[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập III)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


VÔ MINH

Giảng tại trường hạ Phổ Đà TP. HCM
ngày 25-6-2000 - Canh Th́n

 

Hôm nay tôi được mời về giảng cho Ni chúng cũng như quư Phật tử một thời pháp. Tôi thường nói, làm sao cho tất cả người phát tâm tu đều biết được chánh pháp và thực hành đúng chánh pháp, đó là nguyện vọng của tôi.

Đề tài của thời pháp này là Vô minh. Khi biết rơ vô minh rồi, chúng ta mới có thể t́m cách tiêu diệt nó. Tiêu diệt được vô minh rồi, chúng ta sẽ giải thoát sanh tử. Chúng ta ai cũng biết trong mười hai nhân duyên, đức Phật nói cái đầu là vô minh. Từ vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lăo tử ưu bi khổ năo.

Như vậy đau khổ cuối cùng của sanh già bệnh chết gốc từ vô minh mà ra. V́ vậy chúng ta muốn tu cho được kết quả, tu đến giải thoát sanh tử th́ gốc vô minh chúng ta phải biết rơ. Biết rơ rồi chúng ta trừ diệt nó. Như vậy mới là người biết cội gốc tu hành.

Trước tiên, tôi định nghĩa vô minh là ǵ? Vô là không, minh là sáng. Vô minh tức là không sáng. Cái khổ của sanh tử gốc từ vô minh mà ra. Vô minh hiểu theo nghĩa mê lầm, đen tối là nghĩa đen. Vô minh c̣n có nghĩa khác mà trong kinh đức Phật giải thích rất rơ ràng.

Nghĩa khác thế nào? Như đức Phật dạy trong các kinh A Hàm: "Thấy các pháp, không biết đúng như thật gọi đó là vô minh". Nghĩa là chúng ta thấy mọi sự vật ở trên đời mà không biết đúng như thật, chỉ biết bằng cách tưởng tượng sai lầm, đó là vô minh. Cho nên trong các bộ kinh A Hàm luôn luôn nói "vô minh là không thấy, không biết đúng như thật". Nói rơ hơn không biết, không thấy đúng như thật pháp Tứ đế: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế, gọi là vô minh. Đó là lời giải thích trong kinh A Hàm.

Kinh Viên Giác giải nghĩa khác, có một vị Bồ-tát hỏi: "Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh? ". Phật dạy:

"Vô minh nghĩa là đối với thân tứ đại duyên hợp tưởng lầm là thật, là quí. Đối với tâm duyên theo bóng dáng sáu trần cho đó là tâm thật. Như vậy là vô minh". Chấp thân tứ đại là thật, chấp tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, đó là vô minh. Tôi xin hỏi Ni chúng và Phật tử ở đây, quư vị có vô minh không? Chắc ai cũng đồng ư có vô minh. Tại v́ tất cả đều thấy thân ḿnh là thật, thấy tâm nghĩ tưởng việc này, việc nọ là tâm ḿnh thật. Thấy hai cái đó thật là vô minh.

Chúng ta v́ vô minh lôi dẫn mà sanh tử đến ngày nay không dừng. Người tu Phật là người cầu được phước lên cơi trời, hay cầu đời sau sang giàu? Người tu Phật là người cầu giải thoát sanh tử. Muốn giải thoát sanh tử th́ phải dẹp sạch vô minh. Nếu không hết vô minh th́ không làm sao ra khỏi sanh tử được.

V́ vậy tất cả chúng ta đều phải cố gắng, đều phải nhận định cho chín chắn, rơ ràng về vô minh. Nếu không biết nó, không dẹp nó th́ muôn kiếp tu là tu, chớ không ra khỏi sanh tử được. Nên bài giảng này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta. Quư vị cố gắng nghe thật kỹ, nhớ thật rơ để ứng dụng tu th́ sẽ có lợi lạc lớn.

Nhà Phật chia vô minh làm hai phần: Căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Căn bản là cội gốc, chi mạt là ngọn ngành hay nhánh nhóc. Trong mười hai nhân duyên cái ǵ là căn bản vô minh, cái ǵ là chi mạt vô minh? Thường ai cũng biết Phật nói vô minh duyên hành. Tức từ vô minh phát ra nghiệp, nghiệp dẫn thần thức đi thọ sanh v. v… Vậy vô minh ban đầu là gốc của sanh tử, nên gọi là căn bản vô minh.

Kế đến cái ǵ là chi mạt vô minh? Chúng ta thử ôn lại: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ… Ái và thủ chính là chi mạt vô minh.

Bây giờ chúng ta tu, không thể diệt được căn bản vô minh v́ căn bản vô minh là vô minh ban đầu, nó thuộc về quá khứ đă qua rồi. Nên hiện tại chúng ta tu là làm sao tiêu diệt được chi mạt vô minh. Phá được chi mạt vô minh rồi th́ chúng ta sẽ dứt được sanh tử. C̣n nếu chưa phá được nó th́ chúng ta đi măi trong sanh tử.

Trở lại căn bản vô minh. Như trong kinh A Hàm nói: "Biết không đúng như thật về khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế gọi là vô minh". Tất cả quư vị đối với Tứ đế đă biết đúng như thật chưa? Nếu biết đúng như thật về Tứ đế th́ chúng ta đă ngộ, đă nhận được giáo lư giải thoát của pháp Tứ đế dạy rồi. Nhưng bây giờ chúng ta c̣n mơ màng, chưa nhận chân sự thật nên chưa hiểu thấu được lư Tứ đế.

Trong Tứ đế, đế đầu tiên là Khổ đế. Chúng ta thấy cuộc đời này khổ hay vui? Khổ. Nhưng chỉ khổ lúc có người làm phiền, làm cho ta tức giận thôi. C̣n lúc được người tâng tiu, khen ngợi đâu có khổ. Nghĩa là chỉ khổ lúc buồn tủi, c̣n khi được tán thán khen ngợi th́ quên khổ.

Phật nói Khổ đế v́ tất cả con người sanh ra trên thế gian này có tám thứ khổ, gồm bốn phần thuộc vật chất: sanh, lăo, bệnh, tử và bốn phần thuộc tinh thần: ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh. Trong tám khổ, chúng ta có ai qua khỏi không?

Xét về thân th́ ai rồi cũng già, cũng bệnh, cũng chết. Quư vị thấy già khổ không? Khổ. Bệnh khổ không? Khổ. Chết khổ không? Khổ. Nhưng sao tôi già, tôi không khổ. Già khổ nếu ḿnh không biết tu. Bởi không biết tu nên thấy thân hơi mỏi ṃn, bệnh yếu, rồi đi đứng lọng cọng… đủ thứ hết nên thấy khổ.

Nếu biết tu th́ già là một lẽ thật, nó phải tới tự nhiên thôi, không ai trốn tránh được, kể cả Phật cũng không trốn được. Nếu Phật trốn được th́ thân tứ đại của Ngài đâu có mất. Ai có thân th́ cũng phải già bệnh chết. V́ đó là qui luật của thế gian, chúng ta không ai chối căi được. Đă là qui luật th́ sợ có khỏi được không? Nếu không khỏi được th́ sợ chi cho vô ích. Thay v́ sợ ḿnh cười chơi cho vui, khoẻ hơn không. Như vậy th́ đâu có ǵ khổ. Tại chúng ta sợ nó cho nên khổ. Nên biết già chỉ khổ đối với những người không biết tu thôi.

Đến bệnh khổ, tại sao bệnh khổ? Ví dụ như đau bụng có khổ không? Khổ toàn thân hay chỉ cái bụng khổ? Đau chỗ nào th́ khổ chỗ đó thôi. Lâu nay chúng ta hay hiểu lầm, cứ nghĩ đau cái chân th́ cả thân đều đau nên rên rỉ "đau quá chịu không nổi". Nếu hỏi cái ǵ đau th́ nói "tôi đau". Nhưng thật ra tôi đau hay cái chân đau? Chân đau th́ chỉ đau một chút dưới chân, c̣n các một bộ phận khác đâu có đau. Nếu bụng đau th́ chỉ một chút ở bụng, c̣n các chỗ khác đâu có đau, tại sao phải khổ dữ vậy?

Chúng ta có bệnh đồng hóa khi chân đau nghĩ là ḿnh đau, nên quằn quại rên xiết. Cái đau chỉ ở một nơi, một chốn chớ không phải ḿnh. Ḿnh là cái ǵ quư vị biết không? Nếu ḿnh là tứ đại th́ mai mốt tứ đại hết thở, ḿnh đi đâu, có c̣n không? Tứ đại là ḿnh th́ tứ đại ră, ḿnh cũng phải ră theo chứ. Nhưng tứ đại này ră không phải là hết, ḿnh vẫn c̣n. Cho nên tứ đại đau chớ ḿnh đâu có đau.

Có một Thiền sư khi bệnh, thầy Tri sự vô thăm hỏi:

- Hoà thượng bệnh, có cái không bệnh chăng?

Thiền sư trả lời:

- Có.

Thầy Tri sự hỏi tiếp:

- Cái ǵ không bệnh?

Thiền sư kêu lên:

- Ui da, ui da.

Như vậy là sao? Bệnh chỉ là thân thôi, cái biết rên "ui da" đó không có bệnh. Chúng ta bệnh, chúng ta khổ nhưng c̣n có cái không bệnh không khổ mà ḿnh không biết. V́ vậy chúng ta cứ lầm lẫn một bộ phận đau coi như toàn thân đau, rồi khổâ sở, lăn lóc rên rỉ. Nếu bộ phận nào đau, chúng ta cứ nh́n xem nó đau ra sao. Ví dụ chân đau, nh́n xem nó đau ra sao. Nh́n một hồi nó quên đau. C̣n nếu ḿnh quằn quại rên rỉ th́ đau cả người.

Chúng ta tu phải có nhận định đúng đắn không sai lầm th́ hết khổ. Nhiều người hay nói, mấy cô c̣n nhỏ đau, th́ bệnh chừng năm mà thêm cái nhơng nhẽo nữa. Bệnh chừng năm mà rên quá nên thành mười. Đó là không can đảm, không sáng suốt. Chúng ta bệnh phải nh́n lại, xem nó hành làm sao, đau nhức thế nào. Phải luôn luôn can đảm thấy rằng đau là một bộ phận đau, chớ ḿnh không đau, như vậy sẽ bớt đau. Được thế th́ đau không c̣n khổ nữa. Ngược lại, nếu thấy đau là ḿnh th́ khổ liên miên. Nay nhức đầu, mai đau bụng, lúc nào cũng thấy khổ. Như vậy bệnh là khổ.

Đến chết có khổ không? Phật nói chết là khổ, đó là nói theo con mắt của thế gian. Bởi v́ người phàm tục rất quí thân, lúc nào cũng muốn sống mà bây giờ phải chết th́ khổ. Vậy chết khổ là đối với người quí chuộng thân, muốn giữ nó măi. C̣n người tu đạt đạo rồi, chết không có khổ. Cho nên người thế gian gần chết th́ khóc rên giăy giụa, c̣n các Thiền sư chết th́ cười.

Vậy chết nhất định là khổ chăng? Không hẳn thế. Người nào nhận chân được lẽ thật, thấy được chân lư rồi th́ không khổ. Người nghĩ thân này là ḿnh, mất rồi không c̣n nữa th́ người đó sẽ khổ. Thân này giả dối, tạm bợ, đủ duyên nó tụ, hết duyên nó tan, c̣n cái chân thật của ḿnh không tan không mất bao giờ. Nên khi thân sắp tan, nh́n nó cười thôi không có ǵ sợ hết.

Phật nói Khổ đế là căn cứ trên người mê lầm. Nếu chúng ta khéo tu, vượt qua không c̣n chấp thân nữa th́ không c̣n khổ. Cho nên người tu là người không khổ. Nhưng bây giờ người tu c̣n khổ hay hết khổ? Chắc là c̣n khổ. Sao dở vậy? Tu là để giải khổ hết khổ, mà ḿnh tu lại khổ. Tại sao? Tại tu mà chưa lănh hội được nguồn cội của Phật dạy cho nên thấy khổ.

Người hiểu thấu đạo lư rồi, mỗi ngày tu là mỗi ngày vui. Đi đâu cũng cười hoài v́ được tu là chuyện hy hữu. Ở thế gian bao nhiêu thứ trói buộc, vô chùa đâu có ǵ trói buộc. Thảnh thơi tự tại quá, mà khổ là sao? Khổ là tại v́ thấy người này được thầy thương, c̣n ḿnh không được thương nên buồn giận sanh khổ. Thấy người kia được Phật tử cúng dường, c̣n ḿnh không ai cúng hết nên khổ. Khổ này là do bỉ thử nhân ngă mà sanh.

Chúng ta nhớ người xuất gia là hành hạnh siêu thoát, kẻ trần tục không làm được. Phật tử ham tu, nhưng vẫn c̣n bị gia đ́nh trói buộc, không tự do. Nh́n lại quí thầy quí cô thảnh thơi quá, họ khen thầy cô thật là phước lớn. Được khen mà quư vị lại than khổ. Người ta mơ ước như ḿnh, mà ḿnh được rồi lại khổ là chuyện vô lư quá.

Là người tu, chúng ta phải biết lư do ǵ ḿnh đi tu. Tu để tiến tới đâu, cầu cái ǵ? Thấy cho rơ như vậy th́ sự tu hành mới tới nơi tới chốn, mới giải thoát sanh tử được. Nếu cứ nh́n theo tâm phàm tục thương ghét v. v… th́ quư vị sẽ khổ hoài, không bao giờ hết khổ. Như vậy Khổ đế là do chúng ta chưa thấy được như thật. Đó là tôi nói căn bản vô minh để quư vị nắm đại khái.

Kế đến tôi nói về chi mạt vô minh.

Tất cả chúng ta đă bị vô minh thúc đẩy tạo thành hành nghiệp dẫn đi trong sanh tử nhiều đời. Bây giờ đă có thân th́ đối với cái vô minh ban đầu không thể dẹp v́ nó thuộc về quá khứ. Cho nên dẹp là dẹp chi mạt vô minh, tức cái ngọn ngành trong hiện đời. Vậy ngọn ngành của vô minh là ǵ? Là ái, thủ.

Ái là ái cái ǵ? Thường trong nhà Phật nói ái nặng nhất, nguy hiểm nhất là ái ngă. Ái ngă tức là thương ḿnh, thương ḿnh là số một. Trong truyện xưa, vua Ba Tư Nặc hỏi Mạt Lợi phu nhân: "Trên thế gian này ái khanh thương ai nhiều nhất? " Vua nghĩ hỏi vậy, phi sẽ trả lời: "Thương Bệ hạ nhiều nhất". Nhưng ngược lại bà nói: "Thiếp thương ḿnh nhiều nhất". Vua thất vọng hỏi: "Tại sao ái khanh thương ḿnh nhiều nhất? ". Bà giải thích: V́ thương ḿnh nhiều nhất nên thiếp mới quí trọng Bệ hạ, bởi Bệ hạ làm cho thiếp được sung sướng, giàu sang". Vua nghe thấy có lư, nên gật đầu khen phải.

Rơ ràng như bà phi đă nói, bà thương vua là v́ bà, chớ không phải v́ vua. Quư vị ở đây có ai thương người khác nhiều hơn thương ḿnh không? Chắc là không. Ví dụ ḿnh bệnh, có huynh đệ chăm sóc chu đáo. Ḿnh thấy huynh đệ đó tốt nên thương. Do người đó săn sóc ḿnh trong lúc bệnh nên ḿnh mới thương, chớ đâu phải bỗng dưng mà thương. Vậy thương người đó là qua ḿnh, chớ đâu phải tự người đó được thương.

Xét kỹ tất cả cái thương người khác đều là qua ḿnh hết, không bao giờ người ta chửi ḿnh mà ḿnh thương họ. Dầu người đó tu hay cũng mặc, hễ họ mắng nhiếc ḿnh th́ ḿnh vẫn không thương như thường. Vậy thương mọi người đều qua cái ngă của ḿnh. Cho nên nói ái ngă là số một. Bởi thương ḿnh nhiều, nên thân này sắp hoại ḿnh khổ, khổ v́ sợ mất nó. Do đó khi nó hoại rồi, ḿnh hoảng t́m thân khác để tựa vào, vô minh sanh hành là như thế.

Từ vô minh chi mạt là ái ngă, nên t́m thân khác để tựa vô rồi sanh ra ngă kế tiếp, v́ vậy nó dẫn ḿnh đi trong sanh tử. Do ái ngă mà sanh tử tiếp nối không cùng. Dẹp được ái ngă th́ ṿng sanh tử đời sau không c̣n. Nếu dẹp không được th́ khó mà đi trên đường giải thoát. Tuy nhiên dẹp ái ngă là chuyện rất cay đắng. Mặc dù nó không ra ǵ nhưng dẹp nó rất khó, bởi v́ ai cũng thương ḿnh hết. Thương mà muốn dẹp th́ làm sao dẹp được? Phải không thương mới có thể dẹp chứ. Do đó Phật dạy phương pháp để chúng ta không thương ngă nữa.

Phật dạy thân này vô ngă, tức không có cái ta thật. Nếu biết thân này không có cái ta thật th́ bớt thương nó. C̣n thấy thân này là ta th́ nhất định phải thương, không nghi ngờ. V́ vậy Phật dạy phải quán các pháp vô ngă. Các pháp vô ngă th́ thân này cũng vô ngă. Không có cái thật ta th́ thương cái ǵ. Nhờ thế phá trừ được ngă chấp.

Do ái ngă nên tất cả vật chung quanh ngă, ḿnh cũng ái theo. Ái ngă nên ái luôn sở hữu của ngă. Ḿnh thương ḿnh nên mới thích đồ ăn ngon, nếu không thương ḿnh th́ ăn cái ǵ cũng được. Thương ḿnh nên mới thích mặc đồ đẹp. Tóm lại tất cả những ǵ đáp ứng cho ngă sử dụng được tốt, được vừa ư th́ ḿnh thương hết. Cho nên nói ái ngă th́ ái pháp.

Nếu không ái ngă th́ có ái pháp không? Ví dụ ḿnh coi ḿnh không ra ǵ, khi thấy người ta có món ăn ngon ḿnh đâu cần xin. C̣n thấy thân này quí, nên người ta có món ăn ngon ḿnh cũng thèm, thèm th́ muốn xin. V́ quí ngă nên phải t́m những vật dụng bổ túc cho ngă được sung măn. Cho nên thương ḿnh th́ sẽ thương tất cả sự vật chung quanh ḿnh, đó gọi là ái ngă và ái pháp. Đây chính là nhân để đi trong sanh tử luân hồi. Phật dạy muốn dứt sanh tử phải phá trừ ngă. Ngă hết th́ sanh tử theo đó mà dứt. Ngă c̣n th́ sanh tử không bao giờ hết được. Đó là một lẽ thật.

Tôi nói qua về vô minh căn bản và vô minh chi mạt rồi.

Từ vô minh ban đầu đưa đẩy chúng ta đi vào ṿng sanh tử. Đă đi trong sanh tử rồi th́ phải chịu đau khổ. V́ vậy chúng ta tu là làm sao biết rơ gốc vô minh, để chuyển từ mê lầm sanh tử trở về giải thoát an lạc, đó là minh. Trong kinh Pháp Hoa có nói: Chàng cùng tử bỏ cha mẹ đi lang thang, đi măi. Càng đi th́ càng khổ sở, càng nghèo túng. Đến lúc anh ta cảm thấy xa cha mẹ khổ quá muốn quay đầu trở về. Trở về và được cha trao cho gia tài rồi th́ trở thành ông trưởng giả giàu có, sang trọng.

Như vậy do đâu mà chàng cùng tử bỏ cha mẹ ra đi? Do niệm sai lầm ban đầu tức là vô minh. Từ niệm sai lầm ban đầu dẫn chúng ta đi trong đau khổ không cùng. Khi biết lang thang lăn lộn là khổ, muốn trở về t́m cha cho bớt khổ. Xoay trở về t́m cha là hơi minh một chút rồi đó. Bỏ cha mẹ ra đi là vô minh. Khi thức tỉnh, giật ḿnh xoay về t́m cha là minh.

Vậy minh là nhân đưa ḿnh đến chỗ hết khổ đau, vô minh là nhân dẫn ḿnh đi tới khổ đau. Người tu phải tiêu diệt vô minh để trở về với minh. Vô minh sạch rồi th́ đau khổ theo đó hết, vô minh càng nhiều th́ đau khổ càng đậm. Nên chúng ta phải thức tỉnh, phải trở về được với cái minh.

Muốn trở về với cái minh phải làm sao? Ngày trước chàng cùng tử bỏ cha đi càng xa càng khổ, bây giờ trở về gặp cha th́ càng về gần càng ít khổ. Tới chừng gặp được cha rồi, được trao gia tài th́ hoàn toàn hết khổ. Chúng ta do vô minh lôi dẫn, đưa đẩy đi trong sanh tử triền miên, không có ngày cùng. Cho nên khi thức tỉnh được trở về, là đi trên con đường minh, con đường ánh sáng rồi đó. Ni chúng đang tu hành như vầy là đang từ bỏ vô minh để hướng về minh. Biết trở về và trở về đến nơi đến chốn th́ quư vị hết khổ. Đó là điều hết sức rơ ràng.

Nếu chúng ta mê th́ cứ thả trôi muôn đời muôn kiếp trong sanh tử. Một khi tỉnh t́m về đường giải thoát rồi th́ hết mê. Tôi dẫn lời đức Phật dạy về vô minh trong kinh Viên Giác: "Cái ǵ là vô minh? Thấy thân tứ đại là thật, tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, đó là vô minh". Thân là do tứ đại hợp mà thấy là ḿnh thật, tâm duyên theo bóng dáng sáu trần mà cho là tâm ḿnh thật. Hai thứ chấp đó là vô minh.

Bây giờ muốn minh phải làm sao? Phải xả. Xả thế nào? Chẳng lẽ tự tử. Không phải vậy. Biết như thế rồi, ta quán chiếu thấy rơ thân tâm này không thật, nên không đắm luyến, không sợ mất nó. Như vậy là minh.

Người mê với người tỉnh khác nhau chỗ nào? Ví dụ trong nhà có đèn sáng, bên ngoài trời tối. Nếu mở cửa th́ ánh đèn chiếu sáng ra ngoài. Một người đứng ở cửa nh́n ra ngoài thấy tối, nh́n ngược vô trong thấy sáng. Nếu nh́n ra ngoài rồi cứ phóng đi măi th́ càng đi càng tối. Tối măi cho đến chừng nào thấy sợ th́ quay trở lại ánh sáng. Càng về gần th́ càng sáng nhiều, đến khi bước vô cửa nh́n thấy trong nhà đèn sáng choang. Cũng vậy ai thả trôi thân ḿnh, tâm ḿnh theo ṿng sanh tử th́ cứ ch́m đắm măi không cùng. Ai biết xoay trở lại t́m về ánh sáng ban đầu sẽ được sáng.

Người đứng ở cửa nh́n ra th́ tối, xoay vô th́ sáng, vậy tối sáng cách nhau bao xa? Chỉ là biết xoay đầu. Xoay đầu lại th́ sáng, nh́n ra th́ tối. Người xưa thường nói: "hồi đầu thị ngạn", tức xoay đầu lại là bờ giác, nh́n ra ngoài là bến mê. Mê và giác chỉ là một cái xoay đầu. Thả trôi theo ḍng tối th́ tối măi, biết xoay ngược trở lại t́m về ánh sáng th́ sẽ được sáng. Tất cả chúng ta tu là phải làm sao chính ḿnh thức tỉnh, chính ḿnh giác ngộ. Thức tỉnh, giác ngộ là không c̣n mê mà trở về giác.

Chúng ta cạo tóc vào chùa tu là đă thức tỉnh, bỏ lối mê quay về con đường sáng. Đă về đường sáng th́ c̣n muốn quay lại lối mê nữa không? Chắc không bao giờ dám quay lại. Mà phải cắm đầu đi thẳng cho đến bao giờ về đến nơi, thấy và sống trong ngôi nhà sáng sủa ấy mới yên ḷng. Đó là mục đích của người tu.

Muốn trở về con đường sáng phải làm sao? Tôi nói lại Phật dạy: "Chấp thân năm uẩn này là ta, đó là vô minh. Chấp tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là tâm, đó là vô minh". Do đó, muốn trở về con đường sáng chúng ta phải phá hai thứ chấp này. Phá chấp bằng cách tu theo Bát-nhă. Bát-nhă là trí tuệ, trí tuệ là sáng.

Bát-nhă chia làm ba phần: Văn tự Bát-nhă, Quán chiếu Bát-nhă và Thật tướng Bát-nhă. Ví dụ người muốn qua sông nên phải xuống thuyền. Mục đích xuống thuyền là để qua sông. Nhưng xuống thuyền rồi cứ ngồi ỳ trên đó hoài, không chèo không bơi th́ chừng nào qua tới bờ bên kia? Xuống thuyền rồi kế đó phải chèo, phải cầm dầm bơi th́ mới đưa thuyền đến bờ kia được. Chiếc thuyền dụ cho Văn tự Bát-nhă, chèo dầm dụ cho Quán chiếu Bát-nhă, đến bờ bên kia là Thật tướng Bát-nhă, tức cái thể chân thật. Ngồi trên thuyền không cựa quậy chắc tới thuyền mục qua cũng không được, đó là điều hết sức rơ.

Nếu quư vị chỉ tụng kinh chứ không quán chiếu ǵ hết, chỉ là Văn tự Bát-nhă. Trong Bát-nhă chỉ nơi câu này mà khéo tu th́ sẽ hết khổ: "Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhă ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách". Chúng ta đọc thuộc làu mà chưa bao giờ chiếu kiến, chưa chiếu kiến làm sao hết khổ ách, nên tu mà không hết khổ.

Muốn hết khổ phải chiếu kiến năm uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Năm uẩn có hai phần: phần vật chất là sắc; phần tâm là thọ, tưởng, hành, thức.

Thân do tứ đại ḥa hợp không có tánh thật, đó là chiếu kiến sắc uẩn giai không. Sắc uẩn này không thật tánh nên nói nó là không. Không nhưng do duyên hợp giả có. Cái ǵ giả th́ không quí, thật mới quí. Soi thấy thân tứ đại này tánh không, duyên hợp giả có nên không phải quí.

Thọ uẩn, thọ là những cảm giác nhậân được. Nếu ở lưỡi th́ thọ vị, thức ăn ngon dở hay không ngon không dở. Thọ có là do thức ăn để vào lưỡi. Lưỡi là căn, thức ăn là trần. Căn trần gặp nhau mới sanh cảm giác ngon, dở, không ngon, không dở. Vậy cảm giác ngon dở không thật. V́ trước khi đưa thức ăn vào lưỡi, ta có cảm giác ǵ đâu. Nhờ có thức ăn, nhờ có lưỡi nên ta mới có cảm giác ngon dở, nên cảm giác ngon dở ấy không thật. Vậy mà chúng ta ăn món ǵ ngon th́ khen, dở th́ chê, rơ ràng chúng ta lầm thọ uẩn là thật. Nếu dùng trí tuệ nhận thấy thọ uẩn do căn trần hợp lại nên có cảm giác. Cảm giác ngon dở nuốt qua liền hết, đâu phải là thật. Nên quán thọ không thật chỉ là giả tướng.

Tưởng uẩn là tưởng những chuyện đă qua hay chưa tới. Do nghĩ chuyện quá khứ, chuyện vị lai rồi tưởng tượng nên h́nh ảnh dấy khởi. Quá khứ đă qua là đă mất, vị lai chưa đến là không có. Quá khứ đă qua là không, vị lai chưa đến cũng là không, mà tưởng tượng có thật. Nên chiếu kiến tưởng uẩn tánh không, duyên hợp giả có, chỉ bóng chớ có thật đâu. Hiểu như vậy mới biết tưởng uẩn không thật.

Hành uẩn là nghĩ suy của ḿnh. Ví dụ trước khi đi chợ, quư vị tính ra chợ mua hành, mua hẹ, mua rau cải ǵ đó… tính rồi đến chợ mới mua. Vậy suy tính nghĩ cái này tới cái kia, giống như từng bước từng bước đi của ḿnh, không có thật. Hành uẩn là những suy tư, nghĩ tính của ḿnh. Sự suy tư, nghĩ tính đó khi gặp duyên th́ nó phát ra, hết duyên nó mất. Như vậy hành uẩn sanh diệt như ḍng nước chảy không thật. Đó là quán hành uẩn.

Thức uẩn là phân biệt như phân biệt đẹp xấu, trắng đen v. v… Thức uẩn tự nó phân biệt hay phải có duyên tác động mới phân biệt? Trong là mắt, ngoài là sắc trần, sắc trần tiếp xúc với nhăn căn sinh ra nhăn thức phân biệt. Nhĩ thức, thiệt thức v. v… cũng đều như vậy. Nên thức tự nó không có mà phải do căn, trần tiếp xúc mới có nên nó cũng không thật.

Rơ ràng thọ, tưởng, hành, thức là tâm không thật. Sắc do tứ đại hợp cũng không thật. Thấy rơ thân không thật, tâm không thật như trong kinh Viên Giác nói: nếu chấp thân thật, tâm thật là vô minh. Nếu thấy thân không thật, tâm không thật th́ hết vô minh. Vô minh hết nên trong kinh nói: "chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách", nghĩa là soi thấy năm uẩn đều không liền qua hết tất cả khổ nạn.

Chúng ta tu mà không chiếu kiến nên tuy tu nhưng vẫn c̣n khổ nạn. Đọc thuộc ḷng Bát-nhă mỗi đêm mà khổ không hết. Bây giờ chúng ta phải khéo dùng trí tuệ chiếu soi năm uẩn không thật, thấy rơ tường tận như vậy th́ phá được vô minh, liền thoát khỏi sanh tử. Không biết phá vô minh th́ minh không bao giờ có. Tụng Bát-nhă là học trí tuệ mà tự ḿnh không có trí tuệ th́ chừng nào ra khỏi sanh tử? Đó là điều chúng ta cần phải biết cho thật rơ.

Người tu phải làm sao soi sáng được chính ḿnh, chớ không phải chỉ đọc suông lời của Phật được. Nếu thấy thân năm uẩn là thật th́ mê, nếu thấy thân năm uẩn do duyên hợp hư giả là tỉnh. Giả sử có ai chửi, chúng ta thấy lời chửi của họ cũng không thật nên nhịn được. Thân hư giả mà người chấp cho là quí th́ ḿnh thương, chớ không giận. V́ vậy Phật thương chúng sanh, thương là thương cái ǵ? Thương chúng sanh ngu si, cái không thật tưởng là thật, cái không quí tưởng là quí. Cứ như vậây mà trôi măi trong luân hồi sanh tử.

Khi nào chúng ta tu thấy rơ thân năm uẩn không thật th́ qua hết khổ ách. Qua rồi nh́n lại thấy ai c̣n trong khổ ách ḿnh thương. Thương th́ tất nhiên phải độ họ. Lúc đó t́nh thương khác với thương v́ ḿnh hay thương của ái ngă. Thương ái ngă là thương có điều kiện. Khi nào người khác giúp ḿnh, ḿnh mới thương v́ thấy thân ḿnh thật. Nếu tỉnh giác rồi, thấy ai mê ḿnh thương đó là ḷng thương của từ bi. Từ bi là thương b́nh đẳng, không có điều kiện.

Nên biết ái ngă làm cho chúng ta có nhiều xấu dở. Thứ nhất, v́ ái ngă nên ai giúp cho ngă th́ thương. Thứ hai, v́ ái ngă nên ai chọc phá ngă th́ giận ghét. Thứ ba, v́ ái ngă mà cứ nối tiếp luân hồi, mất thân này chụp thân kia, không có ngày cùng. Nếu chiếu kiến năm uẩn không thật, biết rơ không lầm không mê. Lúc nào cũng thấy thân này không thật, hư dối th́ tất cả những ǵ đến với ḿnh, ḿnh đều không khổ. Già không khổ, chết không khổ. Bởi cái hư giả hoại đi đâu có ǵ tiếc, c̣n thấy thân thật th́ tất cả khổ theo đó mà c̣n.

Như vậy tu theo Bát-nhă là chấp không chăng? Ví dụ cái đồng hồ là thật có hay thật không? Thật không th́ sao nó có ở đây, nên nói thật không không được. Nếu nói thật có th́ khi mở từng phần ra, t́m cái đồng hồ không được. Nên nói thật có không được. Chỉ khi nào duyên hợp th́ tạm có, duyên hết hoàn không. Nên nói bản tánh của đồng hồ là không. Nếu đồng hồ có sẵn th́ đâu cần đợi duyên hợp. V́ đồng hồ không có sẵn nên nói tánh không. Chữ không là tánh không.

Tôi ví dụ thêm như chỗ này có cái khay là có, chỗ không có khay gọi là trống rỗng. Chỗ này không, chỗ kia có là do mắt thấy. Mắt thấy có không, đó là có không đối đăi. C̣n đồng hồ đang có mà nói tánh không, th́ biết rơ tánh nó là không, đó là thấy bằng trí tuệ. Tánh không là ngay trong có mà thấy không, chớ không phải đợi không mới thấy không. V́ vậy kinh Bát-nhă nói: "sắc tức thị không". Từ không, do duyên hợp mới có là: "không tức thị sắc". Hiểu như vậy mới hiểu Bát-nhă. Nói không mà không phải thật không, chỉ là không "thể tánh", chớ giả tướng vẫn có. Nói có nhưng là giả tướng nên chẳng phải thật có.

Thân này tánh không hay tánh hữu? Tánh không mà có là v́ duyên hợp giả có. Người thấy rơ ràng như vậy tức là có trí tuệ Bát-nhă, có trí tuệ Bát-nhă là hết khổ. Vậy tu rất dễ, không tốn công bao nhiêu, cũng không phải trèo núi qua sông, lặn lội vô rừng t́m mới có, mà ngay nơi thân này dùng trí tuệ chiếu soi năm uẩn không thật th́ qua hết khổ nạn. Qua hết khổ nạn là giải thoát sanh tử.

Cho nên tụng Bát-nhă là để quán chiếu, để thấy rơ thân này từ thể xác đến tinh thần là duyên hợp hư giả không thật. Hiểu không thật rồi, chúng ta mới xem thường, không quí trọng thân nữa. Do không quí trọng thân nên hết ái ngă. Hết ái ngă mới dứt được luân hồi sanh tử. Như vậy người muốn tiến tới giải thoát sanh tử phải thấy rơ năm uẩn đều không.

Thấy được tánh không th́ không c̣n đối đăi. Không đối đăi mới là nghĩa trung đạo, là chân lư. C̣n không đối với có là thấy một bên, gọi là biên kiến. V́ vậy nhiều người tu không biết, nên nói tụng Bát-nhă, Kim Cang là chấp không, đó là sai lầm. Chúng ta tu hành phải sáng suốt, nhận cho kỹ, thấy được sự vật hiện có, biết tánh của nó là không, duyên hợp hư giả tạm có thôi. Thấy như vậy là người trí tuệ, trí tuệ là sáng suốt. Ngược lại, không thật mà tưởng thật là si mê, si mê là vô minh.

Muốn phá vô minh phải dùng minh. Trong kinh nói: "căn nhà tối cả ngàn năm, muốn hết tối th́ phải thắp đèn lên. Nhà dù tối ngàn năm mà thắp đèn lên th́ sáng liền". Cũng vậy chúng ta mê vô lượng kiếp rồi, nhưng bây giờ tỉnh, th́ ngay đó là giác, là hết vô minh. Nhà Phật cũng thường nói câu "hồi đầu thị ngạn", tức xoay đầu lại là bờ giác chớ không đâu xa. V́ vậy mê th́ dẫn đi trong luân hồi sanh tử, giác th́ trở lại bờ Niết-bàn.

Tu là hồi đầu, xoay đầu lại. Từ lâu chúng ta mê nên đi trong đau khổ tử sanh, khi tỉnh chúng ta trở lại th́ hết đau khổ. Nên tu là giải khổ cho ḿnh, cứu khổ cho chúng sanh. Nếu ḿnh c̣n khổ th́ làm sao cứu khổ cho người được. Nếu hiểu tu là chỉ lo cứu khổ cho chúng sanh nên ai mời làm ǵ, rước đi đâu cũng nghe theo, đó là họa. Ví dụ cầu an là cứu khổ cho người sống, cầu siêu là cứu khổ cho người chết v. v… nhưng ḿnh chưa hết khổ th́ làm sao cứu họ hết khổ được. Muốn cứu khổ cho người trước phải giải khổ cho ḿnh. Ḿnh hết khổ rồi mới cứu khổ cho người được.

Nhiều Phật tử có chuyện buồn, nhờ thầy an ủi khuyên lơn cho bớt buồn bớt khổ. Rồi mai chiều thầy có chuyện buồn Phật tử thấy thương an ủi lại. Như vậy chỉ là sự an ủi lẫn cho nhau chớ không ai hết khổ cả. Cho nên chúng ta tu là phải giải khổ cho ḿnh, giải khổ cho ḿnh rồi mới cứu khổ cho người. C̣n chưa tự giải khổ được, mà đi cứu khổ cho người là chuyện không có thật.

Phản chiếu lại để thấy năm uẩn đều không, gọi là "phản quan tự kỷ", nghĩa là soi sáng lại chính ḿnh. Soi sáng để thấy rơ ḿnh, nên không lầâm không chấp. Khi đă sáng rồi, mới chỉ lại cho người khác không lầm không chấp. Ngồi soi sáng lại chính ḿnh là ngồi thiền. Bởi vậy nói thiền quán là ngồi lại để soi sáng chính ḿnh, thấy rơ ḿnh thực hay giả, thấy rơ ḿnh thanh tịnh hay ô uế v.v... Thấy rơ ḿnh như vậy th́ ḿnh mới không lầm, không lầm ḿnh th́ ḿnh mới chỉ cho người khác tu không lầm. Nếu ḿnh không chiếu soi ḿnh, không biết rơ ḿnh th́ dạy người là dạy cái ǵ. Cho nên nhà Phật nói phải luôn quán chiếu, phải soi sáng chính ḿnh hay phản quan tự kỷ. Đó là hướng tu trong nhà Phật thường chỉ dạy.

Cho nên Tăng Ni ở các Thiền viện mỗi đêm phải ngồi thiền để quán chiếu lại ḿnh. Thấy rơ từng tâm niệm của ḿnh không thật, mới dẹp được nó. C̣n tưởng nó là đúng, là thật th́ không bao giờ dẹp phá được. Không dẹp phá nó được th́ phải chịu đi trong luân hồi sanh tử thôi. Như vậy minh là trí tuệ, vô minh là si mê. Trí tuệ là sáng, si mê là tối. Có trí tuệ th́ hết si mê. Nhà tối chỉ thắp đèn mới trừ được tối. Chúng ta v́ vô minh nên phải sanh tử, muốn hết sanh tử phải phá vô minh. Phá vô minh th́ phải dùng trí tuệ.

Khi đă nắm vững đường lối, phương pháp tu chúng ta phải cố gắng tu. Tu cho được giải thoát để cứu độ chúng sanh đó là bản nguyện của tất cả người xuất gia theo Phật vậy.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]