Chánh Văn:
“Phù nghiệp hệ thọ thân
, vị miển hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng
thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội.
Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế.
Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi
năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị
lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?”.
Dịch:
Bởi do nghiệp trói buộc mà có thân,
tức chưa khỏi khổ lụy về thân. Bẩm thụ tinh cha huyết mẹ, tạm mượn các
duyên hợp thành. Tuy nhờ tứ đại giử gìn, nhưng chúng thường trái nghịch.Vô
thường, già, bịnh chẳng hẹn cùng người. Sáng còn tối mất, chỉ trong khoảng
sát na đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, mốc sáng sớm, phút chốc
liền tan. Cây bên bờ vực, dây trong miệng giếng há được lâu bền. Niệm niệm
qua nhanh, chỉ trong khoảng sát na, chuyển hơi thở đã là đời sau, sao lại
an nhiên để ngày tháng trôi suông vô ích?.
Giảng:
“Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miển hình lụy”. Do nghiệp trói buộc lôi
cuốn nên chúng ta phải thọ nhận thân này. Sau khi thọ nhận thân này rồi
thì sao? “Vị miển hình lụy”, tức chưa khỏi được cái khổ lụy về thân. Ngài
nói có sự trùng hợp với Lão Tử: “Ngô hữu đại hoạn vị ngô hữu thân”, vì ta
có thân nên có họa lớn. Lão Tử thấy do có thân nên có họa, song chưa nói
đến nguyên do nào mà có thân.Tổ Qui Sơn nhìn theo con mắt của nhà tu Phật.
Ngài thấy thân chúng ta sở dĩ có đây không phải ngẩu nhiên mà có, mà là do
nghiệp chướng buộc lôi kéo chúng ta ra đây thì không thể nào tránh khỏi
đau khổ. Đó là Ngài chỉ rõ nguyên nhân của sự đau khổ khi mang thân này.
Nhưng tại sao nghiệp lôi mình được và sao mình dại dột để cho nghiệp lôi?
Vấn đề này tôi sẽ dẫn vài thí dụ nhỏ để quý vị thấy. Đây là chúng ta tìm
tột cùng cái nguyên nhân thuở trước, khi chúng ta chưa có thân này, do cái
gì thúc đẩy lôi cuốn chúng ta có thân? “ Cái thúc đẩy lôi cuốn” trong nhà
Phật gọi là “ nghiệp”. Nhưng nó lôi cuốn bằng cách nào? Kinh Phật nói, con
người có ba nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân, miệng, ý
tạo tác thành nghiệp rồi, thì nghiệp thúc đẩy lôi cuốn chúng ta phải thọ
thân sau và tùy theo nghiệp thiện hay ác mà dẫn chúng ta đến chỗ tốt hay
xấu. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là động tác của thân, miệng, ý; động tác ấy
lập đi lập lại nhiều lần thành thói quen, và khi đã thành thói quen, thì
nó có sức mạnh chi phối, dắt dẫn con người theo nó. Với mắt phàm tục thì
không thấy biết nghiệp, nhưng đối với bậc thánh giả thì thấy có bạch
nghiệp và hắc nghiệp. Nên khi nhìn người, bậc thánh giả biết người ấy có
chủng nghiệp lành hay dữ. Do trước kia tạo nghiệp lành hay dữ, khi sanh
thân hoặc khổ hoặc vui; đó là nói theo tương đối thế gian. Còn nói theo
đây thì dù cho thân sang hèn nghèo giàu gì cũng đều khổ hết, đó là tinh
thần khổ đế của đạo Phật. Như vậy, do tạo nghiệp mà phải thọ thân sau, nên
quí vị không lấy làm lạ, khi nghe các vị tu hành đắc đạo nói quá khứ, vị
lai của một người nào đó, là do mắt huệ của các Ngài thấy được thiện
nghiệp hay ác nghiệp của vị đó, và cũng không làm lạ đối với những nhà
tướng số, căn cứ trên phước tướng nhiều ít mà đoán đúng hậu vận của con
người. Thế nên nhiều người cho rằng mình có sẵn số mạng như thế nên thầy
coi trúng. Nhưng trúng với ai và trật với ai? Chỉ trúng với những người
dung thường, khi sanh ra họ cứ theo nghiệp cũ mà sống, không biết chuyển
đổi nghiệp. Nhưng đối với những người hơi phi thường thì số mạng có đổi;
chẳng hạn như những người xuất gia. Tử vi của mọi người chung chung là lớn
lên lập gia đình có con cái, có chức phận v.v… Nhưng với người khoảng 15
tuổi xuất gia thì không có gia đình, không có con, không có chức phận, như
vậy là đã cải số rồi. Nếu cho số mạng là cái định sẵn mà mọi người phải y
theo đó để sống, không thể chuyển đổi thì quá lầm lẫn. Nghiệp có thể
chuyển được, chuyển từ nghiệp dữ thành nghiệp lành và ngược lại. Thế nên
có lắm người trước thì say mê trong dục lạc, sau bừng tỉnh xa lìa dục lạc
trở thành người cao thượng, và cũng có người tốt, gặp duyên bạn bè hư đốn
quyến rủ chạy theo làm điều xấu ác. Nói đến nghiệp là nói đến động tác của
thân, khẩu, ý và động tác ấy có thể chuyển đổi từ xấu trở thành tốt và từ
tốt trở thành xấu.
Nay nên biết nghiệp chi phối lôi kéo con người như thế nào? Thí dụ
một người có thói quen mở radio nghe nhạc, vào mỗi tối lúc 8 giờ, đêm nào
cũng thế, thành thói quen. Bỗng một hôm radio hư không nghe được nhạc,
người ấy cảm thấy buồn buồn, ngay lúc đó nhà hàng xóm mở radio, thói quen
thúc đẩy người ấy tìm tới để nghe nhạc. Thói quen (nghiệp) không có hình
tướng nhưng có sức mạnh thúc đẩy, chi phối con người làm theo nó. Đó là
thói quen của tai. Bây giờ là thói quen của miệng, có người khi nghe nhạc
thì miệng huýt sáo ca hát, tay chân nhịp theo điệu nhạc. Một hôm đến chỗ
trang nghiêm. Lý đáng phải ngồi nghiêm chỉnh, nhưng ngồi một hồi cảm thấy
buồn bèn nhịp đùi huýt sáo, vì đã thành thói quen rồi. Còn có những thói
quen tệ hơn nữa là hút thuốc, ăn trầu, uống rượu, hút á phiện v.v… Vậy
động lực nào bắt con người hút thuốc, ăn trầu, uống rượu? Có phải tại thói
quen chăng? Thói quen trở thành tập nhiễm và có sức mạnh thôi thúc khiến
con người làm theo nó. Nhà Phật gọi đó là nghiệp, chính nghiệp mình tạo
rồi trói buộc và mình đi thọ sanh mà mình không hay biết, tưởng lý do này
lý do kia bắt mình sinh ra đời, bắt mình chịu khổ. Tất cả chỉ là cái duyên
bên ngoài, mà động lực chính là nghiệp lành hay nghiệp dữ khiến cho mình
khổ hay vui. Điều mà mọi người phải ghi nhớ là thân không tạo nghiệp ác mà
tạo nghiệp thiện, miệng không nói lời hung dữ mà nói lời lành, ý không
nghĩ ác mà nghĩ thiện; cứ như thế mà chuyển nghiệp thì mình làm chủ được
mình không bị nghiệp sai sử. Và chúng ta có đủ can đảm, đủ sức mạnh xây
dựng, sắp đặt cho cuộc sống ngày mai của chính mình và chịu đựng những gì
xảy đến, mà không than trách ai cả. Nếu không hiểu như thế cứ để cho dòng
định mệnh lôi cuốn tới đâu thì tới. Người hiểu rõ nghiệp và biết tu thì
phải gắng mà chuyển nghiệp, người tu là những con thuyền vững lái, gió mặc
gió, nước mặc nước, chúng ta cứ nhắm đích mà tiến, chớ để gió dập nước
cuốn. Nói đến nghiệp là nói đến sức mạnh tự chủ, không phải là thái độ yếu
đuối phó mặc cho số mệnh, để rồi việc không xong, hỏng thì đổ thừa cho
nghiệp.
Đây, Tổ Qui Sơn chỉ cho chúng ta thấy cái nhân có thân này là do
nghiệp, hoặc nghiệp lành nghiệp dữ; nếu thọ thân trong cảnh tốt được sung
sướng an vui là do tạo nghiệp thiện, còn thọ thân trong cảnh xấu chịu khổ
đau là do tạo nghiệp ác. Biết được khổ vui là do nghiệp mình tạo, để gan
dạ chịu, không than oán khi gặp khổ, và cố gắng chuyển nghiệp ác thành
nghiệp thiện, nếu ta còn luân hồi. Hoặc gan dạ cắt dứt mọi trói buộc của
nghiệp để được tự tại trong tam giới, đó là tu. Ngược lại biết rõ nghiệp,
mà vẫn đầu hàng, phó mặc cho nó chi phối lôi trì, là không biết tu vậy.
Còn taọ nghiệp là phải thọ thân, mà có thân thì khổ, vì thân này vô thường
hoại diệt, dù là vua chúa hay ăn mày cũng không thoát khỏi vô thường, nên
gọi là hình lụy. Có thân là có đủ các nỗi khổ nào là sanh, già, bịnh,
chết, thương yêu xa lìa, thù oán gặp gỡ… Chỉ khi nào cắt dứt nghiệp thì
không thọ thân và dứt luân hồi sanh tử. Không thọ thân không có nghĩa trở
thành hư không, mà lúc ấy muốn độ ai thì tùy nguyện đến cứu giúp họ. Khi
làm xong việc rồi đi một cách tự tại, chớ không bị nghiệp chi phối ép
ngặt.
“Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành”. Chúng ta do
nghiệp mà có thân. Vậy có thân bằng cách nào? Do sự luyến ái giữa cha mẹ,
mà tinh cha huyết mẹ hợp lại thành bào thai, rồi do nghiệp thúc đẩy thần
thức gá vào bào thai. Bào thai ấy nhờ tứ đại bên ngoài bồi bổ từ từ qua sự
hô hấp ăn uống của mẹ, lớn dần thành hình tướng, đầy đủ các bộ phận. Và
sau khi ra khỏi lòng mẹ, lại cũng nhờ tứ đại bên ngoài bồi bổ nuôi dưỡng
lớn lên.
“Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội”. Tuy rằng thân này do
tứ đại phụ giúp để nó được tồn tại. Nhưng trong khi gìn giữ nó vẫn thường
trái nhau. Vì đất không ưa gió, nước không ưa lửa, lửa gặp nước lửa tắt,
đất gặp gió đất rung rinh. Nếu bốn đại mất quân bình thì thân không an.
Khi gió thạnh thì thân đau nhức, khi đất thạnh thì hơi không thông, khi
nước nhiều lửa ít thì thân ốm gầy… Con người tuy có nhiều bịnh, song chỉ
do bốn đại bất hòa mà ra. Muốn cho thân an ổn phải điều hòa bốn đại, nếu
thấy đại nào mạnh thì hạn chế, đại nào yếu thì bồi bổ thêm, khéo điều hòa
thì nó tồn tại, không khéo điều hòa thì nó tan rã. Trong sự chung hợp đó
luôn có sự chống trái nhau, không bao giờ an ổn, chẳng khác nào kẻ nuôi
giặc trong nhà. Đã nuôi giặc trong nhà thì dù chúng ta có khôn ngoan thế
mấy, cũng không tránh khỏi chuyện nổi loạn. Vì vậy mà từ xưa đến nay có
nhiều người Ấn Độ tập Yoga, và ở Trung Hoa thì vận khí công luyện đơn, để
giữ cho thân này sống lâu. Tuy mọi người cố duy trì mạng sống lâu dài,
nhưng chẳng mấy ai được như ý. Nếu khéo giữ lắm chỉ được vài trăm năm rồi
cũng mất. Biết là giặc trong nhà mà muốn giữ nó còn mãi mãi, thì đó là
quan niệm sai lầm. Chúng ta chẳng khác nào kẻ đi biển bị chìm thuyền, vớ
được gốc cây mục, nương theo nó để vào bờ. Nếu nghĩ rằng nhờ gốc cây này
mà mình khỏi chết chìm, rồi ôm gốc cây giữ nó mãi, đó là quan niệm sai
lầm. Đạo Phật không có quan niệm đặt nặng thọ mạng dài ngắn, mà chỉ biết
ngày nay có thân, phải biết lợi dụng nó tiến tu cầu giải thoát. Chỉ cần
nương nó để tới bờ an ổn, khi tới bờ rồi nó trở thành vô nghĩa. Chúng ta
phải hiểu rõ đạo Phật lấy giác ngộ làm chính, chớ không phải giữ thân sống
lâu làm chính. Còn những pháp tu ngoại đạo thì đặt nặng sự duy trì thọ
mạng lâu dài, nên ai cũng thích, nhưng đâu ngờ ái thân là gốc của luân
hồi. Thế nên đạo Phật không bao giờ đề cập đến sống lâu, mà cốt làm sao
cho giác ngộ, nghĩa là phải dứt ái, vì gốc của ái là chấp ngã. Nên trong
khi tu nếu bị bệnh, nhờ cái bịnh đó thấy thân này sắp hư hoại, không còn
luyến ái nó, sẽ được thoát khỏi luân hồi. Đó là chủ yếu của sự tu hành. Vì
thế, mở đầu Tổ Qui Sơn chỉ cho chúng ta thấy có thân là có khổ, vì nó là
cái bại hoại.
“Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ”.Vô thường ở đây chỉ cho già bịnh
chết. Cái già, cái bịnh, cái chết nó chẳng hẹn với người. Chẳng hạn như
tôi đây lo tu, lo làm Phật sự nhìn lại thì đầu đã bạc, răng đã rụng! Hòa
Thượng Giám Đốc cũng đã từng nói: Tôi còn hai việc phải làm là sửa sang
lại Đại Tòng Lâm và xây dựng cơ sở phiên dịch, thế mà tuổi tác không cho
phép tôi làm. Ngài muốn làm lắm, song thấy vô thường sắp đến không còn làm
kịp, vô thường chẳng hẹn với ai cả. Hiện tại tôi hứa hướng dẫn quí vị tu
học ba năm, nhưng biết đâu nửa chừng bị ngã bịnh, hoặc cái chết nó đến. Đã
biết rõ vô thường không hẹn, thế nên hôm nay làm được việc gì hãy làm, chớ
hẹn ngày mai. Đừng nghĩ tôi mới hai mươi tuổi vội gì tu, tôi có thể sống
tám mươi tuổi kia mà, chừng già tu cũng chẳng muộn. Nhưng có ngờ đâu mới
ba mươi tuổi lăn đùng ra chết, chết rồi làm sao tu? Trong kinh Tứ Thập Nhị
Chương Phật nói điều này rất rõ ràng. Phật hỏi một vị Tỳ Kheo:
-
Mạng người sống
được bao lâu?
Tỳ Kheo trả lời:
-
Mạng người sống
được vài hôm.
Phật nói:
-
Ông chưa rõ đạo.
Phật hỏi vị khác, vị ấy trả lời:
-
Mạng người sống
chừng bữa ăn.
Phật cũng nói:
-
Ông chưa thấy đạo
Phật lại hỏi vị khác nữa, vị ấy trả
lời:
-
Mạng người chỉ
trong hơi thở
Phật nói:
-
Ông đã thấy đạo.
Chúng ta thở ta hít vô được thì còn sống, nếu thở ra mà không hít vô thì
chết ngay. Đó là một lẽ thật, tất cả mọi người đều chết như vậy. Trong nửa
chừng bữa ăn, nếu thở ra mà không hít vô cũng ngã ra chết, thì đâu trọn
bữa ăn. Thường chúng ta nghĩ cuộc sống là chặng đường dài bảy tám mươi
năm, nếu ngắn nhất là đôi ba ngày hoặc chừng bữa ăn. Nhưng dưới mắt Phật,
mạng sống chỉ trong hơi thở. Thế nên còn thở ra hít vô được, thì chúng ta
ráng tu, kẻo ngày nào đó thở ra mà không hít vô, thì tu không kịp. Nếu cứ
lo tính chuyện trăm năm là kẻ si mê không thấy đạo, đức Phật đã chỉ cho
chúng ta một lẽ thật. Thấy được lẽ thật là tỉnh giác, không thấy lẽ thật
là si mê. Mạng người đã không lâu bền tại sao chúng ta lại hẹn? Nên nhớ
rằng vô thường không hẹn với mình, thì mình cũng không có quyền hẹn với ai
hết. Ngày nào còn sống là ngày đó phải hạ thủ công phu để tự lợi, lợi tha
cho đầy đủ. Chớ nói ba năm nữa hãy bắt đầu làm việc này việc nọ đó là si
mê. Chúng ta phải luôn luôn giác ngộ lẽ này.
“Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ,
thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng khởi năng trường cửu”. Ngài diễn tả
cảnh vô thường sớm còn chiều mất, chỉ trong khoảng sát na, đã qua đời khác
giống như sương mùa xuân buổi sáng long lanh trên ngọn cỏ, nhưng nắng vừa
lên là đã tan rồi. Sự sống của chúng ta chẳng khác chi sương đọng trên đầu
cành, mới long lanh đó liền khô mất. Ví như cây dựa vực thẳm; có những cây
đứng sát bờ sông sâu, chỉ một cơn gió là lật nhào xuống nước, chẳng có
chút gì bảo đảm. Mạng sống lại giống như dây bò qua giếng. Trong kinh,
Phật dụ có một người phạm tội, bị vua xử voi giày. Khi voi rượt, người ấy
cắm đầu chạy, đến một cái giếng liền nhảy xuống vì sợ voi đạp. Giếng sâu
người ấy thấy sợi dây mọc qua thành giếng, liền nắm dây tuột xuống, giữa
chừng, lại gặp ba con rồng phun lửa lên hừng hực, đành bám chặt sợi dây ở
lưng chừng. Người ấy tính dựa vào thành giếng để có điểm tựa bảo đảm, song
nhìn thấy có bốn con rắn độc lè lưỡi. Bấy giờ kẻ tử tội chỉ đeo sợi dây lơ
lửng, lên xuống qua lại đều chẳng được. Oái oăm thay có hai con chuột một
trắng một đen thay nhau gặm sợi dây, sắp đứt. Mạng sống của người tử tội
thật mong manh làm sao! Thế mà, trong khi bối rối, người ấy ngửa mặt lên
bỗng có năm giọt mật rơi vào miệng, vị ngọt của mật làm cho người ấy thích
thú quên hết nỗi nguy nan khổ sở mà mình đang đối diện. Thử hỏi người ấy
mê đến bực nào? Phật dùng ví dụ này để diễn tả sự say mê của chúng sanh.
Voi rượt kẻ tử tội, dụ cho hành khổ và hoại khổ, tức là vô thường đang bức
bách con người đi đến cái chết. Sợi dây bên giếng, dụ cho mạng sống con
người quá mỏng manh. Ba con rồng phun lửa, dụ cho ba độc tham, sân, si
đang thiêu đốt con người. Bốn con rắn độc, dụ cho bốn đại, đất, nước, gió,
lửa không hòa hợp rã tan bất cứ lúc nào. Hai con chuột đang gặm mòn sợi
dây, dụ cho ngày và đêm; mỗi giây phút trôi qua là sinh mạng mòn dần…Năm
giọt mật dụ cho ngũ dục lạc là tài, sắc, danh, thực, thùy, mà người đời
đang say đắm, quên đi cái khổ vô thường to lớn đang bức bách con người.
Chư Phật và Bồ Tát mười phương nhìn thấy chúng sanh say mê ngũ dục, không
nhớ vô thường đang bức bách hoành hành, các Ngài khởi lòng từ bi phương
tiện tế độ. Trong kinh Pháp Hoa dụ chúng sanh say mê ngũ dục, như những
trẻ con đang ở trong nhà lửa cháy hừng hực, mà cứ mãi mê vui đùa không
chịu ra. Ông cha muốn cứu các con khỏi nạn lửa, bèn dụ bằng các món đồ
chơi đẹp lạ, các con vì ham đồ chơi, mới chịu ra khỏi nhà lửa. Ở thế gian
này có ai nhận thấy mình đang say mê, hay vẫn cứ vỗ ngực xưng ta là người
tri thức khôn ngoan? Đang si mê mà chẳng biết mình si mê mới thật là đại
si mê. Nếu si mê mà biết mình đang si mê, thì khả dĩ lóe được chút ít trí
tuệ. Mạng sống của con người mong manh chẳng khác chi sương đầu ngọn cỏ,
cây đứng bên vực sâu, dây bò qua thành giếng, chẳng có chi lâu bền mà tự
đắc vui sướng trong cảnh đó. Kẻ nào tự đắc và hài lòng trong cảnh ấy là kẻ
đại si mê, không mảy may thức tỉnh. Thế nên Tổ đánh thức cái mê lầm ngàn
đời của chúng ta.
“Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà
nãi yến nhiên không quá”. Mỗi niệm mỗi niệm qua nhanh, chỉ trong thời gian
ngắn nhất là một sát na (một niệm), nếu chuyển hơi thở là qua đời sau rồi.
Thở ra mà không hít vào thì thân hiện tại này không còn hoạt động nữa; gió
(hơi thở) làm cho cơ thể hoạt động, gió ngừng, hoạt động cũng theo gió mà
đứng, tim không đập, máu ngừng chảy, thế là qua một đời. Vậy mà người đời
cứ ngồi yên để cho ngày tháng trôi qua. Tổ sách tấn chúng ta: biết rõ cuộc
đời là vô thường, mạng sống chỉ trong hơi thở, phải nổ lực tiến tu, chẳng
lẽ ngồi chơi nhàn nhã cho qua ngày tháng, chẳng là ngu dại lắm ư!
Tóm lại, Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân đưa đẩy con người
sanh ra đời, là do nghiệp dẫn, nên không thể tránh khỏi sự đau khổ về nỗi
vô thường hư hoại của thân. Sở dĩ con người có ra và tồn tại là nhờ các
duyên chung hợp, bốn đại hỗ tương. Nhưng bốn đại vẫn chống đối nhau khiến
thân này tiêu mòn dần…chỉ trong khoảng sát na, một hơi thở ra không hít
vào là đã qua đời khác. Vậy thì: “Đâu thể an nhiên để ngày tháng qua suông
vô ích”. Lời trách cứ này của Tổ, chẳng khác nào ngọn roi quất mạnh, khiến
chúng ta thức tỉnh mà cố gắng tu.
|