Chánh Văn:
“Huyễn thân mộng trạch
Không trung vật sắc
Tiền tế vô cùng
Hậu tế ninh khắc?”
Dịch:
Thân huyễn nhà mộng
Vật sắc trong không
Mé trước không cùng
Mé sau đâu biết?
Giảng:
Tổ nhắc chúng ta nên thấy thân này là
huyễn hóa, cõi này như cõi mộng. Tất cả hình ảnh sự vật trước mắt ta chẳng
khác nào hoa đốm giữa hư không. Tất cả đều là huyễn hóa do nhân duyên
sanh, mà nhân duyên thì trùng trùng điệp điệp nên mé trước không cùng, mé
sau không thể tính hết.
Chánh Văn:
“Xuất thử một bỉ
Thăng trầm bì cực
Vị miễn tam luân
Hà thời hưu tức?”.
Dịch:
Thoát đây chìm kia
Lên xuống cực nhọc
Chưa khỏi ba đường
Bao giờ thôi dứt?
Giảng:
Khi chúng ta chưa giác ngộ giải thoát
được thì ra đây vào kia lẩn quẩn trong sáu nẽo. Lang thang trong vòng luân
hồi hết lên lại xuống, từ vô thỉ đến giờ không biết đã bao lần. Nếu chưa
thoát khỏi ba cõi thì biết đến bao giờ sự lên xuống nhọc nhằn kia mới thôi
dứt.
Chánh Văn:
“Tham luyến thế gian
Ấm duyên thành chất
Tùng sanh chí lão
Nhất vô sở đắc”.
Dịch:
Tham luyến cõi đời
Ấm duyên thành chất
Từ sanh đến già
Trọn không gì được.
Giảng:
Chúng ta vì tham luyến thế gian nay nên
mới có thân, tức hợp năm uẩn lại thành sắc chất. Như vậy có thân đây cũng
do gốc từ luyến ái mà ra. Nhưng từ lúc sanh ra cho đến già nhắm mắt nào có
được gì đâu. Đến tay không thì đi cũng tay không, chỉ có mang theo nghiệp
mà thôi. Còn nghiệp thì sanh tử lại trùng trùng tiếp nối.
Chánh Văn:
“Căn bản vô minh
Nhân tư bị hoặc
Quang âm khả tích
Sát na bất trắc”.
Dịch:
Căn bản vô minh
Nhân đây mê hoặc
Thời giờ đáng tiếc
Khoảnh khắc khó lường.
Giảng:
Cội gốc vô minh, do đây bị mê lầm. Mê lầm
chồng chất mê lầm không biết bao giờ dứt được. Thế nên, chúng ta phải tiếc
từ tấc bóng. Mạng sống con người trong khoảng sát na không thể lường được.
Chúng ta đang sống đây nhưng có duyên nào đó đưa đến liền ngã ra chết. Thế
là đã qua đời khác rồi. Nên nếu:
Chánh Văn:
“Kim sanh không quá
Lai thế trất tắc
Tùng mê chí mê
Giai nhân lục tặc”.
Dịch:
Đời nay luống qua
Đời sau ngăn lấp
Từ mê đến mê
Đều do sáu giặc.
Giảng:
Nếu đời này luống qua thì đời sau bít
lấp. Từ mê đến mê cũng đều do sáu tên giặc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
mà chúng ta không thoát khỏi sáu trần.
Chánh Văn:
“Lục đạo vãng hoàn
Tam giới bồ bặc
Tảo phỏng minh sư
Thân cận cao đức”.
Dịch:
Qua lại sáu đường
Lăn lóc ba cõi
Sớm tìm minh sư
Thân gần cao đức.
Giảng:
Cứ mãi qua lại trong sáu đường, lăn lóc
trong ba cõi không dứt, vì vậy nên phải hỏi các bậc minh sư và gần gũi các
vị cao đức.
Chánh Văn:
“Quyết trạch thân tâm
Khử kỳ kinh cức
Thế tự phù hư
Chúng duyên khởi bức?”
Dịch:
Gạn lọc thân tâm
Bỏ điều gai góc
Đời tự giả hư
Duyên nào ép ngặt?
Giảng:
Chúng ta thường phải gạn lọc thân tâm, bỏ
đi những thứ gai góc, tức vọng tưởng, để cho cây Bồ Đề được tăng trưởng.
Cuộc đời tự nó là hư giả, do các duyên tụ hội. Thấy rõ như vậy thì nó làm
gì bức bách được mình.
Chánh Văn:
“Nghiên cùng pháp lý
Dĩ ngộ vi tắc
Tâm cảnh câu quyên
Mạc ký mạc ức”.
Dịch:
Xét tột pháp lý
Chứng ngộ mới thôi
Tâm cảnh đều quên
Chẳng ghi chẳng nhớ.
Giảng:
Chúng ta phải nghiên cứu đạo lý cho cùng
tột để đi đến chỗ giải thoát mới thôi. Tâm cảnh đều dẹp hết, chớ ghi chớ
nhớ.
Chánh Văn:
“Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Nhứt tâm bất sanh
Vạn pháp câu tức”.
Dịch:
Sáu căn an nhiên
Đứng đi lặng lẽ
Một tâm chẳng sanh
Muôn pháp đều dứt.
Giảng:
Nếu sáu căn an nhiên, không chạy theo
sáu trần thì đi đứng nằm ngồi đều lặng lẽ. Khi một tâm không dấy khởi thì
muôn pháp đều dứt đoạn.
Tổ dùng bài minh này để cô đọng lại
toàn văn Cảnh Sách trên. Ngài nhắc nhở tới lui chỉ vì muốn chúng ta trở
thành người xuất gia xứng đáng, để không phụ ơn cha mẹ, Thầy Tổ, đàn na
thí chủ…và nhất là để làm lợi ích cho Phật pháp chúng sanh sau này vậy.
|