Chánh Văn:
“Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc
cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật,
tập liễm toàn vô, hoặc đại ngữ cao thanh xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng
trung hạ tọa, Bà la môn hội tụ vô thù. Oản bát tác thanh thực tất tiên
khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô, khởi tọa chung chư động tha tâm
niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu
côn, tân học vô nhân phỏng hiệu”.
Dịch:
Đến lúc tuổi đời đã cao, tuổi hạ cũng lớn
mà bụng rỗng tâm cao, chẳng chịu nương gần bạn lành chỉ biết một bề kiêu
ngạo. Chưa thông kinh luật, sự thúc liễm trọn không, hoặc lớn tiếng to lời
nói năng vô độ. Chẳng kính thượng trung hạ tọa, khi tụ họp giống Bà la môn
không khác. Khua bát ồn ào, ăn rồi dậy trước. Đi đứng ngang càn, Tăng thể
trọn không, ngồi đứng lăng xăng khiến người động niệm. Chẳng gìn mảy phép
tắc, chút oai nghi. Lấy gì thúc liễm hậu sanh, tân học nương đâu bắt
chước?
Giảng:
“Cập chí niên cao lạp trưởng, không
phúc cao tâm”. Tổ quở người xuầt gia mà không chịu học đạo nên mắc phải
lỗi lớn là “bụng rỗng tâm cao”, tức ngã mạn. Nghĩ mình ở chùa lâu nên xem
thường những kẻ mới xuất gia trong khi mình thì “bụng trống”. Nhưng lỡ lớn
tuổi rồi nếu đi học với người nhỏ thì mắc cở. Vì thế mà:
“Bất khẳng thân phụ lương bằng duy
tri cứ ngạo”. Không chịu gần gũi những bằng hữu tốt, chỉ biết một bề kiêu
ngạo. Tóm lại, tuy ở trong chùa lâu, mà không hiểu rành Kinh luật, không
rõ đường lối tu hành, nhưng đi học với người khác thì sợ đệ tử cười, nên
chỉ ôm lòng ngạo nghể chứ không chịu gần gũi học hỏi với ai cả.
“Vị am pháp luật tập liễm toàn vô”.
Vì chưa hiểu pháp, không thông luật nên không biết phương cách để tự thúc
liễm. Do không biết thúc liễm lấy mình thì:
“Hoặc đại ngữ cao thanh xuất ngôn vô
độ”. Tức là lớn tiếng to lời, nói năng vô độ. Tổ quở những người xuất gia
ở chùa mà nói năng rổn rảng, ưng nói gì thì nói, không biết dè dặt chừng
mực, không biết nói lời đức độ khiêm nhường… Do cái lỗi không chịu học
luật nghe pháp vậy.
“Bất kính thượng trung hạ tọa Bà la
môn hội tụ vô thù”. Không biết kính những bậc thượng trung hạ tọa, khi tụ
họp lại giống Bà la môn không khác. Khi xưa, các vị Bà la môn mỗi khi tụ
họp thì ai đến trước ngồi trước ai đến sau ngồi sau, không biết kính người
lớn cũng chẳng tôn trọng người đức hạnh, gặp đâu ngồi đó không có thứ tự.
Trong nhà Phật thì không thế. Người có giới đức thì ngồi trên người ít
giới đức hơn. Vì sao đạo Phật chủ trương bình đẳng mà ở đây lại phân cao
thấp, thứ lớp như vậy? Đạo Phật bình đẳng trên lý nhân quả, chớ không phải
bình đẳng bằng sự ép buộc hay khỏa bằng ai cũng như ai. Người nào có nhân
tốt hơn tức được quả tốt hơn. Thí dụ ở thế gian một ông thợ rèn rèn được 5
con dao thì được 50 đồng, còn một ông khác cần mẫn hơn rèn được 7 con dao
thì được 70 đồng, nhơn như thế thì quả như thế, đó là bình đẳng. Cũng
vậy, một vị tu 10 năm thực sự có giới đức phải trên người chỉ tu có 7 năm,
tùy theo nhơn quả mà đoán định. Đôi khi chúng ta chấp vào hai chữ bình
đẳng rồi thấy trong chùa bất bình đẳng, nhưng thật sự trong chùa căn cứ
trên nhân quả mà sự sắp đặt có sai biệt, tuy sai biệt mà bình đẳng, bình
đẳng mà sai biệt. Chủ trương của đạo Phật là như vậy. Nếu chúng ta không
học giới luật, không biết đạo thì làm sao chúng ta biết kính người có đức
hạnh, do đó mà khi tụ hội chẳng có thứ lớp giống như Bà la môn. Tổ lại
tiếp tục quở:
“Oản bát tác thanh thực tất tiên
khởi”. Khi ăn thì khua chén bát nghe rổn rảng, lua húp ào ào, ăn xong
buông chén đứng dậy đi không có trật tự, không chờ đợi ai hết.
“Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn
vô”. “Khứ” là đi, “tựu” là đến. “Quai giác” là trái chọi nhau. Nghĩa là đi
đứng trái lẽ, ngang càn không đúng pháp, không có đủ tư cách của một ông
Tăng. Lại thêm:
“Khởi tọa chung chư động tha tâm
niệm”. Thuở xưa ở Trung Hoa các Thiền viện (còn gọi là Thiền đường hay
Tăng đường) là chỗ ở của chư Tăng, trong đó có kê giường san sát nhau để
nằm nghỉ, và khuya đến giờ thức chúng thì toàn chúng đều thức dậy và ngồi
thiền trên đơn của mình. Ngồi thiền phải ngồi cho hết giờ, nếu nữa chừng
mà xả ra đứng dậy khua lộp cộp, thì làm động niệm người bên cạnh. Sở dĩ có
những hành động thô tháo như trên đây là do không rành luật lệ, chẳng biết
oai nghi nên:
“Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu oai
nghi. Tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu”. Không còn
một chút phép tắc, một mảy may oai nghi thì lấy gì dạy dỗ kẻ sau, người
mới học nương đâu bắt chước? (Nếu có bắt chước cũng chỉ toàn những chuyện
sai lầm) Tự mình đã không có tư cách phép luật thì làm sao dạy dỗ người
khác được? Thế mà:
Chánh Văn:
“Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn
Tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo. Như tư chi
kiến, cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẩm nhiễm nhân gian
toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học
tư tuân vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết bất thiệp điển chương. Hoặc
bị khinh ngôn, tiện trách hậu sanh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai
nhân”.
Dịch:
Vừa mới được người cảnh giác liền
xưng: Ta là “Sơn Tăng”. Chưa nghe lời Phật dạy để hành trì, cứ một bề giữ
tánh thô tháo. Sở dĩ thấy biết như vậy, chỉ vì tâm ban đầu biếng nhác và
theo thói ham ăn mê ngủ. Dần dà theo đời hóa thành thô kệch. Chẳng hay
lóng cóng yếu già, gặp việc xây mặt vào vách. Hậu học thưa hỏi không biết
lời chi hướng dẫn. Dẫu có giảng nói cũng không hợp với kinh điển. Nếu bi
khinh chê liền trách hậu sanh vô lễ. Tâm sân nổi dậy, lớn tiệng nạt người.
Giảng:
“Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã
thị sơn Tăng”. Ở Trung Hoa tăng sĩ có hai thành phần. Một là những vị sư ở
kinh đô vì gần Vua và dân chúng đông đảo nên giữ oai nghi nghiêm chỉnh.
Hai là những vị sư ở núi vì ít người lai vãng nên tự do, không giữ gìn oai
nghi. Vừa được người nhắc nhở liền xưng “Ta là Sơn Tăng” mà không chịu
nhận lỗi để sửa. Đó là lỗi chồng thêm lỗi.
“Vị văn Phật giáo hành trì, nhất
hướng tình tồn thô tháo”. Bởi chưa từng nghe lời Phật dạy để tu hành nên
trong lòng còn giữ một bề thô tháo. Chỉ tính toán chuyện thế gian, tuy
xuất gia mà chẳng hợp đạo tí nào.
“Như tư chi kiến, cái vị sơ tâm dung
đọa, thao thiết nhân tuần”. Sở dĩ có thấy biết như vậy chỉ vì ban đầu lười
biếng, không chịu học luật, học giáo lý, chẳng biết tu hành mà chỉ lo ăn,
ngủ. Thật là tệ hại!
“Nhẫm nhiễm nhân gian toại thành sơ
dã”. Nghĩa là dần dà theo đời, hóa thành quê kệch. Hai câu này nếu dịch
thoát văn một chút thì tôi nói là xách dù đi lang thang, chuyên đến những
nhà thế tục bèn thành kẻ quê mùa. Vì mãi đi lang thang xóm này, làng nọ
thì giờ đâu mà học hỏi giáo lý, thì giờ đâu mà thúc liễm thân tâm? Nói đến
đạo lý thì mù tịt, không phải quê mùa dốt nát là gì?
“Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự
diện tường”. Bất chợt cái già lụm cụm đến, gặp việc liền xây mặt ngó vào
vách.
“Hậu học tư tuân vô ngôn tiếp dẫn.
Túng hữu đàm thuyết bất thiệp điển chương”. Hậu học thưa hỏi không có lời
gì tiếp dẫn. Nếu có nói ra cũng không hợp với kinh điển. Vì ở chùa lâu
được tôn xưng là Thượng tọa, Sư bà. Bấy giờ được người thưa hỏi thì không
biết lời gì để giải đáp. Đôi khi túng quá, không nói, sợ nó cười, nên nói
đại nói càn chẳng hợp với kinh điển. Thế mà:
“Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu
sanh vô lễ. Sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân”. Hoặc bị khinh chê liền
trách hậu sanh vô lễ. Tâm sân nổi dậy, lớn tiếng át người. Kẻ hậu sanh vì
thấy hàng tu lâu là thông suốt nên đến hỏi, chẳng ngờ mình nói bậy, nó
biết nên nói : “Thầy nói vậy e lầm chăng?”. Vừa nghe thế liền nổi giận
trách liền: “Hậu sanh vô lễ”. Đã “Sân tâm phẫn khởi” thì “ngôn ngữ cai
nhân” là mắng nạt đuổi đi. Đoạn này Tổ nhằm vào cái khuyết điểm của người
xuất gia không lo tu học mà quở trách. Đây, Tổ nói tiếp hậu quả của người
không tu học.
Chánh Văn:
“Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ
oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thổn tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang
mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi”.
Dịch:
Một mai bịnh nằm trên giường, mọi thứ đau
đớn doanh vây bức bách. Sớm tối lo nghĩ, trong lòng lo sợ bồi hồi. Đường
trước mịt mờ chưa biết về đâu. Bấy giờ mới biết hối hận ăn năn, đợi khát
đào giếng sao kịp?
Giảng:
Đến đây Tổ dùng lời trách thật thống
thiết. Một hôm đau nặng nằm liệt giường, lúc ấy các khổ dồn đến ép ngặt:
thân thể đau nhức, cổ họng tắt nghẽn… chừng ấy mới suy nghĩ lại mấy chục
năm nay mình đã làm những gì? Tu tiến thế nào? Có lợi ích gì cho ai? Thì
chỉ thấy mình là con số không. Bấy giờ trong tâm hoảng sợ, đường trước mịt
mờ nào biết về đâu? Thật là khổ! Chừng ấy mới biết ăn năn nhưng đã muộn
rồi, đợi đến khát nước mới lo đào giếng thì sao cho kịp? Vì thế bây giờ
còn trẻ có duyên tốt xuất gia, lại may mắn gặp những nơi giảng kinh dạy
đạo thì phải ráng nỗ lực học hỏi tu hành, khả dĩ mới tránh khỏi lỗi lầm
này.
Chánh Văn:
“Tự hận tảo bất dự tu, niên vãng đa chư
quá cựu. Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi thức
tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên. Tâm tự đa đoan,
trọng xứ thiên trụy”.
Dịch:
Hận mình sớm chẳng lo tu, đến lúc
tuổi già nhiều điều tội lỗi. Khi sắp rời bỏ cuộc đời sự sống tan rã nhanh
chóng, trong lòng khiếp sợ kinh hoàng. (Giống như) lụa thủng chim bay,
(cũng vậy) tâm thức theo nghiệp. Như kẻ mắc nợ, ai mạnh kéo trước, trong
tâm nhiều mối, nặng đâu sa đó.
Giảng:
Đến đây tôi giải thích kỹ cho toàn
thể quí vị nghe và nhận được yếu chỉ tu hành, để đến phút chót mình cố tự
chủ. Đối với người thường không biết tu hành chỉ lo chạy theo danh lợi,
khi sắp chết họ tự kiểm điểm thấy mình không có phước đức, nên tâm hoảng
sợ không biết mình sẽ ra sao? Đi về chỗ nào? Tâm hãi hùng tay chân co rút,
không làm chủ được mình. Khi ấy nếu tắt thở, thì thần thức nơi thân liền
xuất ra.
Chữ “Hộc xuyên” Phật ví dụ như cái hủ
ngoài có tấm lụa bịt miệng, trong hủ có con chim. Nếu tấm lụa thủng thì
con chim sẽ bay ra chỗ nào nó thích. Cái hủ bịt miệng ấy dụ cho thân tứ
đại của chúng ta, khi thân sắc uẩn hư hoại. Tâm thức liền tùy nghiệp mà
đi, nghiệp nào nặng thì lôi mình đi trước. Thế thì thái độ của người tu
khi chết phải làm thế nào? Trong kinh Phật dạy: khi sắp chết phải được tự
chủ. Nếu tu về pháp môn niệm Phật thì nhớ niệm Phật, tu pháp môn trì chú
thì nhớ câu chú. Còn chúng ta tu thiền thì sao? Lúc ấy không nhớ gì hết
phải không? Nếu không nhờ phương tiện gì cả thì lúc ấy hoảng hốt làm sao
tự chủ? Thực sự, nếu người tham thiền đầy đủ nghị lực, khi chết họ sẽ
cười. Chỉ có người chưa đủ nghị lực mới sợ. Cũng như người niệm Phật khi
đến chỗ nhất tâm bất loạn rồi, thì khi chết sẽ vui tươi, vì thấy mình đầy
đủ công đức, nhắm mắt là được Phật rước. Người tham thiền cũng thế, khi
thấy được tánh, đạt được đạo thì có gì mà sợ hãi? Như Ngài Tuệ Trung
Thượng Sĩ khi có người hỏi:
-Đối với vấn đề sanh tử Ngài nghĩ
sao?
Ngài đáp:
“Trường không túng sử song phi
cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm
âu?”
Dịch:
“Giữa trời phỏng có đôi vành
chuyễn
Biển cả ngại gì hòn bọt con”.
Với hư không vô cùng tận thì hai vành
xe trong ấy nào có nghĩa gì? Một hòn bọt nào có đáng gì với biển cả mênh
mông! Hai vành xe dụ cho sanh tử, khi chúng ta đã đạt được pháp thân thì
vấn đề sanh tử trở thành vô nghĩa. Lại nữa, pháp thân chẳng khác nào biển
cả, còn sắc thân huyễn hóa này chẳng khác nào hòn bọt. Bọt tan trở về biển
nào có lo gì? Vậy thì có gì sợ hãi? Chỉ ngại chúng ta biết bọt mà không
biết biển thì mới lo sợ. Vì thế mà đa số Thiền sư ngộ đạo rồi, đối với vấn
để sanh tử các Ngài xem như trò chơi. “Ư chư sanh tử bất quan hoài”, đối
với vấn đề sống chết chẳng còn để lòng nữa. Lúc đó là xong, cần gì phải
nghĩ mình đi đâu. Đây là chủ yếu của Thiền Tông. Tổ Qui Sơn khi sắp tịch,
có người hỏi:
-
Hòa Thượng sau khi
tịch về đâu? Ngài đáp:
-
Ta sẽ làm con trâu
dưới núi, trên lưng có đề 4 chữ “QUI SƠN LINH HỰU”. Khi ấy gọi Qui Sơn là
phải, hay gọi con trâu là phải?
Quí vị chưa thông hiểu thiền lý, nghe
chuyện này ắt hoảng hốt sanh nghi. Ông già tu hành bao năm đã được tôn làm
Tổ, mà chết làm trâu thì nguy quá, tu hành như mình chẳng biết sẽ ra sao?
Thông thường chúng ta quan niệm người tu chết thì phải về cõi Phật hoặc
thành Thánh mới được, ai ngờ Ngài nói sẽ làm con trâu Ngài Nam-Tuyền cũng
nói tương tự như vậy. Chúng ta lúc nào cũng thấy trên là Thánh dưới là
phàm, muốn bỏ phàm theo Thánh, mà còn thấy Thánh là còn thấy hai. Sự thật
thì không hai, đấy chỉ là phương tiện giả lập trong vòng tương đối mà
thôi. Vì thế đối với những vị đạt đạo thấy Phàm Thánh không hai thì nói
thế nào? Thôi, làm con trâu vui vậy. Nhưng nói thế chớ các Ngài có làm
trâu đâu, chỉ cốt để phá cái chấp phàm Thánh của chúng ta thôi. Bọt tan về
biển, chớ hỏi về đâu? Vừa khởi nghĩ hỏi là đã sai rồi. Nếu còn có chỗ về
tức là còn hòn bọt, bởi vì bọt mới trôi giạt Đông Tây, chứ khi bọt tan
đồng với biển cả thì ai thấy được chỗ về? Nếu thực tình chúng ta đã gột
sạch bản ngã, dứt được tâm phàm Thánh thì có lo gì, chỉ ngại chúng ta
không dứt được mà thôi. Chẳng những Thiền sư nói bọt tan về biển mà chính
đức Phật đã từng giải thích về điều này: Có một vị Tỳ Kheo chứng A-La-Hán,
khi vị này tịch, một Tỳ Kheo khác hỏi Phật:
-
Bạch Thế-Tôn, vị
Tỳ Kheo này sau khi tịch sẽ đi về đâu?
Phật đáp:
-
Vị này sau khi
tịch chẳng khác nào như củi hết lửa tắt.
Thật đơn giản. Chính chỗ củi hết lửa tắt
này khiến lắm người không hiểu và đâm hoảng, nghĩ rằng đến đây rồi chẳng
còn gì nữa. Thật sự, ở đây củi là dụ cho nghiệp, lửa dụ cho sanh tử. Nếu
nghiệp đã hết thì sanh tử đâu còn. Bậc đã chứng A-La-Hán, dứt sạch nghiệp
thì đâu còn sanh tử, đó là giải thoát, nên nói: như củi hết lửa tắt. Chính
đức Phật khi còn tại thế có người đặt câu hỏi: “Bạch Thế-Tôn, sau khi tịch
rồi, Ngài còn hay không còn?”. Phật không đáp mà gác qua một bên cho rằng
câu hỏi vô lý. Tại sao vô lý? Vì theo quan niệm của thế gian thì hoặc là
có hoặc là không. Nếu có thì phải có hình tướng, nếu không thì là không
ngơ. Cho nên Phật không đáp còn hay không, vì nếu đáp còn thì người ta sẽ
nghĩ đến hình tướng thế nay thế nọ, mà Phật là đấng đã giác ngộ thoát khỏi
vòng luân hồi sanh diệt thì đâu có hình tướng. Còn nếu đáp không, thì họ
sẽ tưởng là không ngơ, cả hai đều là bịnh, bịnh chấp “thường”, chấp “đoạn”
chúng sanh luôn thấy có hai, còn bậc giác ngộ thì không còn thấy có hai
nữa. Đối với hàng Thánh giả mà hỏi sau khi tịch đi về đâu là điều vô lý.
Vì một khi thể nhập pháp thân rồi thì tràn đầy pháp giới, tùy duyên ứng
hóa, đâu hạn cuộc chỗ nơi nào, không thấy đi cũng không thấy có chỗ để đi,
đây mới thật là giải thoát. Chỉ những người còn lẩn quẩn trong vòng sanh
tử, thì Phật mới thọ ký cho họ sau khi chết sẽ về chỗ nào đó trong lục
đạo, tùy theo nghiệp của mỗi người. Nếu còn chỗ đi ấy là còn luân hồi. Nay
quí vị hỏi: Tu Thiền chết đi về đâu? Nếu tôi nói chết đi về đâu tức tôi
chỉ quí vị luân hồi. Mà ở đây tôi muốn quí vị làm sao thể nhập được pháp
thân, tùy duyên ứng hóa. Điểm thiết yếu của người tu là cốt được vô sanh,
vô sanh tức nhập Niết-bàn. Niết-bàn thì không có hình tướng, nhưng đừng
nghĩ là nó không ngơ, nói không ngơ là rơi vào đoạn mà nói có tướng tức
lạc vào thường. Cả hai đều là bịnh. Chỉ có người thể hội được mới rõ, chứ
không thể giải thích theo lối chấp hai của thế gian mà hiểu được.
Ở đây tôi giải thích thêm một điểm
ngờ vực nữa của người thế gian. Người thế gian cho rằng mọi người đều
riêng có một linh hồn là cái tính linh khôn ngoan sáng suốt, mà đã khôn
ngoan thì sao lại chịu vào nơi khổ? Ai cũng nghĩ rằng sau khi chết linh
hồn mình sẽ sinh ra làm người nữa và chấp chặt cho linh hồn đó là mình.
Đạo Phật thì gọi đó là tâm thức. Cái tâm thức này tùy theo chỗ huân tập
thiện ác mà đến, chứ không cố định. Vì không cố định nên nó không phải là
cái khôn ngoan biết lựa chọn, mà chỉ tùy nghiệp mà thôi. Tâm thức khác
linh hồn ở chỗ đó. Nếu nói chúng ta có linh hồn thì sẽ tưởng như đó là một
tinh thần duy nhất, nếu là duy nhất cố định thì thiện ác, mãi mãi không
thay đổi. Nhưng, tâm thức chúng ta luôn luôn biến chuyển, gần người lành
thì hấp thụ điều lành, gần kẻ ác thì hấp thụ điều ác. Như vậy, tâm thức là
một dòng thiện ác, sinh diệt, chính dòng thiện ác đó sẽ đưa chúng ta đến
chỗ lành hay dữ, nghiệp nào nặng sẽ lôi mình trước, đó là ý nghĩa “trọng
xứ thiên trụy”.
Tóm lại, Tổ chỉ cho chúng ta thấy
người tu nếu không tu đến nơi đến chốn, mà một bề chạy theo danh lợi, khi
lâm chung thần thức vừa ra khỏi thân liền bị nghiệp lôi, nghiệp nào nặng
thì sẽ lôi mình trước. Nếu thiện mạnh thì sẽ lôi mình đến chỗ lành, nhưng
hưởng phước lành hết thì sẽ rơi vào chỗ dữ. Nếu ác mạnh sẽ lôi đến chỗ dữ
trước, trả hết nghiệp ác rồi mới tới chỗ lành, đấy là tuần tự mà trả nợ,
nhưng tùy chủ nợ mạnh yếu mà lôi kéo chúng ta đến trước hay sau. Đây là
chỗ chúng ta cần lưu ý.
Chánh Văn:
“Vô thường sát quỉ, niệm niệm bất đình,
mạng bất khả diên, thời bất khả đãi”.
Dịch:
Vô thường sát hại, niệm niệm không
dừng. Mạng sống không thể kéo dài, thời gian không thể chờ đợi.
Giảng:
Đây nói quỉ vô thường giết người mỗi niệm
mỗi niệm không dừng. Mạng sống không thể kéo dài hơn, cũng không thể chờ
đợi được. Như bây giờ quí vị lỡ làm một công việc gì đó chưa xong, nay hấp
hối sắp chết thì quí vị có thể hẹn với quỉ vô thường rằng: “ Làm ơn đình
lại cho tôi làm xong việc rồi sẽ chết” được không? Nhất định là không thể
hẹn. Nhưng có một chuyện hơi lạ tôi kể lại cho quí vị nghe chứ không phải
phê phán. Có một Thiền sư trong hội Ngài Diên Quang làm chức tri sự vì bận
quá nhiều việc nên Ngài không có thời giờ tu tập. Hôm đó bất chợt quỷ vô
thường đến mời Ngài đi. Ngài bèn nói: “Mấy năm nay tôi bận lo việc chúng
không có thì giờ tu, nay ông làm ơn cho tôi hẹn bảy ngày lo xong việc của
tôi, chừng ấy ông đến tôi sẽ sẵn sàng đi. Quỷ bảo: “Để tôi về thưa lại với
Diêm chúa nếu được tôi không trở lại, bằng không tôi trở lại rước Ngài
liền”. Suốt trong 7 ngày đó Ngài nỗ lực tu, hết hạn quỷ vô thường đến tìm
Ngài mà không thấy. Câu chuyện này tôi không thể phê bình thật hay không
thật, nhưng kể ra cho quí vị thấy trong trường hợp này có thể đình nhưng
cũng chỉ hẹn 7 ngày thôi.
Chánh Văn:
“Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như
thị thọ thân phi luận kiếp số”.
Dịch:
Ba cõi trời người chưa thoát khỏi thì cứ
như vậy thọ thân số kiếp không thể tính bàn.
Giảng:
Ấy chỉ vì lỗi không nỗ lực tu hành,
mãi tạo nghiệp cho nên phải chìm đắm trong luân hồi, lang thang trong sáu
nẻo.
|