Chánh Văn:
“Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã
thị Tỷ Kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trụ, bất giải thổn tư lai
xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết
nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân.
Nẵng kiếp tuẩn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt
sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu. Động kinh niên tải, bất nghĩ
khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ
Kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử, đam vị bất
hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng
tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực”.
Dịch:
Sao lại vừa mới lên giới phẩm, liền
xưng: Ta là Tỳ Kheo. Dùng của thí chủ, ăn của Thường trụ, không biết xét
nghĩ của ấy tự đâu đem đến, lại nói càng: lẽ (đương nhiên) phải hiến cúng.
Ăn rồi dụm đầu ồn náo, chỉ nói toàn chuyện tạp thế gian. Song, một thuở
đua vui, không biết vui ấy là nhân của khổ. Nhiều kiếp theo trần, chưa
từng tỉnh lại. Thời giờ mất mát, năm tháng dần dà. Thọ dụng càng nhiều,
thí chủ càng được lợi. Hết năm này sang năm khác chẳng chịu trừ bỏ. Chất
chứa càng nhiều chỉ để giữ gìn thân huyễn. Đấng đạo sư có lời dạy, răn
nhắc Tỳ Kheo: “Tiến đạo nghiêm thân, ba việc thường chớ đủ”. Người nay
phần nhiều mê đắm không thôi, ngày lại tháng qua thoạt nhiên đầu bạc. Kẻ
hậu học chưa nghe chỉ thú, phải nên rộng hỏi bậc tiên tri. Chớ nói xuất
gia trọng cầu ăn mặc.
Giảng:
“Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã
thị Tỳ Kheo”. Đến đây Tổ cho một roi quá đau. Thọ giới rồi xưng Tỳ Kheo vì
sao lại bị quở? Tổ quở đây là quở bịnh ngã mạn. Là người xuất gia phải
luôn giữ vững ý chí, bổn phận của mình, bên trong ghi nhớ pháp tu, bên
ngoài mở rộng đức lục hòa, luôn luôn có ý chí cầu siêu thoát thế gian. Tại
sao mới vừa thọ giới lại xưng ta là Tỳ Kheo, có ý tự cao ngã mạn? Vì thế
mà Tổ quở… Rồi thì:
“Đàn việt sở tu, khiết dụng thường
trụ”. Tiêu dùng của thí chủ bao nhiêu cũng không hài lòng, không biết xấu
hổ, tiết kiệm, vì xưng ta là Tỳ Kheo nên mặc tình thọ hưởng của thường
trụ. Như vậy thật là trái đạo, đã phản bội ý chí siêu thoát rồi. Đã không
biết bổn phận lại nghĩ rằng: Mình thọ giới cao thì có quyền thọ nhận
nhiều, mà không biết xấu hổ, không lo nỗ lực tu hành. Đây Tổ lại tiếp tục
quở:
“Bất giải thổn tư lai xứ, vị ngôn
pháp nhĩ hiệp cúng”. Không biết xét nghĩ của ấy từ đâu đem đến, lại bảo
rằng: lẽ tự nhiên phải dâng cúng cho mình. Phật dạy Tỳ Kheo ăn cơm phải
“Tam đề ngũ quán”. Nhưng thường chúng ta thấy phần đông chỉ quán lấy lệ,
chỉ có hình thức bên ngoài chứ chẳng thật tâm quán tưởng. Ngũ quán tức năm
điều quán tưởng, đó là:
1.
Xét công mình tu
hành được nhiều hay ít, và xét của ấy từ đâu đem đến cúng dường, xem mình
có xứng đáng nhận thọ hay không? Nếu không xứng mà thọ công khó nhọc của
người thì mang nợ. Vì thế, chúng ta phải luôn luôn nhớ, hổ thẹn mà cố gắng
tu hành làm sao cho xứng đáng.
2.
Xét lại đức hạnh
của mình, được những điểm ưu nào, còn những điểm khuyết nào để sửa.
3.
Xét ngừa tâm tham
của mình, không để nó xâm lấn. Giả sử lên bàn ăn thấy toàn rau muống luộc
rồi sanh ngán, nghĩ đến món ăn ngon. Như vậy là có lỗi tham ăn. Chúng ta
phải nhớ ngừa tâm tham ấy chớ đòi hỏi, ăn sao cũng được miễn sống để tu
hành là quí rồi.
4.
Nên xem việc ăn
uống chỉ là món thuốc để trị bịnh. Như khi đói quá thì tay chân rũ liệt,
không muốn nói cũng không muốn đi, đó là bịnh chớ gì? Rồi sau khi ăn vài
chén cơm thấy khỏe… Vậy cơm là thuốc trị bịnh. Mà đã là thuốc thì dù thuốc
đắng thuốc ngọt gì cũng uống, uống cốt để trị bịnh thôi, đừng chê khen gì
cả. Nếu chúng ta ăn mà nghĩ ngon dở tức là đã lệ thuộc vào cái lưỡi, chứ
không phải ăn để trị bịnh. Nếu ăn để trị bịnh thì dù đắng cay ngon dở gì
cũng được, miễn trị được bịnh đói thì thôi.
5.
Nghĩ mình tu là
quyết định thành đạo nghiệp. Tức phải thể nhập bản thể của mình, kế đó
thực hành công hạnh viên mãn, cho nên mới ráng mà thọ món ăn này, chớ
chẳng phải no đủ để vui chơi. Chúng ta thấy có rất nhiều người lầm khi
nói: ăn thứ này bổ có thể lên cân, ăn thứ kia lâu ngày sẽ sụt ký… Như vậy
đó là chúng ta vì mập ốm chứ chẳng phải vì đạo nghiệp mà ăn. Chúng ta ăn
cốt để tu hành thành đạo độ sanh, đó là ý nghĩa mà Phật bắt phải quán
trước khi ăn. Thế mà hiện nay có người dám tuyên bố trước đại chúng rằng:
“Ăn chay đã quá lắm rồi, tại sao lại phải “tam đề ngũ quán?” Nghe như vậy
tôi cảm thấy thực buồn. Bởi vì chúng ta đã sẵn bịnh buông lung, nếu không
hằng xét mình thì dễ bị nghiệp lôi, nên Phật bắt chúng ta trong tất cả
hành động đều phải tỉnh giác, không để cho thói xấu xâm nhập. Khi ăn chúng
ta khởi Tam đề ngũ quán là để xứng với tư cách của người cầu giải thoát.
Nếu chúng ta không xét, không nghĩ, vừa ăn vừa cười hỷ hả nói chuyện nhảm
nhí thế gian, thì thực là trái đạo. Có người bảo rằng: “Tín đồ cúng là lẽ
đương nhiên, tôi tu họ phải cúng cho tôi ăn”. Lý luận như vậy thật là
không chịu nổi. Họ có thiếu nợ mình đâu mà phải cúng cho mình ? Sở dĩ họ
cúng là vì họ muốn châm một ít dâù vào ngọn đèn Tam Bảo, để soi sáng thế
gian cho mọi người thoát khỏi mê lầm. Vì chúng ta là những người nhân danh
Tăng Bảo, giữ cho Phật pháp thường còn ở thế gian. Tín đồ giúp chúng ta là
muốn cho Phật pháp được lâu dài, để chúng sanh được cứu giúp khỏi vòng
sanh tử, chớ chẳng phải họ giúp chúng ta ăn chơi. Nhận của tín thí thì
phải đủ tư cách của người giải thoát. Bằng tu mà tính chuyện tầm phào, bắt
người cúng dường cho mình là chuyện không thể được. Đó chỉ là lý luận của
kẻ si mê lầm lạc. Đến câu:
“Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết
nhân gian tạp thoại”. Là ăn xong rồi nhóm ba hợp bảy nói chuyện ồn náo,
toàn những chuyện tạp nhạp ở thế gian. Tổ quở chúng ta không lo khắc niệm
bên trong, ngoài tuyên dương pháp lục hòa mà chỉ nói toàn chuyện thế gian.
Tệ đoan ấy hầu như đã lan tràn khắp chùa chiền. Chúng ta ít nghe bàn
chuyện giải thoát mà chỉ bàn chuyện lẩn quẩn đâu đâu. Nếu chúng ta cứ bàn
chuyện thế gian, mà chuyện thế gian là chuyện trong sanh tử thì làm sao
chúng ta thoát khỏi sanh tử được. Chúng ta phải cố gắng làm sao thoát khỏi
vòng sanh tử, để rồi chèo thuyền Bát Nhã cứu vớt chúng sanh, đó mới là bản
hoài của người tu.
“Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc. Bất tri
lạc thị khổ nhân” Song, một thuở đua vui, không biết vui ấy là nhân của
khổ. Trong lúc đuổi theo cái vui, chúng ta đâu biết rằng vui ấy là nhơn
đau khổ. Hiện tại chúng ta tưởng bàn nói nhảm nhí, cười đùa đó là vui,
nhưng đâu ngờ rằng chính đuổi theo cái vui tạp nhạp ấy là nhân khổ sau
này.. Chúng ta chạy theo cái vui sanh diệt thế gian tức không tránh khỏi
cái khổ sanh tử ở ngày mai. Nhân sanh diệt tức quả sanh diệt, mà sanh diệt
tức khổ não vậy.
“Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản
tỉnh”. Nhiều kiếp rồi chúng ta đã chạy theo trần tục chưa từng có phút
giây phản tỉnh. Nếu chúng ta biết phản tỉnh thì đâu đến nỗi phải lang
thang trong sáu nẻo luân hồi bao nhiêu kiếp, rồi nay lại bị nghiệp lôi
cuốn mà sanh ra đây nữa? Nếu vì nguyện độ sanh mà có ra đây thì đâu có mê
muội như thế này? Đã trôi giạt tự bao lâu nay mà không chịu thức tỉnh, cứ
chạy theo cái vui thế tục ấy, thì biết bao giờ mới thoát khỏi luân hồi?
Ngang đây, quí vị phải cố gắng đừng chạy theo ngoại cảnh sanh diệt mà phải
hằng tỉnh giác luôn luôn.
“Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa
đà”. Thời quang yểm một là thời giờ mất mát, năm tháng dần dà. Ý nói chúng
ta không biết phản tỉnh, buông mặc cho thời gian trôi qua, thật đáng tiếc!
“Thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu”.
Thọ dụng của thí chủ càng nhiều, thì lợi của thí chủ càng lớn. Đây là lời
cảnh tỉnh lớn lao của Tổ. Nếu chúng ta thọ nhận của thí chủ càng nhiều thì
thí chủ được lợi lớn, mà phần mình thì bị tổn giảm. Như trong kinh A-Hàm
có đoạn nói: Một hôm Ngài A-Nan nằm mộng thấy có một cái hầm lớn, dưới hầm
toàn là người tu, trên miệng hầm có một tấm ván bắt ngang, những người cư
sĩ thong thả qua lại trên ấy. Bấy giờ Ngài A-Nan mới đem điềm chiêm bao
nhờ Phật giải thích, Phật dạy: “Sau nay đệ tử của ta không biết giữ gìn
giới pháp, chẳng gắng tu hành, thọ dụng của thí chủ quá nhiều mà không tu
nên phải đọa, tức rơi xuống hầm. Còn những người thí chủ phát tâm làm
phước cúng dường nên được sanh lên cõi lành, đó là hình ảnh của những
người qua lại trên cầu”. Quí vị thấy như vậy có tủi không? Chúng ta tu là
để độ thí chủ, đằng này trái lại người tu đi xuống, thí chủ đi lên. Họ
phát tâm cúng dường thì họ có phước, còn mình không chịu tu thì họa tự
mang. Chúng ta phải nên nhớ kỹ điều này. Ở đây Tổ muốn chỉ cho chúng ta
thấy, nếu người được nhiều người dâng cấp rồi cho là mình có phước, ỷ lại
vào phước báu của mình buông lung xài lớn, không biết xét nét, chẳng kể
nổi khó khăn khổ nhọc của đàn na, thọ dụng càng nhiều thì thí chủ càng
được lợi mà chính mình lại tổn hại. Thí như người mài dao và viên đá mài.
Dao của người mài càng ngày càng bén, mà đá bị mài càng ngày càng mòn.
Người thí chủ dụ cho con dao được mài, còn người tu chẳng khác nào viên
đá, người nào đến mài dao cũng bén, còn viên đá thì thiệt thòi. Thế nên,
đừng tưởng người ta cúng nhiều là vinh hạnh, mà phải thấy đó là tiêu mòn
phước đức của mình.
Nói như vậy thì sao? Mình có nên thọ
cúng không, hay nên tự túc? Đây là chổ cần chú ý. Có lắm người nghe nói
như vậy liền nghĩ: Thôi bây giờ mình phải tự làm để ăn, rảnh lúc nào tu
lúc nấy cho khỏi thọ của tín thí, khỏi mang tội, trầm luân. Lý luận như
vậy có đúng không? Hình như đa số chấp nhận là đúng. Chúng ta nên cẩn
thận, phải hiểu cho tường tận điều này để không quanh quẩn lầm lạc. Đạo
Phật chủ trương đi tu là làm khất sĩ làm kẻ ăn mày. Ăn mày đây không có
nghĩa là rút rỉa đồng bào, sâu mọt của bá tánh. Ăn mày đây là cốt gây
duyên lành cho chúng sanh, chớ không phải vì muốn rút rỉa khiến cho người
phải khổ. Bởi vì muốn độ người thì một là mình ban ơn cho họ, hai là họ
ban ơn cho mình, đó là kết duyên với nhau. Nếu mình và người không liên hệ
gì thì khó mà độ được. Vì là người tu, chúng ta không có của cải để ban ơn
cho họ, thì trước mình nhận ăn của họ bằng cách thọ đồ cúng dường, nhưng
sau đó mình phải đem giáo pháp của Phật mà bố thí lại. Như thế họ giúp
mình cơm áo, mình giúp họ đạo lý, tuy một mặt mình thọ ân, nhưng một mặt
mình cũng ban ân. Như vậy trên đường tu tuy thấy mình như thiếu nợ mà thật
sự không thiếu. Điều này Phật đã nói rõ trong kinh A-Hàm qua câu chuyện Bà
Dì Mẫu xin xuất gia: Di Mẫu Ma-Ha Ba-Xà Ba-Đề xin Phật xuất gia, Phật
không cho. Bà rất buồn khổ. Thấy vậy Ngài A-Nan bạch Phật: “Thuở xưa, Thế
Tôn được sanh ra mới 7 ngày, Mẫu hậu đã mất. Từ đó một tay Di Mẫu nuôi
nấng Thế Tôn cho đến lớn khôn, biết bao nhọc nhằn vất vả. Bây giờ Bà xin
xuất gia mà Phật không cho, chẳng lẽ Ngài không nhớ ơn sao?”. Phật trả
lời: “Chính vì nhớ ơn mà ta đã dạy Bà thọ Tam quy ngũ giới, thế cũng đủ
trả ơn rồi”. Như vậy chúng ta thấy cách trả ơn của người tu không phải là
đem tiền tài đáp lại, mà chỉ làm sao khiến người biết đạo, mến đạo rồi
phát tâm tu hành đó gọi là đền ơn. Thí chủ giúp ta tài sản, ta giúp lại
bằng pháp. Cả hai bố thí lẫn nhau.
Giả sử nay chúng ta thọ nhận của
người mà chưa từng bố thí pháp cho họ, lỡ họ chết mất chúng ta có nợ họ
hay không? Nếu nợ thì làm sao trả đây? Chúng ta nên nhận rõ điều này để
tránh khỏi lo âu. Chúng ta nên ý thức rằng chúng ta là kẻ nợ của tất cả
chúng sinh, chẳng phải nợ riêng của một người cúng dường ta mà thôi. Vì
sao vậy? Khi quí vị tuyên bố xuất gia tức là đã gánh vác cái nợ lớn lao
của toàn thể chúng sanh rồi. Vì bản nguyện của người xuất gia là tự cầu
giải thoát và cứu độ chúng sanh. Tức chúng ta là người gánh vác đưa đón
chúng sanh qua khỏi biển trầm luân, cho nên ai cũng là chủ nợ của mình
hết. Vì thế mà tôi dám tuyên bố một câu mạnh mẽ rằng: “Tôi là kẻ nợ của
tất cả. Song, lười trả lắm! Ai biết đòi mới trả”. Nhưng cái nợ của người
tu khác người thế gian. Ngoài thế gian nợ thì họ kéo lưng, níu áo. Còn nợ
của người tu, thì chuyển làm Thầy trò. Như vậy Phật tử cúng dường Tăng Ni,
nếu họ chưa được độ trong hiện tại thì trong vị lai họ cũng sẽ được độ, vì
họ đã có gieo duyên với Tam Bảo, đã có duyên thì thế nào cũng gặp nhau qua
nghĩa Thầy trò, làm Thầy để độ trò, để cứu vớt họ qua khỏi luân hồi sanh
tử. Thế nên, nếu là kẻ thực tu, quyết chí cầu giải thoát thì nợ của thí
chủ bao nhiêu cũng không sợ, vì đó là gây duyên để độ người. Chỉ những ai
nhát nhúa muốn an phận thì mới sợ lẽ đó, rồi nghĩ rằng: thôi mình làm tự
túc sống, chẳng dính dáng gì đến ai hết. Phật gọi đó là ích kỷ chứ không
phải vì chúng sanh. Nói tóm lại nợ hay không nợ cũng tại nơi mình. Chúng
ta có thể là kẻ nợ chịu nhiều thống khổ nếu chúng ta không thực tu hành,
không nhất tâm cầu giải thoát Ngược lại, chúng ta có thể là người độ
thoát chúng sanh nếu chúng ta quyết chí tu hành giải thoát.
Có lắm người quan niệm rằng, phải tu
gấp rồi nguyện sanh về một nơi nào đó (cõi Cực Lạc) yên ổn hơn để tu nữa,
còn trở lại Ta Bà khổ quá tu không được. Lý luận này rất hay đối với người
không nghĩ rằng mình là kẻ nợ của chúng sanh, hoặc tự thấy mình bất lực
với hiện tại. Nhưng đối với người có tâm niệm dũng mãnh, nhất tâm giải
quyết sanh tử ngay trong đời này và thệ nguyện cứu vớt chúng sanh, thì
thấy việc cầu xin về Cực Lạc là chưa cần thiết. Vì không hợp với tâm
nguyện cao đẹp của Bồ Tát, như Ngài Địa Tạng nguyện xuống địa ngục, nếu
địa ngục chưa hết người. Ngài thề không thành Phật (địa ngục vị không thệ
bất thành Phật). Và có ai gan dạ bằng Ngài A-Nan, Ngài nguyện: Nếu còn một
chúng sanh chưa thành Phật, Ngài sẽ không nhập Niết Bàn. Chúng ta là Phật
tử, học giáo lý Đại thừa, thì ít ra cũng phải nguyện ở nơi Ta Bà, nếu chưa
độ hết chúng sanh thì không về Cực Lạc (hay nhập Niết Bàn). Còn như chạy
gấp về bên ấy, còn ai ở bên này chịu khổ cũng mặc kệ, thì mình yếu đuối
quá. Chúng ta đừng thấy trong sử ghi là có những vị Thiền sư đời sau trở
lại làm tướng, làm quan, làm vua hay làm người nữ… Như trường hợp ông Tô
Đông Pha trước là Thiền sư sau trở lại làm Tể quan, rồi cho đó là lui sụt.
Đâu không nhớ trong kinh Phổ Môn nói’ “Ưng dĩ Tể quan thân đắc độ giả tức
hiện Tể quan thân nhi vị thuyết pháp.Ưng dĩ Phạm Vương v.v…”Bồ Tát luôn
luôn tùy tha nguyện cầu độ mà các Ngài tùy hình tướng hiện ra để độ, đó
là tùy nguyện độ tha, chứ chẳng phải các Ngài lui sụt. Có một số người lầm
lẫn sợ sệt, kiếp này không độ được thí chủ thì làm sao đây? Chẳng ngờ rằng
mình đã nguyện tự giác và độ hết chúng sanh mới thành Phật đạo, thì có gì
phải sợ, chỉ sợ chúng ta không dõng mãnh tiến tu, chớ một khi bước vào
dòng đạo rồi thì dù cho có thọ của thí chủ bao nhiêu cũng không đến nỗi
đọa. Vì thế các Thiền sư thường nói: “Dù thọ mỗi ngày một lượng vàng ròng
cũng chẳng sao”. Song, chúng ta cũng có thể đọa dù thọ nhận rất ít, nếu
chúng ta buông lung tâm ý chẳng tự giác ngộ.
“Động kinh niên tải bất nghĩ khí ly.
Tích tụ tư đa bảo trì huyễn chất”. Trải qua nhiều năm mà chẳng nghĩ lìa bỏ
(việc thọ dụng quá nhiều). Chứa nhóm như thế để làm gì, chẳng qua cũng chỉ
bảo trì thân hư giả này. Chúng ta đã thấy thân này tự tánh nó là không,
duyên hợp giả có, thế mà trong chùa khi được đủ gạo ăn lại kiếm thêm mớ
tiền, đủ tiền ăn năm này lại lo năm tới, để đau thì có tiền uống thuốc, đi
đâu thì có tiền xe, tiền xài cứ thế lo hoài, lo mãi cho thân này mà sự
tiến tu thì không có. Chẳng khác nào những kẻ mê lầm ở thế gian, lo cho có
sự nghiệp lớn lao, chợt khi vô thường đến ăn năn không kịp, thật là đáng
tiếc. Vì thế chúng ta phải hằng thức tỉnh, đừng nghĩ phải làm sao cho sung
túc, chỉ cốt làm sao sống tạm qua ngày. Hãy nhớ đến hình ảnh đức Phật khi
xưa, một bình bát trên tay, đến đâu thì vào xóm làng khất thực, ai có cho
thì ăn, không cho thì bụng trống về ngủ, ngồi thiền cho qua ngày đó, hôm
sau lại đi khất thực. Chẳng riêng gì Phật mà cả mấy ngàn Tăng cũng đều như
thế. Các Ngài sống không có ngày mai, nhờ thế mà các Ngài luôn nghĩ đến
giải thoát. Còn chúng ta vì có ngày mai, tháng tới, năm sau… cho nên quên
mất chuyện giải thoát. Chúng ta bây giờ không thể theo hạnh khất thực như
xưa mà chúng ta phải tìm kế sống. Vì hoàn cảnh ngày nay khác ngày xưa.
Nhưng chúng ta phải sống thế nào cho hợp lẽ. Chỉ cần nghĩ hôm nay có sống,
ngày mai có sống là đủ rồi đừng nghĩ đến sang năm nữa mà rối loạn, tâm
không an định, tâm đã không an thì tu hành khó mà tiến bộ. Đây là chỗ cần
yếu phải ghi nhớ.
“Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ Kheo.
Tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc”. Đạo sư đây là chỉ đức Phật,
Phật có lời răn dạy: “Các Thầy Tu muốn tiến tu đạo nghiệp, trang nghiêm
pháp thân thì ba việc thường phải chẳng đủ. Ba việc là ăn, mặc và ngủ.
Chẳng đủ là hơi thiếu một chút, chớ không phải không ăn không mặc, không
ngủ. Đôi khi chúng ta hiểu lầm nghe nói chẳng đủ rồi thức hoài không ngủ,
hoặc nhịn đói không ăn…đó chỉ là gốc bịnh. Người thế gian thì ngày ba bữa
lại thêm các món ăn chơi, chúng ta ăn ít hơn họ một chút thì sáng ăn sơ
sài gọi là tiểu thực. Trưa ăn đầy đầy một chút gọi là ngọ trai. Chiều uống
chút bột cho ấm bao tử, ngồi thiền khỏi xót ruột, ấy là thiếu đó. Nếu
chiều ăn một bữa đầy bụng thì dư rồi. Thiếu một chút đó là để mình “tiến
đạo nghiêm thân”. Mặc cho thế gian quần này áo nọ, chúng ta chỉ vài bộ vải
bô cho ấm thân thôi. Về ngủ, người thế gian bảo phải ngủ 8 tiếng mới đủ
sức khỏe, thì chúng ta ngủ khoảng 7 tiếng thôi. Ăn, mặc, ngủ ta đều bớt
thì sự tu hành mới dễ tiến. Trên đường tu chúng ta phải luôn nhớ hạn chế
bớt ba việc này.
“Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật
vãng nguyệt lai táp nhiên bạch thủ”. Người đời đa số đối với ba việc ăn,
mặc, ngủ thường mê thích không thôi. Ngày qua tháng lại, sực nhớ thì tóc
đã bạc rồi! Người thế gian đối với việc ăn thì chạy đua tìm món ngon vật
lạ. Còn mặc thì nay quần này, mai áo nọ thay đổi luôn luôn. Ngủ thì phải
làm sao cho êm ấm, ngủ cho ngon. Suốt cả cuộc đời chỉ lo ăn, mặc, ngủ! Có
nhiều người nói có vẻ cao thượng, nào là lo cho gia đình, xã hội v.v…
nhưng chung qui cũng vì bản thân mình trước đã, mà vì bản thân mình cũng
là vì cái ăn. Nói thế nghe tầm thường quá, song quí vị thử xét lại rồi sẽ
thấy trên thế giới này, người ta đã gieo rắc bao thống khổ cho nhau, cũng
chỉ vì miếng ăn mà ra cả. Nhân loại vì tranh ăn mà phải đắm chìm trong
chiến tranh khổ não chẳng những riêng loài người mà tất cả chúng sanh đều
như thế. Hầu hết nguyên nhân các cuộc đấu tranh đều là vì miếng cơm manh
áo. Người đời vì say mê theo đó để ngày tháng trôi qua, phút chốc bạc đầu.
Còn chúng ta là người thức tỉnh thì phải khác hơn chứ đừng như thế. Nếu cứ
mãi lo ăn mặc ngủ mà không chịu tiến tu thì thật đáng hổ thẹn!
“Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác
vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực” Đến đây Tổ quất cho một
roi đau điếng. Những người học đạo sau này nếu chưa nghe, chưa hiểu lý đạo
thì nên rộng hỏi những vị biết trước mình, để chỉ bày cho mình rõ đạo lý;
chứ không phải suốt ngày chỉ lo ăn, mặc, ngủ để đến già chẳng hiểu mảy
may. Nếu như thế ấy sẽ bị bảo là người xuất gia mà chỉ vì cầu ăn mặc chẳng
ích chi cho mình, cũng chẳng lợi cho người. Vì thấy người tu không ý thức
bổn phận của mình, nên Ngài quở trách để chúng ta ráng vươn lên, đừng mãi
lẩn quẩn trong vòng ăn mặc như người đời, mà mất hết đạo nghiệp.
|