tâm thần thăm một người quen. Vừa bước vào cửa rào, gặp một
người điên chỉ vô mặt mình chửi, lúc đó chúng ta xử trí ra sao ? Họ chửi
mình không có duyên cớ gì hết, không động phạm gì hết, như vậy đáng giận
không. Nếu giận, mình chửi mình đánh lại thì người ngoài cuộc sẽ nói mình
thế nào ? Kẻ đánh lộn với người điên là kẻ điên luôn rồi, chứ còn gì nữa.
Như vậy để phân biệt
ai là kẻ điên, ai là người tỉnh thì khi gặp kẻ điên loạn làm bậy, nói bậy,
mình phải tỉnh không cự lại họ. Người ta điên nên người ta bậy, người ta
sai. Còn mình bình tĩnh thì phải sáng suốt mới đúng chứ. Nên khi người vô
cớ chửi mình, làm nhục mình, chúng ta phải nghĩ người đó không được minh
mẫn nên họ mới nói bậy, làm bậy. Người đó đáng thương chớ không đáng giận.
Xét như vậy chúng ta thương họ, tội nghiệp họ nên không giận. Nhờ thế trị
hết gốc giận luôn.
Quý Phật tử phải
khéo tu mới hết nóng giận. Nhiều vị nói tánh tôi nóng quá, nên mỗi bữa đốt
hương nguyện Phật cho con hết nóng. Phật cho được không ? Phật không thể
cho mình hết nóng mà Phật chỉ dạy pháp tu, chúng ta ứng dụng theo đó tu
tập thì sẽ hết nóng giận. Phương pháp trị nóng giận là hành hạnh nhẫn nhục
và quán từ bi.
Trong kinh Phật có
kể lại một câu chuyện: Hôm đó, Ngài khất thực tại một khu làng của các vị
Bà La Môn. Bổn đạo Bà La Môn thấy Phật oai nghi nghiêm trang tề chỉnh,
tướng mạo rất đẹp, nên họ vây quanh chiêm ngưỡng Phật. Sau khi thọ trai
xong, Phật nói pháp cho họ nghe. Nghe xong, họ phát tâm quy y Phật. Đôi ba
lần như vậy nên xóm Bà La Môn đó theo Phật hết. Bấy giờ, vị thầy của họ
tức quá, ông đợi đức Phật đến, rồi lẽo đẽo theo sau kêu tên của Phật chửi.
Chửi một hồi, ông thấy Phật vẫn cứ ung dung đi, không để ý gì cả, ông bèn
chận đường Phật, hỏi:
- Cù Đàm, thua tôi
chưa ?
Phật trải tọa cụ
ngồi xuống, đọc bài kệ:
Kẻ hơn
thì thêm oán
Người
thua ngủ chẳng yên
Hơn thua
hai đều xả
Ấy được
an ổn ngủ.
Phật im lặng, ngoại
đạo tưởng Phật thua. Nhưng sự thực ai còn chê người, còn giành phần hơn
thì kẻ đó là người bất an. Như vậy mới thấy nhịn là khôn, chửi là dại.
Chúng ta thấy ngay
cả đức Phật ngày xưa, đâu phải ai cũng cung kính hết, vẫn có người chửi
như thường. Nếu gặp người chửi, Ngài cũng chửi lại thì bây giờ chúng ta có
lạy Phật không ? Cũng vậy, giới tu sĩ chúng ta nếu bị người mắng chửi,
liền nổi tức lên cự lộn với người ta, rốt cuộc lỗi hết về mình. Vì sao ?
Vì đã là tu sĩ mà còn nóng giận sân si như vậy, thì đâu thể gọi là kẻ tu
hành được. Làm sao dạy dỗ hàng Phật tử ? Chửi càng hơn, càng thắng thì
càng bị người ta coi thường.
Nên người tu hành
phải lấy hạnh nhẫn nhục làm đầu. Lúc nào, hoàn cảnh nào dù thuận hay
nghịch, mình cũng phải hoan hỷ, cũng phải bỏ qua hết. Như vậy mới gọi là
tu, tu thì mới trị hết các bệnh. Nên nhớ chúng ta muốn tu thì phải cố gắng
trị bệnh của mình cho lành. Đó là thuốc trị bệnh sân.
Đến bệnh si. Si mê
là điều rất nguy hiểm. Bởi si mê nên chúng ta chấp những cái không thật
cho là thật, tưởng tượng những điều không đúng chân lý, không đúng với lẽ
thật. Vì si mê nên sanh ra tham, vì si mê nên sanh ra nóng giận. Nên nói
si mê là nguy hiểm nhất. Vậy dùng thuốc gì để trị bệnh si mê ?
Phật dạy dùng trí
tuệ để trị bệnh si mê. Si mê là bóng tối mà trí tuệ là ngọn đèn, là ánh
sáng. Có đèn thì không tối, còn tối là không có đèn. Kẻ si mê thì không có
trí tuệ, người có trí tuệ thì hết si mê. Do si mê nên có những bệnh như
ngã ái, ngã mạn... Ngã ái là gì ? Là thương là quý thân này. Ngã mạn là gì
? Là cho mình hơn thiên hạ, mình trên hết. Bởi thấy hơn nên khinh người
này, chê người kia. Như vậy từ si mê thấy thân này là quý, là thiệt nên
thương nó, đó là ngã ái. Thấy thân mình là quan trọng, là cao hơn người
nên sanh ngã mạn.
Người si mê sanh ngã
ái, ngã mạn phải dùng thuốc gì để trị ? Mỗi tối, chúng ta từ cư sĩ cho đến
xuất gia đều tụng Bát Nhã hết phải không ? Bây giờ tôi chỉ nhắc lại một
câu thôi: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Chiếu kiến ngũ uẩn giai
không là sao ? Là soi thấy thân năm uẩn này không thiệt, nhờ soi thấy thân
năm uẩn không thiệt nên qua hết khổ nạn.
Chúng ta tụng kinh
Bát Nhã bao nhiêu năm rồi, có chiếu kiến ngũ uẩn hay là đọc trả bài cho
Phật ? Phật dạy phải soi thấy năm uẩn này không thiệt. Đã không thiệt thì
còn gì yêu mến nó, còn gì quý trọng nó. Nhưng vì chúng ta tụng mà không
chịu chiếu, không chịu soi nên tụng hoài mà cái ngã vẫn y nguyên, không
mất chút nào hết. Năm uẩn có chia ra làm hai: một là vật chất, hai là tinh
thần.
- Vật chất: Sắc uẩn
do đất, nước, gió, lửa, bốn chất hợp thành nên không thiệt, nó là giả dối.
- Tinh thần: Thọ uẩn
là những cảm giác, khổ, vui hoặc không khổ không vui... Những cảm giác ấy
có một chút rồi qua, đâu còn hoài nên nói không thiệt. Tưởng uẩn, là những
bóng dáng tưởng tượng, không có thiệt. Hành uẩn là những suy tư, suy tư là
một dòng sinh diệt. Thức uẩn là ý thức phân biệt sanh diệt liên tục, nên
cũng không thiệt.
Xét kỹ ngũ uẩn về
hai mặt tinh thần và vật chất đều là duyên hợp, hư giả không thiệt. Biết
rõ nó không thiệt, tánh nó là không thì khổ nạn nào cũng qua. Phật dạy kỹ
quá, bắt đọc mỗi đêm mà khổ nạn nào chúng ta cũng cứ chịu chứ qua không
nổi. Nếu thấy thân này không thiệt, năm uẩn không thiệt thì giả sử có ai
chửi, mình có quan trọng không ? Thân đã không thiệt thì lời chửi có thiệt
đâu, có nghĩa gì đâu mà buồn. Thấy rõ như vậy thì ngã ái, ngã mạn theo đó
nó hết. Đó là tu Bát Nhã, là trí tuệ.
Bát Nhã có chia ra
ba phần: một là Văn tự Bát Nhã, hai là Quán chiếu Bát Nhã, ba là Thật
tướng Bát Nhã. Ngài Thái Hư (Trung Quốc) dùng một ví dụ rất hay về ba thứ
Bát Nhã này. Ngài nói như có người cần qua sông, họ bước xuống thuyền,
được ngồi trên thuyền, đó là Văn tự Bát Nhã. Xuống thuyền rồi thì quay
chèo, cầm dầm bơi, đó là Quán chiếu Bát Nhã. Bơi cho thuyền cập bến sang
sông rồi mình lên bờ, đó là Thật tướng Bát Nhã.
Như vậy chúng ta
đang tu là tu Bát Nhã nào ? Văn tự Bát Nhã. Nhưng xuống thuyền rồi, cứ
ngồi yên đó không chịu bơi chèo gì hết, thì chừng nào mới qua tới bên kia
sông ? Nên biết chúng ta tu chưa đúng với những gì Phật dạy. Chiếu kiến là
quán, quán rồi mới đi tới Thật tướng. Nếu chúng ta không chịu quán, chẳng
khác nào xuống thuyền muốn qua sông, mà không chịu bơi chèo, cứ ngồi ì đó
hoài thì bao lâu mới qua được bờ bên kia? Chắc tới thuyền mục cũng không
qua được. Cứ dùng văn tự cho đó là đủ, không chịu quán chiếu. Bởi không
quán chiếu nên không thể tiến lên, không dẹp được phiền não. Vì vậy tu
mười năm, hai mươi năm mà phiền não vẫn y nguyên. Đó là lỗi lầm lâu nay
chúng ta mắc phải.
Do quán chiếu, soi
rọi thấy thân này tạm bợ, hư giả nên chúng ta không ái nó. Không ái nó thì
không ngã mạn. Như vậy tu là để diệt trừ bệnh cho mình. Muốn trừ bệnh thì
phải dùng thuốc. Nếu được toa thuốc mà mình không mua thuốc uống thì cái
toa cũng trở thành vô nghĩa. Phật dạy phải quán chiếu để thấy rõ năm uẩn
không thiệt mà mình cứ đọc cho Phật nghe hoài thì chừng nào mới hết bệnh ?
Tu như vậy thì chừng nào mới thành Phật ?
Ở đây, tôi chỉ nói
những bệnh căn bản là tham sân si, để quý vị biết từng thứ thuốc mà trị
bệnh. Bây giờ có thứ thuốc nào trị bá bệnh không ? Cũng có thuốc trị bá
bệnh, nhưng trị bá bệnh thì chậm lành hơn. Thuốc nào bệnh nấy thì mau
lành, còn thuốc trị bá bệnh chỉ có tác dụng nhè nhẹ thôi. Thuốc trị bá
bệnh là gì ?
Nếu người tu Tịnh độ
thì dùng “Lục tự Di Đà” làm thuốc trị bá bệnh. Khi vừa nổi sân, chúng ta
cứ nhớ niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm một hồi quên sân phải không ? Vừa
có việc gì buồn, niệm Phật một hồi quên buồn, đó là thuốc trị bá bệnh.
Thuốc bá bệnh thì yếu hơn một chút, phải siêng năng cần mẫn trị mới lành,
nếu không thì không lành. Đó là thuốc trị bá bệnh của người tu Tịnh độ.
Nếu người tu Thiền
thì thuốc trị bá bệnh là gì ? Khi nào vừa dấy niệm chạy theo cảnh, chúng
ta liền buông, vì sao phải dùng thuốc đó ? Vì tất cả buồn, thương, giận,
ghét đều từ ý niệm dấy lên. Do khởi niệm nên mới tới buồn, thương, giận,
ghét. Nếu vừa khởi niệm liền buông bỏ không theo, như vậy là vừa trị, vừa
ngừa bệnh. Khi nó mới dấy chưa thành bệnh thì không gọi là trị ? Vừa dấy
lên mình liền buông tức là ngừa bệnh. Buông hết, đến một lúc nào đó tâm
không còn buồn giận, tức là hết đau khổ. Đó là thuốc trị bá bệnh trong nhà
Thiền.
Nhưng có người mới
tập tu Thiền một năm hai năm, niệm cứ khởi hoài nên than sao tu mà niệm
không lặng. Vậy phải làm sao cho có kết quả. Chỗ này, tôi dẫn lời của Lục
tổ Huệ Năng dạy trong kinh Pháp Bảo Đàn: “Bất phạ niệm khởi, duy khủng
giác trì”, nghĩa là không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Dấy niệm là mê,
biết nó hư dối không theo, đó là giác. Giả sử một ngày dấy lên một trăm
lần niệm, tức một trăm lần mê thì sẽ có một trăm lần giác. Như vậy đâu có
thiệt thòi gì, chỉ sợ mê mà mình không giác, đó mới là thiệt thòi.
Như vậy người tu
Tịnh độ thì niệm danh hiệu Phật để tiêu mòn các bệnh. Còn người tu Thiền
thì nhìn lại mình, tức là phản chiếu bằng trí tuệ. Vừa thấy niệm liền
buông đi, lần lần niệm dứt sạch, bệnh được lành. Đó là dùng trí tuệ phá
tan các mầm bệnh. Như vậy tu Tịnh độ cũng có thuốc trị bá bệnh, tu Thiền
cũng có thuốc trị bá bệnh. Song pháp nào cũng phải thực hành đến nơi đến
chốn mới có kết quả, chớ còn thực hành nửa chừng hay chút ít thì không bao
giờ có kết quả.
Người học Phật mà
không biết pháp, không biết bệnh thì khó trị lành. Hôm nay tôi hướng dẫn
quý vị ba căn bệnh ngặt nghèo là tham sân si. Quý vị cố gắng dùng thuốc,
chớ không nên học thuộc lòng toa thuốc, cũng không nên chắp tay xin thầy
thuốc cho con hết bệnh. Được vậy, chúng ta tu sẽ có kết quả, không nghi.
Chúc tất cả đều trị lành bệnh
của mình.
? |