SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM
TRẦN NHÂN TÔNG
(1258 – 1308)
Ngài tên húy
là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu,
sanh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở vị sang
cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm
Hoàng thái tử. Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà vua cha không chịu. Vua
cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ Thái hậu
sau này. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.
Một hôm vào
lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp
ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào
nằm nghỉ trong tháp. Vị sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường,
liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất
đắc dĩ phải trở về.
Năm hai mươi
mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài
vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước
trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một
hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người
đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến
Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen
là việc kỳ đặc.
Ngài thường ăn
chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên
do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ
trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự
nghiệp của tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.
Con người Ngài
rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh)
và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn
giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc
đến chỗ thiền tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.
Những khi giặc
Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ
tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân
Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị
nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than,
hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết
tâm chống giặc.
Năm Quí Tỵ
(1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng
hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp
đặt việc xuất gia.
Đến tháng mười
năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên
cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà.
Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng tăng. Học
chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên
Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố
Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó.
Đến năm Giáp
Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ
thần không chánh đáng), và dạy họ tu hành thập thiện. Vào mùa đông năm ấy,
vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại
gia.
Sau đó, Ngài
chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.
Ngày mùng một
tháng giêng năm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại
Báo Ân Thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh
Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính
Ngài giảng Truyền Đăng Lục, bảo Quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp
Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ
và những kẻ nô dịch trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại
mười vị thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng
Truyền Đăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là
Pháp Loa còn ở thôi.
Từ đây, Ngài
leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy
thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có
bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết
đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”
Ngày mùng năm
tháng mười năm ấy, người nhà của công chúa Thiên Đoan lên núi bạch Ngài:
“Công chúa Thiên Đoan bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi
ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho
theo một người thị giả. Ngài mùng mười Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày
rằm Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng
đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng:
ÂM:
Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma
cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân.
DỊCH:
Số
đời một hơi thở
Lòng người hai biển vàng
Cung ma dồn quá lắm
Cõi Phật vui nào hơn.
Đến ngày mười
bảy, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ Hoàng thái
hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Đây là bữa
cúng dường rốt sau.” Ngày mười tám, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn
An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta
muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị
Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Đến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai
vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.”
Ngày mười
chín, Ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát
đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy
một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền,
nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai
con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc
lát lại lặn xuống. Đêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy
điềm chẳng lành.
Ngày hai mươi
mốt, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi
đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa
rõ hãy nói mau.”
Bảo Sát hỏi:
- Như khi Mã
Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo:
“Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao?
Ngài lớn tiếng
đáp:
- Ngũ đế tam
hoàng là vật gì?
Bảo Sát lại
hỏi:
- Chỉ như “Hoa
sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao?
Ngài đáp:
- Làm mù măét
ngươi.
Bảo Sát bèn
thôi.
Suốt mấy hôm
trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm.
Đến ngày mùng
một tháng mười một, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện
giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn
xem, nói: “Đến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói
kệ đáp:
ÂM:
Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà
khứ lai chi liễu dã.
DỊCH:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nào có đến đi ấy vậy.
Bảo Sát hỏi:
- Chỉ như khi
chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
Ngài liền nhằm
miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
- Chớ nói mớ.
Nói xong, Ngài
bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu
(1308), thọ năm mươi mốt tuổi.
Pháp Loa theo
lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào
bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ
nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ
Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu-đà
Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.
Ngài còn lưu
lại những tác phẩm:
1. Thiền Lâm
Thiết Chủy Ngữ Lục
2. Đại Hương
Hải Ấn Thi Tập
3. Tăng-già
Toái Sự
4. Thạch Thất
Mị Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
GIẢNG:
Hôm nay chúng
ta học về Sơ Tổ phái Trúc Lâm, tức là Điều Ngự Giác Hoàng hay vua Trần
Nhân Tông. Ngài là một ông vua đi tu, trong sử ghi hiệu Ngài là Trúc Lâm
Đại Đầu-đà hay Hương Vân Đại Đầu-đà. Là những Phật tử xuất gia hay tại
gia, chúng ta cần phải nắm vững hành trạng của chư Tổ Việt Nam để thấy rõ
những điều hay mà chư Tổ đã tu, đã lãnh hội được và truyền mãi đến con
cháu sau này.
Đọc lịch sử
đức Phật, chúng ta có thể hãnh diện vì Ngài là một Thái tử chuẩn bị lên
ngôi, lại bỏ ngai vàng đi tu, điều này rất ít thấy ở những tôn giáo khác.
Đấng Giáo chủ của chúng ta là người sắp hưởng địa vị cao tột ở thế gian mà
Ngài không màng đến, ra đi tìm đạo để giác ngộ cho chúng sanh, thật là cao
thượng quí báu thay! Suốt đời hoằng hóa độ sanh, Ngài làm rực rỡ cho tôn
giáo của mình và Phật giáo được truyền bá khắp năm châu là một điểm son
trên thế gian này.
Chúng ta còn
hãnh diện hơn nữa là ở Việt Nam, không phải một Thái tử, mà một ông vua đi
tu. Đang làm vua đủ uy quyền, đủ nghị lực để gìn giữ giang sơn, nhưng ngài
Trần Nhân Tông không muốn hưởng, lại đem tất cả sự nghiệp giao cho con để
đi tu. Tư cách xuất gia của Ngài là một điểm sáng chói khiến chúng ta càng
hãnh diện.
Đức Phật là
một Thái tử đi tu, ông Tổ của mình là một ông vua đi tu, còn chúng ta là
gì? Là bần cố nông đi tu! Nhớ lại Phật, nhớ lại Tổ, chúng ta có cảm thấy
xấu hổ hay không? Các Ngài bỏ hết địa vị quyền lợi và hạnh phúc của thế
gian, chịu cực, chịu khổ tìm đạo, học đạo và ngộ đạo rồi các Ngài giảng
dạy cho chúng sanh. So lại chúng ta ngày nay chưa phải là người giàu có,
vẫn làm lụng vất vả mới có cơm ăn, có đi tu thì chúng ta hy sinh những gì?
Có chăng là hy sinh cái nghèo, để được làm thầy tu. Hy sinh cái nghèo đâu
phải việc khó. Có người đem bán cái nghèo, không ai chịu mua kia mà, thế
thì đâu có gì gọi là hy sinh! Như vậy chúng ta bỏ cái nghèo để đi tu là
việc làm dễ trăm phần, nếu không làm được thì thật quá dở. So với đức Phật
và Sơ Tổ Trúc Lâm, các ngài ở trong hoàn cảnh khó khăn đủ mọi bề. Là một
Thái tử đi tu, vua cha buồn rầu không biết giao sự nghiệp cho ai, vợ con
khóc than không ai lo lắng, quần thần và nhân dân đều trông cậy, thế mà
Ngài bỏ đi một cách dễ dàng. Đến như Sơ Tổ Trúc Lâm, Ngài là vua đang cai
trị muôn dân, quần thần và toàn dân tín nhiệm mà Ngài cũng bỏ ngai vàng đi
tu. Những việc rất khó làm mà các Ngài đã làm đượïc, thì chúng ta ngày nay
là những kẻ hậu sanh hậu học làm một chuyện hết sức dễ và đơn giản mà
chúng ta không nỗ lực gắng làm cho thành công hay sao? Thế nên đọc qua
lịch sử của người xưa, chúng ta phải làm sao cố gắng hơn, không thể lơ là
lôi thôi như thế này mãi.
Song nếu đọc
sử của vị Tổ thứ sáu ở Trung Hoa, chúng ta sẽ được an ủi phần nào. Lục Tổ
Huệ Năng là một tiều phu đi tu, Ngài cũng ngộ đạo. Đừng nghĩ Thái tử và
vua đi tu mới ngộ đạo, còn dân nghèo chúng ta đi tu thì vô phần. Nghĩ như
vậy là lầm, vì ông tiều phu cũng ngộ đạo kia mà, thế thì chúng ta cũng có
phần.
Như vậy về mặt
lịch sử, chúng ta hãnh diện thấy Phật Tổ đã hy sinh đời mình đi tu, về mặt
đạo đức cũng có những người dốt nát đi tu và ngộ đạo, thì chúng ta không
có gì mặc cảm e rằng mình tu không có lợi. Trái lại chúng ta tin chắc rằng
nếu chúng ta quyết chí gắng tu thì sẽ có kết quả tốt đẹp không nghi.
*
Ngài tên húy
là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu,
sanh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở vị sang
cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm
Hoàng thái tử, Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà vua cha không chịu.
Khi được lập
làm Hoàng thái tử, Ngài cố từ để nhường lại cho em, điều này rất hiếm có
trong lịch sử Việt Nam, Trung Hoa hay Nhật Bản. Có khi anh em vì tranh
giành ngôi vua mà giết hại lẫn nhau. Vì các vua ngày xưa có rất nhiều con,
nên ai được lập làm Hoàng thái tử thì thấy rõ mình sẽ làm vua, còn các
người con khác thì không được.
Vua cưới
trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ Thái hậu sau
này. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.
Tuy được lập
làm Thái tử và có gia đình, nhưng lúc nào Ngài cũng canh cánh trong lòng
mong được đi tu.
Một hôm vào
lúc nửa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở
núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm
nghỉ trong tháp. Vị sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền
làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc
dĩ phải trở về.
Vì quyết tâm
đi tu, cho nên giữa đêm Ngài trèo thành ra đi, cũng giống như đức Phật
ngày xưa vượt thành xuất gia. Ngài định lên núi Yên Tử, nhưng đường xa quá
đi chưa đến nơi. Tới chùa Tháp ở núi Đông Cứu, trời vừa sáng, nên Ngài vào
tháp nằm nghỉ. Thầy trụ trì thấy Ngài tướng mạo phi thường mới làm cơm
thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy Ngài ở đó, bất đắc dĩ
Ngài phải trở về.
Nói đến đây
chúng tôi muốn nhắc lại với quí vị, có một số người nghiên cứu tập Thơ văn
của Ngô Thời Nhậm, thấy ý của ông nói về ngài Điều Ngự Giác Hoàng như sau:
Ngài sở dĩ lên núi Yên Tử tu là để dọ dẫm tin tức của quân Trung Quốc ở
miền Bắc, nếu nghe có động tịnh gì thì báo về triều đình để ngừa đón giặc.
Như vậy cái nhìn và câu nói đó đánh giá rất sai lầm về ngài Điều Ngự Giác
Hoàng. Vì núi Yên Tử giáp ranh với Trung Quốc nên nói Ngài lên đó để lắng
nghe tin tức, nếu nói như vậy là Ngài thành mật thám đem tin chớ không
phải là tu! Đó là cái nhìn rất lệch lạc. Thì đây, ngay lúc còn làm Thái
tử, Ngài đã trốn đi, cũng quyết lên núi Yên Tử. Tại sao? Vì Yên Tử là nơi
có các Thiền sư tu ngộ đạo. Khi trước ông nội Ngài là Trần Thái Tông đi tu
cũng lên núi này. Như vậy các ngài lên núi Yên Tử để tu, chớ không phải để
lắng nghe tin tức bên Trung Quốc. Người sau không hiểu, lấy ý của ông Ngô
Thời Nhậm rồi kết luận sai lầm việc đi tu của Ngài. Đó là lời xuyên tạc
của người sau, chúng ta chớ hiểu lầm các Tổ mà mang tội.
Năm hai mươi
mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài
vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước
trong đại nội tu tập.
Tuy làm vua,
Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để
tu tập. Trong cung đình ngày xưa thường có chia ra đại nội và ngoại thành.
Đại nội tức khu vực nội thành, là khuôn viên nơi vua chúa và các quan đại
thần ở, ngoại thành là nơi ở của các quan nhỏ. Trong đại nội luôn luôn có
lập một ngôi chùa để các ông hoàng bà phi đi chùa lễ Phật. Hiện nay khi
chúng ta ra Huế sẽ thấy vòng thành của đại nội, hay khi đi viếng Trung
Quốc chúng ta sẽ thấy rõ khu vực gọi là nội thành của triều Thanh, trong
đó có các cung điện và một ngôi chùa.
Một hôm nghỉ
trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên
hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông
Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu
lên vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.
Đây là một
hiện tượng kỳ đặc, vì khi sanh ra, thân Ngài cũng màu vàng, trên vai phải
có nốt ruồi, cho nên người đoán tướng nói Ngài là một vị ra đời để gánh
vác việc lớn của đời cũng như của đạo. Giờ đây Ngài lại mộng thấy đức Phật
vàng, biết đâu không phải là sự tái sanh của các vị Bồ-tát? Do đó sự tu
hành của Ngài rất đơn giản mà thành tựu.
Ngài thường ăn
chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên
do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ
trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự
nghiệp của tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.
Đâu có ai ở
địa vị vua mà lại ăn chay, ăn chay cho tới thân thể gầy ốm! Thường người
khá giả giàu có ăn uống đầy đủ món ngon nên béo phì ra. Còn Ngài ở địa vị
một ông vua mà không nghĩ tới sự sung sướng hưởng thụ. Ngài chỉ muốn tu
thôi, mới ăn chay lạt cho đến gầy ốm. Vua cha thấy Ngài là người đủ đức
hạnh, cho nên lúc nào cũng trông cậy nơi Ngài. Song Ngài muốn được tu, nên
vua cha mới khóc. Là người con có hiếu, nghe cha than trách, Ngài cũng rơi
nước mắt.
Con người Ngài
rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh)
và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn
giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc
đến chỗ thiền tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.
Đoạn này là
phải ở phần trước. Khi còn làm Thái tử, Ngài đã tham học thiền với Thượng
Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy và kính lễ Thượng Sĩ làm thầy.
Đến khi làm vua Ngài họp các Thiền sư để bàn đạo lý.
Thiền tủy
nghĩa là gì? Đây là từ ngữ của Tổ Bồ-đề-đạt-ma, lúc Tổ bảo các đồ đệ trình
kiến giải trước khi Tổ tịch. Mỗi người trình chỗ thấy hiểu của mình, nhưng
tới ngài Huệ Khả, Ngài đảnh lễ Tổ rồi đứng khoanh tay im lặng. Tổ bảo:
“Ngươi được phần tủy của ta.” Được tủy của ta là chỉ cho người thâm ngộ
đến chỗ tột cùng. Đối với Thượng Sĩ Tuệ Trung, Ngài đã thâm ngộ lý thiền
cùng tột nên nói là “thâm đắc đến chỗ thiền tủy”.
Những khi giặc
Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ
tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân
Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị
nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than,
hội nghị các bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm
chống giặc.
Đến đoạn này
chúng tôi muốn giải thích rõ để Tăng Ni không có nghi ngờ.
Là một ông vua
cầm quân đánh giặc chống với quân Nguyên, trong hai trận chiến (1285,
1288) quân binh hai bên chết rất nhiều có đến mấy muôn người, vậy ông vua
có mang tội sát sanh không? Thế thường ai cũng nghĩ mình đánh giặc giết
người thì mang tội sát sanh chớ gì? Đã mang tội sát sanh, tại sao Ngài đi
tu lại mau ngộ đạo như vậy? Đó là vấn đề nếu không giải thích e rằng sẽ có
sự nghi hoặc. Vì thế chúng tôi phải dẫn rõ đoạn sử này.
Quân nhà
Nguyên sang xâm lấn nước Việt Nam mà chúng ta có thể chống nổi là một việc
rất phi thường, vì quân Nguyên thời đó là một đội quân hùng mạnh nhất thế
giới, không một nước nào chống cự nổi. Đi từ miền đất Mông Cổ qua các nước
phương Tây, đến Ba Tư, đến gần nước Lỗ nước Ý, coi như lấn qua Âu Châu,
quân Nguyên đi tới đâu thắng tới đó, nên gọi là đội quân bách chiến bách
thắng (trăm trận trăm thắng). Họ đánh giặc rất giỏi, nhất là đường bộ, có
quân kỵ cỡi ngựa bắn tên rất tài, là thiện chiến nhất. Sau khi lấn qua các
nước Tây phương, họ trở lại lấn qua phía đông, chiếm trọn Trung Quốc, lên
làm vua lập thành nhà Nguyên. Như vậy đội quân của họ coi như chiếm giữ
hơn phân nửa thế giới, là bao nhiêu người? Còn nước Việt Nam chúng ta lúc
đó chỉ có một vùng từ miền cao nguyên ở Quảng Ninh đi lần vô tới Thanh Hóa
thôi, chưa tới miền Trung, chưa có miền Nam, chỉ có một phần ba đất nước
bây giờ, vậy số dân độ chừng bao nhiêu? Nếu nói về khu vực đất đai, nước
Việt Nam khi đó chỉ bằng một tỉnh Trung Quốc, còn số dân cũng chưa chắc
bằng một tỉnh Trung Quốc. Một đội quân đã chiếm Trung Quốc và chiếm luôn
mấy nước Tây phương, rồi họ lại kéo quân về đánh Việt Nam, thử nghĩ chúng
ta có thể chống nổi hay không? Người xưa có nói: Việt Nam chúng ta chống
quân Nguyên giống như cầm trứng chọi đá, trứng bể hay đá bể? Thế mà đá bể!
Chẳng phải chuyện phi thường là gì?
Quân Nguyên
thua trận thứ nhất đời vua Trần Thái Tông. Đến năm 1285, họ chuẩn bị trận
thứ hai hùng mạnh gấp đôi. Khi ấy ngài Trần Nhân Tông mới lên ngôi vua
được sáu năm, ngài Trần Thánh Tông làm Thái thượng hoàng. Đây là trận
chiến nguy hiểm vì sức họ mạnh vô cùng, thế mà chúng ta thắng được trận
này. Kế ba năm sau (1288), đến trận thứ ba, họ dồn hết lực lượng để đánh,
cũng lại thua luôn. Thế là chúng ta thắng luôn ba trận chiến. Quân Nguyên
khi sang đánh nước ta họ đi đường thủy thì ít, đi đường bộ nhiều và đường
bộ là sở trường của họ. Khi ấy Việt Nam chúng ta nước nhỏ người ít, họ kéo
quân qua đánh thì coi như chúng ta thua trăm phần trăm. Nhưng các vua quan
nhà Trần khéo điều binh khiển tướng thế nào mà thắng được luôn ba trận như
vậy, là điều mà rất nhiều người quan tâm.
Như trong bài
có dẫn, trong hai cuộc chiến đời vua Trần Nhân Tông, Ngài có họp hai buổi
đại hội nổi tiếng thời đó và mãi đến bây giờ, một kỳ hội nghị tại Bình
Than, một kỳ hội nghị tại Diên Hồng. Tại hội nghị Bình Than, Ngài hội các
tướng lãnh binh sĩ để hỏi ý kiến xem thế giặc mạnh như vậy, chúng ta nên
đầu hàng hay chống lại họ. Tất cả tướng lãnh đều quyết định chống lại. Đó
là tư cách lãnh đạo của một ông vua, nếu các tướng lãnh bằng lòng chống
giặc thì nhà vua phải thuận theo. Đến kỳ hội nghị thứ hai tại điện Diên
Hồng, vua Trần Nhân Tông họp toàn dân nhất là các bô lão có kinh nghiệm để
hỏi ý kiến: Hiện giờ thế giặc rất mạnh, chúng ta người ít, quân ít, nước
nhỏ không thể chống nổi, nhưng tất cả các vị muốn chống hay muốn hòa, hòa
tức là đầu hàng. Tất cả đều nhất định chiến đấu chống giặc chớ không hòa,
không đầu hàng. Như vậy hai cuộc chiến đó là do ý kiến của tướng lãnh và
toàn dân, chớ không phải do lòng ác của vua muốn chống lại người để hại
dân mình chết. Ngài thuận theo ý kiến chung chớ không phải ý riêng của
Ngài. Ngài chỉ là người bị bắt buộc làm mà thôi. Hiểu rõ như vậy chúng ta
mới thấy trong cuộc chiến tuy số người bị chết rất nhiều, nhưng đó là cuộc
chiến của toàn dân, chớ không phải do nhà vua ra lệnh. Làm cái gì có tội,
nhưng không phải do ý ác của mình, thì tội đó sám hối được. Còn làm cái gì
do ý ác của mình thì không sám hối được. Có cuộc chiến để bảo vệ giang
sơn, đó là bổn phận của người làm vua, của người lãnh đạo đất nước. Có
cuộc chiến không phải vì mình muốn, mà vì ý kiến chung của toàn dân.
Ở đây chúng ta
thấy có điểm rất kỳ đặc mà trong thời quân chủ chưa từng có, từ Trung Quốc
đến Việt Nam chưa tìm ra một ông vua hỏi ý kiến dân bao giờ! Chỉ có vua
Trần Nhân Tông đem những hiểm nguy trình bày cho toàn dân biết, rồi hỏi ý
kiến dân muốn thế nào thì Ngài làm thế ấy, rất là dân chủ, rất là vì dân.
Tinh thần dân chủ đối với thời đó là chuyện không bao giờ có, thế mà có.
Rồi chính vì bổn phận, vì người bảo mình làm, chớ không phải vì mình muốn,
cho nên tội giết hại không phải là nặng đối với Ngài. Do đó khi đi tu Ngài
sám hối là hết. Hiểu như vậy, nếu có ai hỏi tại sao đi đánh giặc mà tu đắc
đạo, thì chúng ta phải thấy cho rõ ràng, đừng có hiểu lầm.
Trong việc
quân nhà Nguyên đi xâm lăng, tất cả nước nào đội quân đó tới đều tan nát.
Nhưng trong đời quân Nguyên chỉ thua có hai nước là Việt Nam và Nhật Bản.
Thua Việt Nam là thua thật sự, còn thua Nhật Bản là tại thời cơ không
thuận lợi. Quân Nguyên chuyên về bộ binh, mà trong cuộc chiến với Nhật Bản
họ phải dùng hải quân tức là tàu thuyền, đó là điểm yếu của họ. Khi qua
Nhật Bản, chỉ có một số ít quân đổ bộ được, còn đại quân đi gần tới Nhật
bị một trận bão làm chìm thuyền, quân Nguyên chết gần hết, thành ra bại
trận! Nói theo xưa, đó là thời trời. Còn ở Việt Nam chúng ta là đất liền,
họ lại giỏi về bộ binh nhất là kỵ binh nên kéo quân qua rất dễ, mà laị
thua! Là tại sao? Không phải do thời cơ thuận tiện, mà thật tình là do
tinh thần đoàn kết và tài sức khôn ngoan của người Việt Nam mới thắng được
giặc. Khi đối chiếu chúng ta thấy rõ những điểm kỳ đặc này. Nếu không
hiểu, chúng ta cứ nghĩ đời Trần là đời các vua Thiền sư mà sao đánh giặc
lại giỏi đến thế. Các vua là người tu, nhưng buộc lòng phải chống giặc,
cho nên các ngài chỉ làm với tinh thần toàn dân muốn làm. Toàn dân muốn
làm tức là toàn dân đoàn kết, nên các ngài đứng ra lãnh đạo. Do đoàn kết
nên dù số nhỏ cũng thắng được số lớn. Thí dụ như trong một làng có chừng
năm bảy trăm hộ khoảng mấy ngàn người, chỉ cần năm ba người liều chết cầm
dao cầm súng rượt bắn thì cả làng có chạy không? Dù người đông bao nhiêu
cũng vẫn sợ, vẫn chạy như thường. Thế nên số đông mà thua số ít, vì một là
họ gan dạ liều chết, hai là họ đoàn kết với nhau. Tinh thần ít thắng nhiều
là như vậy.
Năm Quí Tỵ
(1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng
hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp
đặt việc xuất gia.
Đến năm 1293,
vì muốn xuất gia sớm, Ngài truyền ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng.
Như vậy từ năm 1288 dẹp xong giặc Nguyên, đến năm 1293, chỉ trong vòng năm
năm mà giặc giã được yên, đất nước được bình định. Ở ngôi Thái thượng
hoàng chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia, không nghĩ
đến sự thụ hưởng giàu sang uy quyền tột đỉnh. Khi có giặc đến xâm lấn đất
nước, buộc lòng Ngài phải đánh để gìn giữ giang sơn. Khi giặc yên Ngài
nhường ngôi cho con. Chỉ dạy con xong, Ngài đi tu. Đó là ý kiến rất kỳ đặc
của Ngài.
Đến tháng mười
năm Kỷ Hợi (1299), Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên
cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà.
Chữ đầu-đà
nguyên là chữ Phạn, đọc âm là đẩu-tẩu, dịch nghĩa là phủi giũ, nghĩa là
buông sạch hết không để danh lợi làm lem lấm. Cho nên tu hạnh đầu-đà tức
là tu khổ hạnh. Buổi đầu Ngài lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà.
Sau đó Ngài
lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng tăng. Học chúng đua
nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập
giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am
Tri Kiến rồi ở đó.
Ở đây nói Ngài
lên núi Yên Tử để tu mà không thấy nói Ngài xuất gia và thọ giới với vị
nào. Vì ngày xưa ít có ai dám làm thầy ông vua, chức Quốc sư là do vua
phong mà thôi, nên chỉ nói Ngài xuất gia, rồi sau đó đi hoằng hóa. Nhưng
về phần học đạo, đọc trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, chúng ta thấy rõ
Ngài ngộ đạo ngay câu nói của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi còn làm Tháùi tử
Ngài hỏi về yếu chỉ thiền như thế nào, Thượng Sĩ dạy: “Phản quan tự kỷ bổn
phận sự, bất tùng tha đắc.” Ngài lấy câu đó làm căn bản tu hành và sau đó
Ngài ngộ đạo. Thế nên Thiền tông Việt Nam tức là phái thiền Trúc Lâm Yên
Tử lấy câu “Phản quan tự kỷ” làm trọng tâm để giải thích sự tu hành. Vì
Ngài ngộ nơi câu đó, nên sau này đi tu Ngài liền truyền bá, chớ không cần
phải học với ai nữa.
Ngài lấy hiệu
đầu tiên là Hương Vân Đại Đầu-đà. Hương Vân là mây thơm, khi thắp hương
khói thơm bay lên giống như làn mây. Đại đầu-đà tức là tinh thần tu khổ
hạnh rất cao. Theo sử kể lại, Ngài từ chối không đi ngựa, không đi thuyền
rồng, chỉ đi bộ mà thôi. Thế nên từ núi Yên Tử về kinh đô Ngài đi bộ mất
sáu, bảy ngày mới đến nơi. Tinh thần của Ngài rất dứt khoát, khi nào làm
vua thì hẳn làm vua, lúc nào đi tu là hẳn đi tu, không có nuối tiếc. Còn
chúng ta ngày nay đi tu thì thế nào? Từ chối cái gì? Từ chối đi bộ muốn đi
Honda, từ chối đi Honda muốn đi xe hơi…, muốn tiến lên chớ không chịu lùi
lại. Chúng ta đi tu mà còn tiếc rẻ những vật dụng không nỡ bỏ lại nhà,
muốn đem vào chùa để dùng riêng, thật là quá dở. Còn Ngài khi đi tu thì bỏ
lại tất cả không tiếc một cái gì. Tinh thần của Ngài rất đặc biệt, cho nên
mới dùng chữ Đại Đầu-đà. Vì thế trên đường tu, Ngài dụng công không nhiều,
thời gian tu không dài, mà kết quả rất lớn, đó là do Ngài có ý chí mãnh
liệt và thái độ dứt khoát. Guơng người xưa cao quí như vậy, chúng ta phải
ráng noi theo. Ngày nay chúng ta dụng công tu nhiều, thời gian tu dài mười
năm, hai mươi năm mà chưa làm được điều gì lợi ích cho mình cho người,
thật đáng hổ thẹn. Đó là vì chúng ta không có ý chí mãnh liệt, không có
thái độ dứt khoát, nên không có kết quả.
Trong thời
gian sau, Ngài làm rất nhiều Phật sự nào là lập chùa, cất tinh xá, khai
giảng để tiếp độ chúng tăng. Rồi Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên
Trường, quê hương của Ngài, lập giảng đường giảng dạy mấy năm. Ngài lại
vân du đi tới các nơi như trại Bố Chánh và lập am Tri Kiến rồi ở đó.
Đến năm Giáp
Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ
thần không chánh đáng), và dạy họ tu hành thập thiện. Vào mùa đông năm ấy,
vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại
gia.
Còn một đoạn
sử mà chúng tôi không nêu ra ở đây, đó là việc Ngài qua Chiêm Thành một
thời gian, với mục đích hòa hợp nước Chiêm Thành với nước Việt Nam, hòa
với phương Nam để đủ sức chống với phương Bắc. Và Ngài hứa gả công chúa
Huyền Trân cho vua Chiêm. Vì có tánh cách lo cho đất nước xứ sở nhiều, nên
chúng tôi không có ghi đoạn sử này vào đây.
Đến năm 1304
Ngài dạo đi các nơi khuyên dân dẹp bỏ những miếu thờ thần không chánh
đáng. Ngài lại dạy dân tu hành thập thiện, việc này rất đáng để chúng ta
lưu tâm. Không phải ai Ngài cũng dạy tu thiền, vì tu thiền là phương pháp
tu dành cho những người quyết tâm quyết chí, chớ không phải cho người dân
thường. Muốn người dân có đạo đức thì không gì hơn dạy họ tu trì ngũ giới
và hành thập thiện. Đó là phương pháp mà toàn dân ai cũng có thể tu được.
Đem đạo đức phổ biến cho quần chúng, thì chỉ có ngũ giới và thập thiện là
căn bản. Như hiện nay tuy chúng ta ở thiền viện, nhưng với người Phật tử
mới chưa quyết tâm tu thiền, chúng ta cũng khuyên họ giữ ngũ giới và hành
thập thiện. Chớ không phải gặp ai chúng ta cũng bảo phải tu thiền, nếu tu
thiền không được thì coi như bỏ đi, nói như vậy là không tốt.
Mùa đông năm
ấy, vua Anh Tông thỉnh Ngài về triều để truyền giới Bồ-tát tại gia cho vua
và các quan.
Sau đó, Ngài
chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.
Ngày mùng một
tháng giêng năm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại
Báo Ân Thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh
Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính
Ngài giảng Truyền Đăng Lục, bảo Quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp
Hoa.
Đoạn này chứng
minh cụ thể chủ trương của Sơ Tổ Trúc Lâm là Thiền Giáo đồng hành. Ngài
giảng Truyền Đăng Lục là sách truyền đăng của nhà thiền, nhưng khuyên Quốc
sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa.
Bãi hạ, Ngài
vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch
trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị thị giả
thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Đăng
Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở
thôi.
Từ đây, Ngài
leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy
thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có
bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết
đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”
Trong thời
gian này, Ngài leo khắp núi Yên Tử, chẳng ngại nhọc nhằn, qua lại trên các
ngọn núi để tìm những chỗ kỳ đặc. Ngài Pháp Loa sợ Ngài bệnh nên khuyên
can, Ngài bảo: “Thời tiết của ta đã đến, muốn tạo kế lâu dài.” Tức là Ngài
tự biết đến lúc sắp ra đi, nên muốn tìm chỗ an thân khi tịch, hoặc là tìm
chỗ cất ngôi chùa để khiến cho Phật pháp được bền lâu.
Ngày mùng năm
tháng mười năm ấy, người nhà của công chúa Thiên Đoan lên núi bạch Ngài:
“Công chúa Thiên Đoan bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi
ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho
theo một người thị giả. Ngày mùng mười Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày
rằm Ngài trở về núi.
Ngài xuống núi
về kinh thăm chị là Công chúa Thiên Đoan đang đau nặng và sắp mất. Trong
Tam Tổ Thực Lục có ghi: Thấy Công chúa Thiên Đoan lo sợ, Ngài khuyên: “Chị
nên yên tâm, nếu ra đi đến Diêm chúa thì chị nói: Ít hôm sau em tôi là
Trúc Lâm Đại đầu-đà sẽ xuống.” Câu chuyện này không được thích hợp, nên
không có ghi vào tiểu sử, nhưng được dẫn ra đây để Tăng Ni thấy rằng:
Người tu có thể nhờ đức độ của mình làm giảm nhẹ được nghiệp của thân bằng
quyến thuộc, nói điều này không phải là không có lý do. Thí dụ như hiện
nay chúng ta có một địa vị cao sang trong xã hội, nếu những người thân của
mình giả sử có phạm những lỗi lầm gì thì người đứng ra xử phạt cũng nương
tay, đó là một lẽ thật. Ở đây cũng vậy, Ngài Điều Ngự tin rằng nhờ đạo đức
tu hành của mình, những thân nhân sẽ được giảm bớt các hình phạt, cho nên
Ngài mới khuyên chị như vậy.
Dặn dò xong,
Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng đông,
Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu.
Chúng ta thấy
Ngài đúng là nhà tu khổ hạnh. Tuy già bệnh mà Ngài vẫn đi bộ chớ không đi
ngựa. Khi đến chùa làng Cổ Châu, Ngài tự đề bài kệ rằng:
Thế số nhất tức mặc,
Thời tình lưỡng hải ngân.
Ma
cung hồn quản thậm,
Phật quốc bất thắng xuân.
Trong quyển
Tam Tổ Thực Lục, câu đầu của bài kệ nói khác: “Thế số nhất sách mạc.”
“Sách mạc”, sách là sợi dây, cũng có âm là tác tức là tan tác. Chữ mạc là
chớ, là không, cũng đọc là mạch tức là rậm rạp, hoặc đọc là bá tức là lặng
lẽ. Nếu câu kệ là “Thế số nhất sách mạc” thì không biết làm sao giải
nghĩa, nên làm rối nhiều dịch giả.
Song khi đọc
trong Tam Tổ Hành Trạng của ông Ngô Thời Nhậm, câu đầu bài kệ là: “Thế số
nhất tức mặc”, chúng tôi thấy câu này rất hợp lý. Thế số là số đời, nhất
tức mặc là một hơi thở, thở ra mà không hít vào là chết ngay. Nghĩa này
rất hợp với kinh Phật, nên chúng tôi nhận câu này là đúng.
Đến sau này
khi tra lại bộ Thiền Tông Bản Hạnh của Thiền sư Chân Nguyên, chúng tôi
thấy câu đầu bài kệ cũng là: “Thế số nhất tức mặc”. Thiền sư Chân Nguyên
sanh năm 1647, tịch năm 1726. Còn tác giả quyển Tam Tổ Hành Trạng là ông
Ngô Thời Nhậm, sanh năm 1746 mất năm 1805. Vậy ngài Chân Nguyên sanh trước
ông Ngô Thời Nhậm gần một trăm năm. Vì thế quyển Tam Tổ Hành Trạng của ông
có thể căn cứ theo tài liệu của ngài Chân Nguyên. Ngài là một Thiền sư trụ
trì chùa Long Động, tức là cửa ngõ vào núi Yên Tử, và trụ trì chùa Quỳnh
Lâm là ngôi chùa lớn nhất của hệ phái Trúc Lâm, cho nên tài liệu của Ngài
chính xác hơn, chúng ta đủ lòng tin nơi câu “Thế số nhất tức mặc” trong
quyển Thiền Tông Bản Hạnh của Ngài.
Giải nghĩa bài
kệ:
Thế số nhất tức mặc
Thế số là số
đời. Nhất tức mặc là một hơi thở. Tức là hơi thở, mặc là dừng là lặng.
Nghĩa là hơi thở ra mà dừng lại không hít vào là mất đi một cuộc đời.
Thời tình lưỡng hải ngân
Thời tình là
tình đời hay lòng của con người. Lưỡng hải ngân là hai biển bạc. Nghĩa là
lòng tham con người là hai biển bạc, là chỉ sự tham muốn vô cùng. Số đời
của mình chỉ trong một hơi thở, mà lòng tham muốn vô cùng.
Ma
cung hồn quản thậm
Ma cung là
cung ma. Hồn là mờ mịt tối tăm. Quản thậm là bị quản lý rất khít khao chặt
chẽ.
Phật quốc bất thắng xuân
Cõi Phật đẹp
đẽ không gì hơn (xuân là chỉ cho sự đẹp đẽ).
DỊCH:
Số
đời một hơi thở
Lòng người hai biển vàng.
Cung ma dồn quá lắm,
Cõi Phật vui nào hơn.
Hai câu đầu
chỉ mạng sống con người hết sức ngắn ngủi mà lòng tham muốn vô cùng. Lòng
người hai biển vàng, dùng chữ vàng thay chữ bạc cho ăn vận. Nơi nào có
tiền bạc nhiều như nước gọi là tiền rừng bạc bể, hay biển bạc. Nếu là biển
vàng thì càng quí, càng tham hơn nữa.
Hai câu sau là
chỉ nơi cung ma tối tăm khổ sở bị cai quản chặt chẽ, còn cõi Phật tốt đẹp
an vui không gì bằng.
Tóm lại bài kệ
này diễn tả hai hình ảnh đối nghịch nhau giữa kẻ mê và người tỉnh. Kẻ mê
cho thân này là lâu dài quí báu, nên lòng tham muốn quá nhiều, không lường
tuổi thọ của mình, rồi tạo nghiệp chịu khổ. Đến khi chết phải đọa vào cõi
ma cõi ác, đau đớn vô ngần! Nếu chúng ta thức tỉnh biết rõ cuộc đời hư dối
phù du, lòng tham dừng lại để cố gắng tiến tu, đó là chúng ta chọn cõi
Phật để trở về nương tựa, đó cũng là nơi an vui tự tại muôn đời.
Bài kệ này là
những lời cảnh tỉnh của ngài Trúc Lâm Đại Đầu-đà. Với tâm hồn bao la rộng
rãi, Ngài muốn cải tạo thế gian trở thành hiền lành tốt đẹp. Ngài đi trong
dân gian dạy người giữ ngũ giới, tu thập thiện, cố gắng tu hành chuyển
nghiệp. Song việc làm của Ngài chưa xong, mà tuổi thọ đã hết rồi! Biết
mình sắp tịch, Ngài cảm khái ghi lại bài kệ mang tâm trạng của Ngài lúc
ấy. Bài kệ này liên hệ rõ ràng với bài kệ bốn câu sau đây:
Thân như hô hấp tỹ trung khí,
Thế tợ phong hành lãnh ngoại vân.
Đỗ
quyên đề đoạn nguyệt như trú,
Bất thị tầm thường không quá xuân.
Trong hai câu
đầu Ngài luôn luôn nhớ thân mình giống như hơi thở ra vào nơi mũi, ngắn
ngủi tạm bợ. Cuộc đời thay đổi không dừng như đám mây trôi ngoài đỉnh núi
xa! Đối chiếu lại, chúng ta thấy rất hợp với câu kệ: “Thế số nhất tức
mặc”… Nhờ tra quyển Thiền Tông Bản Hạnh, chúng ta thấy được chỗ tương hợp,
không còn lầm lẫn nữa.
Đến ngày mười
bảy, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ Hoàng thái
hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Đây là bữa
cúng dường rốt sau.”
Ngài đi bộ trở
về núi, đến am Bình Dương, được Tuyên Từ Hoàng thái hậu lúc ấy tu rồi,
thỉnh Ngài vào am cúng dường bữa trai. Ngài vui vẻ nói: Đây là bữa cúng
dường rốt sau. Như vậy là Ngài biết trước Ngài sắp tịch.
Ngày mười tám,
Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi
hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không
thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp
được.” Đến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành
đi, chớ xem thường việc sanh tử.”
Ngày mười
chín, Ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát
đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy
một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền,
nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai
con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc
lát lại lặn xuống. Đêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy
điềm chẳng lành.
Ngày hai mươi
mốt, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi
đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa
rõ hãy nói mau.”
Bảo Sát hỏi:
- Như khi Mã
Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo:
“Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao?
Ngài lớn tiếng
đáp:
- Ngũ Đế Tam
Hoàng là vật gì?
Bảo Sát hỏi:
Mặt trời Phật, mặt trăng Phật là ý chỉ thế nào, ngài Điều Ngự dẫn một câu
trong Bích Nham Lục để đáp: Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì? Chúng ta thường
nói Phật là đấng giác ngộ, nhưng ở đây lại nói “Mặt trời Phật, mặt trăng
Phật”, vậy mặt trời mặt trăng có giác không? Như chúng ta đã biết khi ngộ
rồi thì tất cả không gì ngoài tâm Phật. Thế thì mặt trời mặt trăng đâu
không phải là Phật sao? Câu đáp của ngài Điều Ngự làm rõ ý này. Ngũ Đế là
năm vị vua ở Trung Hoa, Tam Hoàng là ba vị vua thời cổ, các vị này rất
được quí trọng, lạïi hỏi là vật gì? Cho nên người sau kết tội ngài Tuyết
Đậu, tưởng như Ngài khinh thường biếm nhẽ các nhà vua. Nhưng những vị vua
được người trong thiên hạ quí trọng với một vật khác cũng không có ngoài.
Phật dụ như ông vua, mặt trời mặt trăng dụ như vật này vật kia. Mặt trời
mặt trăng cũng là Phật, thì vật này vật kia cũng là Ngũ Đế Tam Hoàng,
không có ngoài, không có khác. Vậy là không có cái quí ở ngoài cái tiện,
không có cái tiện ở ngoài cái quí.
Bảo Sát laị
hỏi:
- Chỉ như “Hoa
sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao?
Ngài đáp:
- Làm mù mắt
ngươi.
Bảo Sát bèn
thôi.
Ngài Bảo Sát
lại dẫn những câu của người xưa để hỏi.
Sơ Tổ đáp: Làm
mù mắt ngươi. Tại sao? Vì hoa gấm, tre cây, nếu nhìn vào những hình ảnh
đó, sẽ bị chúng làm mù mắt. Bảo Sát thôi không hỏi nữa.
Suốt mấy hôm
trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm.
Đến ngày mùng
một tháng mười một, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện
giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn
xem, nói: “Đến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn Đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói
kệ đáp:
Nhất thiết pháp bất sanh,
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền.
Hà
khứ lai chi liễu dã.
DỊCH:
Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi ấy vậy.
Bốn câu kệ đầu
là dẫn trong kinh Hoa Nghiêm: Nếu chúng ta thấy tất cả pháp chẳng sanh,
tất cả pháp chẳng diệt, thấy và hiểu được như vậy thì chư Phật luôn luôn
có mặt trước mắt chúng ta.
Câu cuối bài
kệ là Ngài đáp: Nào có đến đi ấy vậy, nghĩa là không có đến không có đi.
Cái nhìn của Ngài khác với chúng ta như thế nào? Đối với chúng ta khi sanh
gọi là đến, khi tử là đi. Bởi đến cho nên mừng, ăn mừng ngày sanh, đi cho
nên buồn, buồn ngày ra đi, nên gọi là ngày húy kỵ, kiêng không dám nói
tới. Nhưng thử hỏi chúng ta đến trong cuộc đời này mấy mươi năm để hưởng
cái gì mà mừng? Khi đi, có biết ra sao mà sợ? Thật là lắm chuyện rắc rối.
Chúng ta có mặt nơi đây chưa chắc được an lành hạnh phúc, có khi phải lận
đận lao đao khóc bao nhiêu nước mắt, tại sao lại mừng? Đến lúc ra đi, nếu
cả đời mình không có làm đau khổ phiền lụy cho ai, ra đi thật thảnh thơi,
tại sao lại sợ? Con người vì mê muội cho nên tham sống sợ chết, mong được
sống lâu đến trăm tuổi, nhưng tuổi già lụm cụm sống thêm mười năm hai mươi
năm có hạnh phúc gì không? Thôi thì hết duyên cứ nhẹ nhàng ra đi chớ nên
sợ sệt, còn duyên thì vui ở lại, cũng chớ than van cuộc đời sao khổ quá!
Nếu sống than khổ, chết lại sợ, vậy phải làm sao? Chúng ta phải gan dạ
chấp nhận sống không than, ra đi không sợ, phải hiểu rõ cuộc đời là tạm bợ
hư dối, đủ duyên thì tồn tại, thiếu duyên thì tan rã, không có gì quan
trọng, mà quan trọng là chúng ta biết vui với cuộc sống và vui lúc ra đi.
Thế nên khi
Bảo Sát hỏi: Tôn đức đi đến chỗ nào, ngài Điều Ngự đáp: Nào có đến đi ấy
vậy. Như trong kinh Lăng Nghiêm có nói: Thân này như hòn bọt trên mặt
biển, nếu hòn bọt tan rồi thì trở về biển cả, làm gì có đến có đi? Song
chúng ta chỉ biết hòn bọt mà không biết gốc của nó từ mặt biển, nếu biết
được thì hòn bọt còn hay mất đâu có nghĩa gì! Thế nên khi tu chúng ta phải
nhận được nơi mình pháp thân không sanh không diệt, theo duyên huyễn hiện,
hễ huyễn sanh thì huyễn tử, sanh tử qua rồi trở về pháp thân, có mất chi
đâu mà nói đi nói đến. Qua câu đáp của Sơ Tổ Trúc Lâm chúng ta thấy trong
việc sanh tử Ngài rất an nhiên tự tại, không khổ sở, không lo lắng.
Bảo Sát hỏi:
- Chỉ như khi
chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
Ngài liền nhằm
miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
- Chớ nói mớ.
Nói xong, Ngài
bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu
(1308), thọ năm mươi mốt tuổi.
Bảo Sát hỏi
thêm: Chỗ chẳng sanh chẳng diệt là thế nào? Sơ Tổ liền tát vào miệng Bảo
Sát nói: Chớ nói mớ, nghĩa là chớ nói mê nói mộng. Ngay chỗ chẳng sanh
chẳng diệt mà còn hỏi thế nào, đó là bày thêm chuyện. Hãy ngay đó mà sống.
Sơ Tổ Trúc Lâm
thọ năm mươi mốt tuổi, Ngài đi sớm quá!
Pháp Loa theo
lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào
bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ
nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ
Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu-đà
Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.
Ngài còn lưu
lại những tác phẩm:
1.
Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục.
2.
Đại Hương Hải Ấn Thi Tập.
3.
Tăng-già Toái Sự.
4.
Thạch Thất Mị Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
Những tập sách
này hiện nay chỉ còn rải rác chút ít, không nguyên vẹn đầy đủ.
Để kết thúc
tiểu sử của Sơ Tổ Trúc Lâm, chúng tôi muốn nhắc đến tôn hiệu Điều Ngự Giác
Hoàng của Ngài. Tên Điều Ngự không phải do Ngài tự xưng, mà chính vua
Thánh Tông đặt cho khi Ngài thuật lại điềm mộng. Ngài thấy từ rún mọc lên
hoa sen, trên hoa có đức Phật tên là Biến Chiếu, nên vua cha đặt tên cho
Ngài là Điều Ngự, tức là Phật. Giác Hoàng là ông vua giác ngộ đi tu, cũng
như đức Phật khi xưa ở Ấn Độ là một Thái tử sắp lên ngôi vua, rồi giác ngộ
đi tu. Hai hình ảnh rất gần nhau khiến cho chúng ta thấy rõ các Ngài từ
một địa vị cao sang quyền quí, lãnh đạo toàn dân, nhưng các Ngài thức tỉnh
ra đi tìm đạo. Song đối với trách nhiệm, các Ngài không thiếu bổn phận,
lại còn làm đầy đủ hơn nữa. Nếu Thái tử Tất-đạt-đa khi xưa ở tại cung
điện, rồi lên làm vua cai trị muôn dân thời đó, thì ngày nay có còn ai
biết đến Ngài nữa hay không? Cũng thế, nếu Điều Ngự Giác Hoàng chỉ là vua
Trần Nhân Tông thì hiện giờ nếu chúng ta quí kính Ngài chỉ là quí một ông
vua thương dân cứu nước, chớ đâu có nhắc đến lý tưởng tu hành đạo đức của
Ngài. Nhưng chính vì các Ngài đi tu tìm đạo giải thoát, nên giá trị tinh
thần của các Ngài càng rộng rãi cao cả hơn và được lưu truyền mãi đến muôn
đời.
] |