QUI SƠN CẢNH SÁCH

H.T THÍCH THANH TỪ

 

Chánh Văn:

“Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi, lược thân quảng kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán”.

 

Dịch:

     Cảm thương than thở, đau xót cực lòng, đâu thể im lời nên cùng nhau nhắc nhở. Tủi vì sanh vào thời mạt pháp, cách Hiền Thánh đã xa. Phật pháp lôi thôi người tu đa số biếng nhác. Thế nên, lược bày chỗ thấy cạn hẹp của mình để khuyên bảo người sau. Nếu không bỏ tánh kiêu căng, thì thật khó mong chuyển đổi.

 

Giảng:

     Sau khi chỉ rõ lỗi lầm xong, đến đây Tổ nhắc nhở sách tấn chúng ta tu hành. Ngài thấy chúng ta si mê quá nên lòng rất thương xót nói lên những lời thật thống thiết để cảnh tỉnh chúng ta, thật là lòng từ vô hạn. Người xưa phần đông đều dõng mãnh chỉ có một ít không cố gắng mà Ngài còn than trách như thế. Huống là chúng ta ngày nay đa số đều giải đãi, ngồi thiền có một giờ đồng hồ, mà đã loạn cuồng cả lên, đâu sánh được với người xưa cả ngày đi, đứng, ngồi nằm đều Thiền. Đôi khi lại hiểu Phật pháp hết sức sơ sài rồi đem những tà thuyết ra truyền bá, khiến cho Phật pháp ngày càng lu mờ. Xưa Phật làm một đàng, giờ chúng ta đi một ngả. Tôi nói đây không phải để kích bác, mà cốt để xây dựng những cái lệch lạc của đa số người tu hiện tại. Như đức Phật hồi thuở xưa Ngài đâu có đi đám ma, chẳng riêng đức Phật mà ngay cả 1250 vị đệ tử của Ngài, Ngài cũng chưa từng bảo ai đi đám ma cả. Thế mà các chùa ngày nay thì đi đám liên miên. Như một chùa có 1000 tín đồ, thỉnh thoảng có người này đau, người kia chết, rồi phải đi thăm, đi đám, cúng 49 ngày…hết gia đình này đến gia đình khác. Cứ loanh quanh như thế làm sao có thì giờ gạn lọc tâm tư, thì giờ đâu tu tập thiền quán? Thấm thoát một đời qua, sự nghiệp tu hành nhìn lại nào có gì đâu??? Đến chừng sắp chết thì kêu thiên hạ độ mình, còn ngày thường thì mình mắc “độ thiên hạ”! Là Phật tử, chúng ta đi con đường của Phật hay đi con đường nào? Đây là sự thật khá đau lòng. Tôi cũng biết Phật giáo ngày nay đã mang nặng màu sắc “tín ngưỡng”, nhưng chúng ta cũng nên đặt tín ngưỡng đúng chỗ thanh cao thì hay, còn để cho tín ngưỡng đi quá đà nó sẽ thành những hình thức khô khan, biến Tăng sĩ thành những ông Thầy cúng. Đây là điều lầm lẫn của chúng ta vậy. Nếu chúng ta thật tâm cầu giải thoát thì phải tạo cho mình một khung cảnh đơn giản, tránh bớt những xả giao phiền toái, giữ gìn những nghi lễ trang nghiêm mới đúng tinh thần Phật pháp. Như vậy mới là người vì đạo, thương mình và dẫn dắt tín đồ. Nếu không được như thế thì e rằng mình đã lầm lại làm lầm lây cho người.

     Đến đây Ngài nói thật khiêm nhường. Ngài lược bày chỗ thấy nhỏ hẹp của mình để mà nhắc nhở người sau, mong người sau dẹp trừ tánh kiêu căng ngã mạn để tự sửa thì mới có thể tiến được. Bằng không dẹp trừ tánh ngã mạn thì không thể chuyển hướng được.

 

Chánh Văn:

“Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”.

 

Dịch:

     Phàm người xuất gia là cất bước đến phương trời cao rộng, tâm hình khác tục. Nối thạnh giòng Thánh, hàng phục quân ma, nhằm đền trả 4 ân, cứu giúp 3 cõi.

 

Giảng:

     “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương”. Chữ “phương” nghĩa hẹp là chỉ cho địa phương, nghĩa rộng là chỉ cho tam giới. Nghĩa là khi đã phát tâm xuất gia chúng ta phải ý thức rằng mình sẽ thoát ra khỏi tam giới, không còn kẹt trong vòng sanh tử nữa.

 

     “Tâm hình dị tục”. Mấy chữ này thật vô cùng cô đọng. Hình dị tục thì chúng ta dễ nhận rồi như đầu trọc, mặc áo nhuộm… Còn tâm dị tục là thế nào? Người thế gian thấy tư tưởng là thật, thân này là thật, tất cả cảnh vật chung quanh đều là thật, nên họ mê lầm và đắm chìm trong ấy. Còn người xuất gia thì thường dùng trí tuệ Bát nhã quán chiếu thân tứ đại là không, ngoại cảnh sáu trần đều huyễn hóa…Hoặc giả với tinh thần Nhị thừa thấy tất cả sự vật hiện có đều là vô thường, khổ, không v.v…đó là “tâm dị tục”. Tâm người thế gian và người xuất gia khác nhau là như vậy. Nhưng bây giờ có lắm người xuất gia mà tâm không dị tục, nghĩa là cũng thấy thân cảnh đều thực, cho nên cũng muốn kinh doanh, tạo sự nghiệp gì đó ở đời. Như thế, thân tuy xuất gia mà tâm chẳng khác người thế tục. Cho nên người xuất gia chúng ta phải nhìn lại mình, thấy thân đã khác tục thì phải cố gắng làm sao cho tâm cũng khác tục. Nếu chỉ khác hình thức mà tâm không khác thì chưa phải là người xuất gia. Tổ chỉ dùng bốn chữ cô đọng “tâm hình dị tục”, nhưng đã nói lên được hoài bảo của người tu là vượt ra khỏi tam giới để:

 

     “Thiệu long Thánh chủng” tức nối tiếp hạt giống giác ngộ. Người xuất gia là người thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp, soi đường cho kẻ lầm mê, vì thế phải có tâm giác ngộ, khác hẳn thế tục mới có đủ khả năng làm cho hạt giống Thánh được tiếp nối và hưng thạnh nữa.

 

     “Chấn nhiếp ma quân” là nhiếp phục ma quân, khiến chúng khiếp đảm. Chữ “ma quân” có nhiều người hiểu lầm, tưởng là con ma có hình tướng, có nanh vuốt dễ sợ lắm. Nhưng ma quân trong nhà Phật thì có nhiều thứ. Ở đây tôi lược nói hai thứ thôi, đó là nội ma và ngoại ma. Nội ma là những gì làm chướng ngại tâm thanh tịnh của mình như tham, sân, si đều gọi là ma. Thí dụ đang ngồi thiền bỗng nhớ khi nãy cô kia nói mình một câu nặng quá. Cái nhớ đó là ma, nó làm mình mất thanh tịnh. Ngay khi đó mình dừng lại không cho nó nghĩ tiếp đó là hàng phục ma. Hoặc thấy của rơi mà không lấy ấy là nhiếp phục ma tham. Hoặc có ai vô cớ trêu chọc, sắp nổi nóng lên liền nghĩ: nóng giận là bậy, nghĩ vậy nên nén xuống bỏ qua, đó là nhiếp phục được ma sân. Vì thế chúng ta ngồi thiền trông im lìm nhàn hạ mà thật sự khi ấy chúng ta đã tranh đấu một cách mãnh liệt với ma quân, khi ấy chúng ta là người dũng sĩ lâm trận chứ đâu phải ngồi chơi thong thả như người lầm tưởng. Một cuộc chiến vô hình mà vô cùng phức tạp gay go. Như thế gian đánh giặc họ dàn trận ra, hai bên thấy nhau trận chiến là lẽ thường. Còn giặc của chúng ta là ẩn núp chẳng có nơi chốn gì cả, chỉ đợi chúng ta sơ hở một tí là nhảy vô liền. Vì thế cuộc chiến đấu thật trường kỳ chẳng biết bao giờ mới thái bình. Giặc quá nhiều mà chúng ta lại không biết rõ mặt mũi chúng, những chú giặc ấy hoặc quá khứ, hoặc vị lai, nào chuyện mới, chuyện cũ… cứ hàng hàng lớp lớp nhảy ra tấn công mình. Vì thế chúng ta phải gan dạ và chăm chăm nhìn nó, nếu lơ là nó sẽ chiếm mất gia bảo của mình. Cho nên người xưa nói: “Việc xuất gia chẳng phải là việc của tướng võ có thể làm được”. Như vậy người xuất gia đánh giặc hơn cả tướng cầm quân chứ đâu phải thường. Giả sử muốn cất một ngôi chùa mấy vị phải đi quyên góp tiền bạc suốt ba bốn tháng trường mới tạo được ngôi chùa, như vậy cũng nhọc nhằn đấy, song đâu có khó bằng ngồi thiền tranh đấu với chúng ma. Có người thấy ngồi thiền im lìm một chỗ cho là tiêu cực yếm thế chẳng giúp ích gì được cho ai, họ đâu biết chính lúc ấy phải tranh đấu hết sức gay go. Vì vậy mà phải có thế ngồi thật vững chắc, để nhìn nó mới thắng nó nổi. Nếu lơ là nó sẽ tràn ra mãi, rồi có ngày chúng ta sẽ mất quyền làm chủ. Muốn khôi phục lại ngôi vị của mình thì phải đánh hết bọn ma ra ngoài. Đó là nhiếp phục nội ma. Giờ nói đến ngoại ma. Ngoại ma có nhiều thứ như: tử ma, ma ngũ dục, thiên ma v.v…Nhưng ngoại ma không nguy hiểm bằng nội ma. Sở dĩ ma ngoài xâm nhập tâm của chúng ta được cũng do bọn ma bên trong móc nối. Thí dụ ngoại ma là ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy. Nếu tâm chúng ta không còn nhiễm ái, không còn tham tiền, không ham ăn uống, ngủ nghỉ thì ma ngoài dù có rủ rê cũng không được. Lòng tham dục lắng xuống tức thời ma ngoài tự tiêu. Kế đến là loại ma vì nghiệp phải làm quỷ. Loại ma này thường nhiễu hại người tu bằng cách khi chúng ta ở nơi vắng vẻ, nó liền hiện hình hay biến tướng lạ để quấy phá. Khi thấy những tướng quái lạ ấy chúng ta phải làm sao? Như trong đoạn đối đáp của vua Trần Thánh Tông với Tuệ Trung Thượng Sĩ, có câu:

         “Kiến quái bất kiến quái

           Kỳ quái tất tự hoại”.

     Nghĩa là thấy quái đến mà mình không quái thì quái tự tiêu. Đến đây chúng ta nhớ lại chuyện Phật trị ma dưới cội Bồ-đề trước giờ thành đạo. Ngài chẳng dùng ấn chú gì hết. Khi ma hiện trăm thứ kỳ quái, Ngài chỉ giữ tâm an nhiên không động, một hồi lâu ma tự xấu hổ rút lui. Tâm không động là thắng ma, còn sợ hãi thì ma thắng mình. Trong khi ngồi thiền nếu trường hợp ma hiện đến, mở mắt thấy sợ thì nhắm mắt lại, nếu còn thấy sợ nữa thì nên quán tưởng thân này do tứ đại hợp thành, mà thể tánh của tứ đại là không, sáu trần đều huyễn hóa thì sợ cái gì? Tưởng một hồi thì tự nhiên nó mất, chẳng cần bùa chú gì cả. Sở dĩ có một số người ngồi thiền phát điên cuồng là do thấy những tướng lạ đâm hoảng hốt, sợ hãi. Giả sử đang ngồi thiền an tịnh, bỗng có ai thình lình đi tới, lúc đó nghe tim đập thình thịch muốn xuất mồ hôi hột. Vì lúc ngồi yên những tiếng động bên ngoài có tác động gấp mười lần khi chúng ta đang động. Thế nên khi ngồi yên mà phát sợ thì nó tác động tinh thần, nếu động quá độ sẽ loán lên mà phát cuồng. Quí vị nên nhớ kỹ điều này, để tránh tai hại trong khi tu thiền. Một trường hợp nữa cũng có thể điên được, như khi đang ngồi thiền bỗng thấy Phật đến xoa đầu thọ ký rằng: “Ông sẽ thành Phật một ngày gần đây”. Bấy giờ mừng quá la lên, cũng thành cuồng loạn. Tâm động thấy Phật thấy ma gì cũng là bịnh. Nên trong nhà thiền thường nói: “Phùng ma sát ma, phùng Phật sát Phật” là ý này. Thấy ma thấy Phật gì cũng đều tưởng đó là bóng dáng không thật, tưởng như vậy thì hình ảnh ấy sẽ biến mất, không nên phát tâm mừng rỡ hay kinh sợ, mà chỉ giữ tâm an tịnh. Đa số người ngồi thiền thường ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa say, lúc ấy vọng tưởng dấy lên thành những giấc chiêm bao với những hình ảnh tạp nhạp, rồi cho là ngồi thiền thấy này, thấy nọ…đó là trạng thái sắp ngủ gục. Nếu lúc ấy sực tỉnh, mở mắt sáng lên thì những hình ảnh ấy sẽ mất, nếu là ma thật thì mở mắt vẫn còn thấy. Vì thế điểm cốt yếu là chúng ta phải nhiếp phục ma trong, thì ma ngoài không nhiễu hại được. Nếu ma trong không dẹp, thì dù có bùa chú gì vẫn bị ma dẫn đi như thường. Chi bằng ta dẹp sạch ma trong, tâm an định thì dù ma có đến cũng mặc nó, ta vẫn là ta, ấy là hay nhất. Chinh phục ngoại cảnh đâu bằng chinh phục nội ma, chinh phục mình mới là điều gay go nhất. Ngồi thiền là để tự chinh phục ma, lũ ma vọng tưởng đã dẫn dụ chiếm đoạt cái ngôi vị làm chủ của mình từ bao nhiêu kiếp.

 

     “Dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”. Nhiếp phục được ma quân rồi, mới có thể đem công đức tu hành mà đền đáp bốn ân, cứu giúp chúng sanh trong ba cõi. Nếu việc mình chưa xong mà lo đền ơn đáp nghĩa…thì chưa chắc đã đền đáp được gì, đôi khi còn chướng ngại đường tu nữa. Tóm lại, Tổ nhắc nhở người xuất gia trước phải lập chí giải thoát, tâm chớ giống người thế tục, kế làm sáng tỏ chánh pháp và nhiếp phục ma quân. Người như thế mới khả dĩ trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi.

 

Chánh Văn:

“Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí”.

 

Dịch:

     Nếu chẳng như thế, xen lẫn trong chúng tăng, ngôn hạnh hoang sơ, luống hao của tín thí.

 

 

 

Giảng:

     Nếu chẳng làm được những điều kể trên  thì chỉ là kẻ lẫn lộn, làm ô danh chúng tăng, chứ chẳng phải là người chân chánh xuất gia. Chữ “lạm xí” có nơi giải thích là “điểu thử Tăng” tức ông thầy chim chuột. Nghĩa là dụ như con dơi gặp chim thì nó xòe cánh ra, bảo: tôi đây là chim, gặp chuột thì hắn xếp cánh lại nói: tôi đây là chuột. Ông thầy chim chuột là ông thầy cạo đầu mặc áo nhuộm trông giống người tu mà tâm chí thì lạng quạng gặp chim làm theo chim, gặp chuột làm theo chuột. Sống như thế đó gọi là “lạm xí tăng luân”. Phần đông tu sĩ bây giờ là thế ấy, thường là “điểu thử tăng” hay có chỗ gọi là “phóc cư sĩ” tức là ông cư sĩ trọc đầu. Tuy đầu trọc mà tâm niệm thì thế tục, làm tăng mà không có tâm hạnh của người xuất gia, lời nói việc làm không phù hợp chánh pháp, nên gọi là cư sĩ trọc đầu. Người như thế chỉ luống ăn tiêu của tín thí mà chẳng lợi ích gì cho đạo. Hãy tự kiểm vậy!

 

Chánh Văn:

“Tích niên hành xứ, thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị”

 

Dịch:

     “Chỗ đi năm trước, tấc bước không rời, lơ láo một đời, lấy chi nương tựa”.

 

Giảng:

     Chúng ta thấy có người xuất gia được 20 năm, 30 năm rồi, thế nhưng năm thứ nhứt thì Phật tại tiền, năm thứ hai Phật thăng thiên, đến năm thứ ba, thứ tư…cho đến năm 30 thì chẳng còn thấy Phật. Thế là càng tu càng lùi. Tôi thường nói rằng người tu giống như kẻ chèo thuyền ngược nước, ngược gió. Trong trường hợp đó phải thế nào? Nếu quí vị có cảm thấy quá mệt mỏi thì nên cắm sào bỏ neo đậu lại, đợi nghỉ ngơi cho khỏe rồi tiếp tục chèo, chớ chẳng nên buông chèo mặc nó trôi giạt đến đâu cũng được. Như vậy đâu có ý nghĩa chèo thuyền ngược dòng nữa. Chúng ta là kẻ đi ngược dòng đời, thế gian mê ta tỉnh, thế gian đắm chìm trong ái dục, chúng ta là người giải thoát khỏi dòng ái dục. Vì thế, chúng ta phải luôn cần mẫn, vững tay chèo mới có cơ tiến nổi, bằng chúng ta lơ là ắt dòng đời như thác lũ kia sẽ kéo phăng chúng ta trở lại dòng sanh tử. Chúng ta phải tự xét lại coi, từ khi xuất gia đến giờ trải qua 5,10 năm rồi đã tiến được bao nhiêu hay vẫn còn nguyên chỗ cũ? Có người thậm chí còn lùi nữa, thì than ôi, đời tu nào có ra gì! Thật đáng hổ thẹn! Thật là : “Lơ láo một đời, lấy chi nương tựa?” Tổ cho một roi đau điếng như vậy để chúng ta hổ thẹn, nhớ lại bổn phận của mình mà cố gắng.

 

Chánh Văn:

“Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan. Giai thị túc thực thiện căn, cảm tư dị báo. Tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu. Khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lai nghiệp vô tì.”

 

Dịch:

     Huống nãi đường đường tăng tướng, (sáu căn đầy đủ) dung mạo dễ xem. Sở dĩ được như thế là do đời trước đã gieo trồng căn lành nên đời này mới cảm quả báo thế ấy. Lại chỉ biết ngồi sửng khoanh tay, chẳng tiếc thì giờ. Đạo nghiệp không nổ lực chuyên cần thì công quả do đâu thành tựu? Chẳng những đời nay luống qua, đời sau cũng sẽ vô ích.

 

Giảng:

     “Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo”.

 

     Chúng ta ngày nay được mang thân người, sáu căn đầy đủ, lại được xuất gia hình tướng như Phật. Đó là do đời quá khứ đã gieo trồng căn lành, đời nay mới cảm được quả báo tốt như vậy. Nhìn quả hiện tại biết nhân quá khứ. Cũng vậy, nhìn nhân hiện tại, biết quả vị lai. Thế nên đời nay đã được duyên lành thì phải làm sao nữa, chứ chẳng lẽ:

 

     “Tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ bất quý thốn âm, sự nghiệp bất cần công quả vô nhân khắc tựu”. Chỉ biết ngồi sửng khoanh tay ngu ngơ qua ngày tháng, thì chẳng những đời này không lợi ích mà đời sau cũng không chỗ tựa nương. Ngài Hiếp tôn giả suốt đời lưng không dính chiếu, Tổ Bá Trượng: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. (Một ngày không làm, một ngày không ăn). Chúng ta ngày nay vào chùa thọ lãnh của thí chủ thì nhiều mà không siêng tu phước huệ, không biết tiếc thời giờ, một mai cởi áo cà sa, lui mất thân người, thì thật là đáng tiếc!

 

     “Khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lai nghiệp vô tì”. Đời này không có công đức gì làm sao đời sau được tốt đẹp, Tổ Qui Sơn có tâm lão bà tha thiết, Ngài quở rầy xong lại quở rầy. Thật là đắng miệng khô môi, chỉ vì muốn cho con cháu đời sau được nên người xứng đáng.

 

Chánh Văn:

“Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở. Hiểu tịch tư thổn, khởi khả thiên diên quá thời”.

 

Dịch:

     Từ giả thân quyến, quyết chí mặc áo nhuộm là ý muốn vượt đến chỗ nào? Sớm tối lo nghĩ, đâu thể dần dà để thời giờ qua mất.

 

Giảng:

     Đây Tổ nhắc lại bổn phận của người xuất gia, nhắc lại ước nguyện ban đầu của mình khi từ bỏ cha mẹ, anh em vào chùa mặc áo nhuộm để chi? Chúng ta xuất gia là vì lý tưởng cao siêu giải thoát, chớ đâu có ai nghĩ vào chùa để tìm chỗ an thân! Thế nhưng, dần dà chúng ta quên mất bổn phận của mình. Vì vậy, ở đây Ngài nhắc chúng ta phải sớm tối suy nghĩ, phải thường tự hỏi: “Tại sao mình đi tu?” Thường nghĩ nhớ lại tâm nguyện xuất gia ban đầu để nổ lực vươn lên, chứ không nên bỏ lửng, ăn rồi giỡn cười để ngày giờ qua mất.

 

Chánh Văn:

“Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh. Thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng!”

 

Dịch:

     Lòng tự hẹn làm rường cột cho Phật pháp, gương mẫu cho đời sau. Thường xét nghĩ như thế mà còn chưa được chút phần tương ưng.

 

Giảng:

     Tổ nhắc chúng ta nên xét lại ý nguyện xuất gia của mình. Khi xuất gia là trong lòng đã kỳ hẹn làm rường cột cho Phật pháp, gương mẫu cho đời sau, chứ không phải để ăn tiêu của tín thí, không phải để làm con mọt đục chùa. Hằng xét nét như thế  mà còn chưa phù hợp được một phần nhỏ của sự xuất gia thay, huống là tu bao nhiêu năm mà không biết mình phải làm cái gì, thì thật là tệ! Mà muốn thực hiện được ý nguyện đó thì phải:

 

Chánh Văn:

“Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bạng ư kê cổ, hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn”.

 

Dịch:

     Nói ra phải hợp với kinh điển, luận bàn phải noi theo gương mẫu người xưa, hình dung đĩnh đạc, ý chí cao nhàn.

 

Giảng:

     Nếu thực tình chúng ta muốn làm rường cột cho Phật pháp, làm mẫu mực cho người sau, thì nói ra lời gì cũng phải phù hợp với kinh điển, với lời Phật ý Tổ. Phải nói đúng đắn chân thật, chẳng nên nói bướng, nói đùa hay đặt điều nói bậy. Về thân tướng thì phải trang nghiêm, đi đứng chỉnh tề; ý chí phải thênh thang siêu thoát, chẳng nên có những ý tưởng thấp thỏi, tầm thường. Tổ chỉ dạy thật tường tận từ ngôn ngữ, hình nghi cho đến ý chí…Chúng ta phải cố gắng như lời Tổ dạy mới xứng đáng là Sa Môn Thích tử, là người chơn chánh xuất gia.

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM