SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM
THAM VẤN (tt)
Có vị tăng
hỏi: Thế nào là Phật?
Ngài đáp: Nhận
đến như xưa vẫn chẳng phải.
Hỏi: Thế nào
là pháp?
Đáp: Nhận đến
như xưa vẫn chẳng phải.
Hỏi: Thế nào
là tăng?
Đáp: Nhận đến
như xưa vẫn chẳng phải.
Hỏi ba câu:
Thế nào là Phật, thế nào là pháp, thế nào là tăng, Ngài chỉ dùng một câu
đáp: Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. Hiện nay nếu ai hỏi chúng ta như
thế, hẳn chúng ta định nghĩa rõ ràng và rất hay, không lẽ Ngài lại vụng
hơn chúng ta? Vì cái nhìn của thiền thâm sâu, không phải như nghĩa rõ ràng
của giáo. Thiền chỉ cho chúng ta nhận ra cái không thể dùng ngôn ngữ tầm
thường diễn tả được.
Nhận đến như
xưa vẫn chẳng phải nghĩa thế nào? Nếu có ai đem một chiếc đồng hồ tặng,
chúng ta đưa tay nhận rồi cảm ơn. Như vậy có một vật để chúng ta nhận, thì
đó là vật bên ngoài chớ không phải của mình. Còn Phật là ngay nơi mình
hiển lộ chớ không phải cái gì bên ngoài đưa tới, nếu nói nhận được là
không phải. Còn pháp tức kinh điển người đưa chúng ta nhận, sao cũng nói
“không phải”? Câu hỏi về tăng cũng trả lời giống như vậy là tại sao? Đối
với giáo thì Phật là đấng giác ngộ, pháp là những lời dạy của Phật, tăng
là những người tu sau này, như vậy Phật pháp tăng là riêng. Đối với cái
nhìn của Thiền tông, Lục Tổ dạy Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh.
Giác, chánh, tịnh không rời nhau, một thể mà ba dụng, nói một tức đủ cả
ba. Nếu không hiểu điều này chúng ta thấy Ngài không biết giải thích, chỉ
lập lại câu nhận đến như xưa vẫn chẳng phải.
Vị tăng hỏi
thêm: Cứu kính thế nào?
Ngài dạy:Bát
tự đả khai phân phó liễu,
Cánh vô dư sự khả trình quân.
Dịch: Chữ
bát đã bày trao hết sạch,
Đâu còn có việc nói cùng ngươi.
Khi nghe Ngài
trả lời về Phật Pháp Tăng, vị tăng không hiểu nên hỏi thêm cứu kính thế
nào?
Ngài bảo: Chữ
bát đã mở ra trao hết sạch, đâu còn việc gì giấu giếm để nói với ngươi
nữa. Đôi chân mày chúng ta giống hình chữ bát đã mở ra, lỗ mũi nằm ngay
dưới chân mày lại không chịu nắm, còn gì nữa mà chỉ. Đôi chân mày chỉ cho
phương tiện, mũi chỉ cho cái chân thật. Phương tiện đã vạch rồi, cái chân
thật nằm sẵn ngay đó lại không nhận. Nói nhận đến như xưa vẫn chẳng phải
là đã nói thẳng, nói chí tình rồi, còn hỏi cứu kính chi nữa.
Ông Tăng vẫn
chưa hiểu nên lại hỏi: Thế nào là một việc hướng thượng?
Ngài đáp: Đầu
gậy khêu nhật nguyệt.
Tăng nói: Dùng
công án cũ làm gì?
Câu đó là câu
người xưa nói, nay Ngài đem câu cũ nói với con làm gì?
Ngài đáp: Một
lần nhắc lại một lần mới.
Tuy đó là việc
cũ, nhưng mỗi lần nhắc lại là mỗi lần mới.
Tăng hỏi: Thế
nào là giáo ngoại biệt truyền?
Ngài bảo: Ễnh
ương nhảy không khỏi đấu.
Tăng hỏi tiếp:
Sau khi ra khỏi đấu thì thế nào?
Ngài đáp: Lại
theo con ếch nhảy xuống bùn.
Tăng nói: Vẫn
là nhảy chẳng khỏi.
Ngài bèn lớn
tiếng nạt: Kẻ mù! Thấy cái gì?
Đây là câu
lanh lợi.
Ngài liền hừ
hừ hai tiếng. Vị tăng suy nghĩ.
Lẽ ra nghe hừ
hừ thì lễ nhưng không lễ mà còn suy nghĩ nên Ngài liền đánh. Vị Tăng lại
suy nghĩ để hỏi, Ngài liền hét, vị Tăng cũng hét. Ra vẻ rồi đấy.
Ngài hỏi: Lão
Tăng bị một cái hét, hai cái hét của ngươi, rốt cuộc thế nào? Nói mau! Nói
mau! Vị tăng suy nghĩ. Ngài lại hét một tiếng, nói: Con chồn hoang quỉ
quái, vừa rồi tinh lanh, giờ ở chỗ nào? Nghĩa là trước dám nói Đại tôn đức
lừa người làm gì, đó là tinh lanh, rồi sau dám hét, đó là tinh lanh, nhưng
bây giờ lại suy nghĩ để đi tới đâu? Ông tăng không biết nên lễ bái rồi
lui.
Đây chúng tôi
nhắc lại cho quí vị rõ. Thiền tông là giáo ngoại biệt truyền, nghĩa là
truyền riêng ngoài giáo lý. Ngài trả lời: Ễnh ương nhảy không khỏi đấu,
câu này là nói để cho chúng ta không có gì phải suy gẫm, không có chỗ để
bám víu nghĩ suy, nếu ngay đó lãnh hội được thì đúng, không lãnh hội được
thì sai. Vì chưa lãnh hội được nên vị tăng hỏi thêm: Sau khi ra khỏi đấu
thì thế nào?
Ngài nói dễ
dàng: Lại theo con ếch nhảy xuống bùn. Ra khỏi đấu thì nhảy xuống bùn chớ
đi đâu nữa! Câu nói như lời nói đùa nhưng thật ra đã nói lên việc bắt buộc
chúng ta phải thấy ở bên kia, chớ không phải ngay trong ngôn ngữ.
Vị tăng còn
chấp ngôn ngữ nên nói: Vẫn là nhảy chẳng khỏi. Nhảy xuống bùn tức là nhảy
chưa khỏi.
Ngài bèn lớn
tiếng nạt: Kẻ mù! Thấy cái gì? Nếu nói như thế là ngươi không thấy gì
cả.
Vị tăng trở
lại nói: Đại tôn đức lừa người làm gì? Ngài nói như thế là một cách lừa
người, chớ không nói lẽ thật. Thấy vị tăng có vẻ hơi thấm nên Ngài liền hừ
hừ tức là hư hư. Nhưng vị tăng lại suy nghĩ, Ngài liền đánh. Vị tăng lại
suy nghĩ để hỏi, Ngài liền hét. Đến đây vị tăng nhạy bén một chút liền hét
lại.
Ngài hỏi: Lão
tăng bị một cái hét, hai cái hét của ngươi, rốt cuộc thế nào? Nói mau! Nói
mau! Ngay đó nếu biết thì trả lời bằng một hành động, nhưng vì không biết,
đứng suy nghĩ, nên Ngài mới hét nói: Con chồn hoang quỉ quái vừa rồi tinh
lanh, giờ ở chỗ nào? Cái tinh lanh khi nãy giờ đâu mất rồi. Vị tăng không
đáp được phải đảnh lễ rồi lui. Đây là lối đối đáp hoàn toàn là thiền,
không có giáo.
*
Một vị tăng
khác hỏi: Đại tôn đức khổ nhọc tu hành, đã trải qua nhiều năm đối với sáu
thông của Phật, Ngài đã được mấy thông? Câu hỏi này hơi khó trả lời, nghĩa
là chịu cực khổ tu hành, Phật được sáu thông, nay Ngài được mấy thông rồi?
Ngài đáp: Cũng
được sáu thông. Nghĩa là Phật được sáu thông, tôi cũng được sáu thông.
Vị tăng mới
thử: Năm thông kia gác qua, thế nào là tha tâm thông? Năm thông thì bỏ
qua, hỏi thế nào là tha tâm thông.
Ngài liền đáp:
Đầy cả quốc độ, có bao nhiêu thứ tâm Như Lai đều biết, Như Lai đều thấy.
Ngài không nói thẳng mà dẫn trong kinh Kim Cang, Phật nói: “Đầy cả quốc độ
chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm Như Lai đều biết.” Như vậy Ngài có sáu
thông như Phật thì Ngài cũng biết, cũng thấy.
Vị tăng liền
đưa nắm tay lên nói: Đã biết hết, thấy hết, vậy biết cái này có vật gì?
Tức là trong trong nắm tay tôi có vật gì. Vị tăng này thử đến nơi chớ
không chịu thua. Khi dẫn kinh Phật để đáp, nếu người hỏi lại theo cách này
thì chúng ta cũng khó trả lời.
Ngài khéo nói:
Như có như không, chẳng phải không chẳng phải sắc. Thế nào là như có như
không? Tất cả sự vật duyên hợp tạm thấy như có, nhưng thể tánh là không,
nên thấy như có mà là như không, nhưng nó cũng không phải không, cũng
không phải sắc. Trả lời như thế nên không làm sao bẻ được Ngài.
Vị tăng liền
hỏi: Xưa tăng hỏi Hòa thượng Lang Gia: Thanh tịnh bản nhiên, vì sao chợt
sanh sơn hà đại địa? Ý chỉ thế nào?
Ngài đáp: Thật
giống thuyền chài ra biển.
Vị tăng hỏi
thêm: Ý này thế nào?
Ngài đáp: Ai
biết nơi chốn khói sóng xa khơi kia, riêng có chỗ nên suy nghĩ.
Hòa thượng
Lang Gia là Thiền sư Huệ Giác ở núi Lang Gia, thuộc hệ phái Lâm Tế, vào
đời Tống ở Trung Quốc (sử của Ngài có ghi trong Cổ Tôn túc ngữ lục, quyển
bốn mươi sáu).
Khi hỏi thanh
tịnh bản nhiên vì sao chợt sanh sơn hà đại địa, ngài Trúc Lâm đầu-đà đáp:
Thật giống thuyền chài ra biển. Thuyền đậu trong bờ rất bình yên, mở neo
giong thuyền ra biển là vào chỗ hiểm nguy. Nghĩa là thể thanh tịnh bản
nhiên là thanh tịnh như vậy, khởi nghĩ hỏi là giống như thuyền chài đang
đậu bình yên trong bờ chợt giong thuyền ra biển khơi. Chúng ta thích như
thế nào? Có sóng gió mới vui, ở yên lâu thì buồn phải không? Như vậy thật
giống thuyền chài ra biển.
Vị tăng chưa
hiểu nên hỏi: Ý này thế nào?
Ngài giải
thích thêm: Ai biết nơi chốn khói sóng xa khơi kia, riêng có chỗ nên suy
nghĩ. Đó là ra ngoài nơi sóng gió thì chỗ đó suy nghĩ tùy ý.
*
Đến vị tăng
khác hỏi: Thế nào là gia phong Phật quá khứ?
Ngài đáp:Viên
lâm tịch mịch vô nhân quản,
Lý
bạch đào hồng tự tại hoa.
Dịch: Vườn
rừng vắng vẻ ai xem sóc,
Lý
trắng đào hồng hoa tự nhiên.
Vị tăng hỏi
thêm: Thế nào là gia phong Phật hiện tại?
Ngài đáp: Bạch
thủy gia phong mê hiểu yến,
Hồng đào tiên uyển túy xuân phong.
Dịch: Gia
phong sóng bạc mê yến sớm,
Tiên uyển đào hồng say gió xuân.
Vị tăng hỏi
tiếp: Thế nào là gia phong Phật vị lai?
Ngài đáp:Hải
phố đãi triều thiên dục nguyệt,
Ngư thôn văn địch khách tư gia.
Dịch: Bãi
biển chờ triều, trời đợi nguyệt,
Xóm chài nghe sáo, khách nhớ nhà.
Hỏi: Gia phong
Hòa thượng thế nào?
Ngài đáp:Phá
nạp ủng vân triêu khiết chúc,
Cổ
bình tả nguyệt dạ tiên trà.
Dịch: Áo
rách che mây, sáng ăn cháo,
Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà.
Lời đối đáp
trong đoạn này rất thi vị. Hỏi thế nào là gia phong Phật quá khứ, tức là
phong thái của Phật quá khứ như thế nào?
Phật quá khứ
là Phật không còn những hoạt động hiện tại ở thế gian, nên Ngài diễn tả:
Vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc,
Lý
trắng đào hồng hoa tự nhiên.
Nghĩa là không
còn người chú ý, chăm sóc vườn rừng nữa, nhưng cây lý vẫn trổ hoa trắng,
cây đào vẫn trổ hoa hồng một cách tự nhiên, chớ không phải là chẳng có gì.
Đến câu hỏi:
Thế nào là gia phong Phật hiện tại?
Ngài đáp:Gia
phong sóng bạc mê yến sớm,
Tiên uyển đào hồng say gió xuân.
Nghĩa là gia
phong của Phật hiện tại là hình ảnh một mặt trăng tròn sáng trong hư
không, soi khắp cả bầu trời. Dưới mặt biển những lượn sóng do ánh trăng
rọi chiếu, dường như tô bạc trên đầu sóng, làm cho chim yến (chim én)
tưởng là trời sáng nên đua nhau bay đi kiếm mồi. Trong vườn tiên, cây đào
trổ hoa đỏ làm gió xuân say mê. Như vậy gia phong Phật hiện tại giống như
mặt trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, nhưng chúng sanh như chim én mê lầm
tưởng là trời sáng; cũng như trong vườn tiên hoa đào hồng nở báo hiệu mùa
xuân thì gió xuân lại mê say thổi quyện bên hoa hồng. Đó là chỉ gia phong
Phật hiện tại là những hình ảnh đẹp đẽ tươi sáng, lúc nào cũng hiện tại
như ánh trăng trong, như hoa đào hồng, không thiếu vắng, nhưng chúng sanh
như chim én, như gió xuân mê say là vì chúng sanh không biết được lẽ thật.
Khi hỏi gia
phong Phật vị lai, Ngài đáp:
Bãi biển chờ triều, trời đợi nguyệt,
Xóm chài nghe sáo, khách nhớ nhà.
Triều là nước lớn, nước ròng.
Vị lai là chưa
đến là chỉ sự mơ ước sự trông chờ, nên nói bãi biển chờ nước triều lên,
bầu trời đợi trăng mọc. Những người thuyền chài đánh lưới ngoài biển nghe
tiếng sáo thổi liền nhớ nhà. Như thế nói đến Phật vị lai là nói đến sự
mong chờ, vị hiện tại chưa có, nên Ngài dùng những hình ảnh đẹp vô cùng,
như bãi biển chờ nước triều lên, bầu trời đợi trăng mọc, xóm chài nghe
tiếng sáo thổi liền nhớ nhà. Đó là nói gia phong ba đời chư Phật.
Lại hỏi gia
phong Hòa thượng thế nào?
Ngài đáp:Áo
rách che mây, sáng ăn cháo,
Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà.
Thật đẹp làm
sao! Khi mặt trời lên cao, những gợn mây che chỗ dày chỗ trống nhìn thấy
lỗ chỗ giống như chúng ta mặc chiếc áo rách. Như vậy có thích không? Mình
và trời đất không có khác! Vậy gia phong của tôi là tôi mặc áo rách giống
như mây che bầu trời và sáng tôi ăn cháo.
Bình xưa tưới
nguyệt, tối uống trà. Bình tưới trăng là tưới thế nào? Nếu cầm thùng nước
có vòi tưới thì nhìn thấy trên nước có mặt trăng.
Áo che mây,
bình tưới trăng, thật là đẹp kỳ diệu. Nói đơn giản là sáng tôi mặc áo rách
ăn cháo, chiều tối tôi cầm bình tưới cây rồi uống trà, đó là gia phong của
tôi, tức là những cái hiện tại, chớ không có gì xa xôi. Chúng ta thấy
người xưa nói đến gia phong là nói đến nếp sống giản đơn, mặc áo rách, ăn
cháo, đi tưới kiểng, tưới hoa và uống trà. Như vậy đúng với câu “Bình
thường tâm thị đạo”, nghĩa là trong tất cả sự ăn mặc, lao động, uống trà,
chư Tổ vẫn giữ tâm bình thường, đó là gia phong của các Ngài chớ không có
gì khác lạ.
Lại có vị tăng
hỏi: Ngài Linh Vân khi xem hoa đào ngộ thì thế nào?
Ngài đáp:Tự nở
tự tàn theo thời tiết,
Đông quân bị hỏi cũng khôn lời.
Ngài Linh Vân
là đệ tử của Tổ Qui Sơn Linh Hựu. Khi nhìn thấy hoa đào nở, bỗng dưng Ngài
ngộ đạo, do đó có vị tăng nghi nên hỏi [Thiền sư Chí Cần ở Linh Vân, Phước
Châu. Sư quê tại Trường Khê, Bổn Châu. Ban đầu ở chỗ ngài Qui Sơn, nhân
thấy hoa đào ngộ đạo, Sư có làm kệ:
Tam thập niên
lai tầm kiếm khách,
Kỷ
hồi lạc diệp hựu sưu chi.
Tự
tùng nhất kiến đào hoa hậu.
Trực chí như kim cánh bất nghi.
Tạm dịch:
Ba
chục năm qua tầm kiếm khách,
Bao lần lá rụng với cành trơ.
Từ
khi được thấy hoa đào nở,
Mãi đến ngày nay chẳng chút ngờ.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên Tiết Dẫn)].
Sơ Tổ Trúc
Lâm đáp là hoa đào tùy theo thời tiết mà có nở có tàn. Nếu hỏi tại sao xem
hoa đào ngộ đạo, giả sử như Đông quân cũng không đáp được. Đông quân là
chỉ thần mặt trời hay thần mùa xuân. Nói cách khác, ngài Linh Vân nhìn
thấy hoa đào mà ngộ đạo, đó là tùy theo thời tiết nhân duyên, khi chín mùi
chợt gặp thì ngộ. Còn muốn hỏi lý do thì không ai đáp được.
Hỏi: Khi giết
người không nhìn lại thì sao?
Ngài đáp: Gan
dạ cùng mình. Nếu giết mà không nhìn lại tức là gan dạ cùng mình chớ gì.
Lại hỏi thêm:
Người đại tu hành lại rơi vào nhân quả hay không?
Ngài liền
đáp:Khẩu tợ huyết bồn ha Phật Tổ,
Nha như kiếm thọ chủy Thiền lâm.
Nhất triêu tử nhập A-tỳ ngục,
Tiếu sát Nam-mô Quán Thế Âm.
Dịch: Miệng
dường chậu máu chê Phật Tổ,
Răng như kiếm bén gặm rừng thiền.
Một mai chết đọa A-tỳ ngục,
Cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm.
Tiếu là cười,
sát là chết, cười chết nghe không được, chúng ta có chữ dịch rất sát, rất
hay là cười ngất, cười đến ngất xỉu. Đây là do câu chuyện: Trong hội Tổ Bá
Trượng, một hôm sau buổi tham vấn, toàn chúng ra về chỉ còn một ông già ở
lại. Tổ đến hỏi: Sao ông chưa về? Ông thưa: Con không phải là người. Thời
quá khứ thuở đức Phật Ca-diếp, con là một vị Tỳ-kheo tăng ở núi này, nhân
có người hỏi: người đại tu hành lại rơi vào nhân quả chăng, con đáp: Không
rơi vào nhân quả. Do đó con phải đọa làm thân chồn đến năm trăm kiếp. Nay
xin Hòa thượng nói cho con một chuyển ngữ để con thoát khỏi kiếp chồn. Tổ
bảo: Ông hỏi lại ta đi. Ông già hỏi: Người đại tu hành có rơi vào nhân quả
không? Tổ đáp: Không lầm nhân quả. Ngay câu nói ấy ông ngộ được, làm lễ
thưa: Con đã thoát thân chồn. Con ở sau núi, dám xin Hòa thượng lấy theo
lễ tống táng con như một vị tăng.
Câu hỏi trên
hết sức quan trọng đối với người tu. Người đại tu hành là người nào? Nói
cho dễ hiểu là người ngộ đạo. Ngộ đạo rồi, đời sau có rơi vào nhân quả
không? Tôi dẫn cho quí vị thấy: Người đại tu hành không ai bằng Phật, thế
mà đức Phật còn bị nạn kim thương mã mạch, nghĩa là Ngài còn chưa ra khỏi
nhân quả. Thế nên ông già trả lời “không rơi vào nhân quả”, là trái với
giáo lý đức Phật dạy, đã tạo nhân thì phải chịu quả. Tuy nhiên nếu chúng
ta dẫn lại lời Thiền sư Huyền Giác, Ngài nói:
Liễu tức nghiệp chướng bản lai không,
Vị
liễu ưng tu hoàn túc trái.
Nghĩa là người
liễu ngộ rồi thì nghiệp chướng xưa nay là không, còn người chưa liễu ngộ
thì phải đền nợ trước, tức là bị nhân quả. Thế thì ông già trả lời đúng
như lời ngài Huyền Giác nhưng tại sao ông bị đọa? Đó là vì ông hiểu lầm
chữ liễu của Ngài, ông tưởng rằng liễu rồi là không còn kẹt vào nhân quả
nữa, nhưng không ngờ liễu thì nghiệp chướng bản lai không.
Ngài Trần Nhân
Tông trả lời rất khéo như sau:
Miệng dường chậu máu chê Phật Tổ,
Răng như kiếm bén gặm rừng thiền.
Nghĩa là tạo
tội tạo nghiệp, chê Phật chê Tổ, phá những người tu.
Một mai chết đọa A-tỳ ngục,
Cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm.
Nếu làm việc
ác, chết phải đọa địa ngục A-tỳ tức là địa ngục Vô Gián. Làm ác thì chịu
quả ác không nghi ngờ, nhưng khi quả ác đến thì cười ngất Nam-mô Quán Thế
Âm. Đây là câu của người đại tu hành. Tại sao? Tôi dùng một ví dụ nhỏ cho
quí vị hiểu. Khi chúng ta mê muội, tranh hơn tranh thua với một người nào,
cãi vã rồi chửi mắng họ, lúc đó vì thế yếu họ không dám chống nhưng họ
hận. Mai kia thế chúng ta yếu, người đó lại mạnh, khi gặp chúng ta họ xử
sự như thế nào? Xưa chúng ta mắng họ một, nay họ trả lại gấp hai, ba phần.
Tuy nhiên rất mừng là chúng ta đã ngộ đạo, nên trước những lời mắng chửi
nặng nề, chúng ta chỉ cười ngất. Vậy có trả hay không? Nếu chưa ngộ đạo,
chúng ta thấy những lời mắng chửi là thật, tự nhiên mình chịu không nổi,
nên rất khổ sở. Nhờ ngộ đạo, biết những lời chửi rủa như gió thoảng qua
tai, có nghĩa lý gì đâu nên chúng ta cười. Như vậy để thấy rằng nhân quả
vẫn phải trả, nhưng khi mê thì khổ, khi ngộ thì cười. Thế nên Ngài dùng
hình ảnh rất đẹp:
Một mai chết đọa A-tỳ ngục,
Cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm.
Người mê rơi
xuống địa ngục thì than khóc khổ sở, còn người ngộ thì cười, đó là hiện
tại nhân quả không mất, nhưng ngộ rồi thì trả mà không trả. Đây là một câu
trả lời khéo vô cùng:
Tăng hỏi:Dưới
ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết,
Trên cây oanh đậu một cành hoa,thì thế nào?
Ngài đáp: Lầm!
Tăng hỏi tiếp:
Theo Đại tôn đức thì thế nào?
Ngài bảo:Dưới
ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết,
Trên cây oanh đậu một cành hoa.
Tăng thưa: Đó
là câu nói của tôi.
Ngài tiếp:Muốn
biết thần tiên lò luyện thuốc,
Linh đơn vốn thiệt tử châu sa.
Qua đoạn này
quí vị thấy có điều gì lạ? Vị tăng dẫn hai câu thơ đặt thành câu hỏi:
“Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết,
Trên cây oanh đậu một cành hoa”, thì thế nào?
Hai câu thơ
rất là tuyệt, dưới thửa ruộng trống bầy cò trắng đậu trông như những điểm
tuyết trên đồng cỏ. Trên cành chim oanh vàng đậu nhìn thấy như đóa hoa nở
trên cây. Khi vị tăng hỏi như vậy, Ngài đáp: Lầm! Tại sao? Vì ông dẫn câu
của người khác diễn tả cảnh để hỏi về thiền nên Ngài nói lầm. Vị tăng mới
hỏi thêm: Theo Đại tôn đức thì thế nào? Nghĩa là vậy ý Ngài nghĩ như thế
nào? Ngài liền dẫn lại nguyên văn hai câu trên:
Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết,
Trên cây oanh đậu một cành hoa.
Ông tăng tức
quá mới thưa: Đó là câu nói của tôi, như vậy đâu phải ý của Ngài, Ngài chỉ
lập lại ý của tôi thôi.
Ngài liền
đáp:Muốn biết thần tiên lò luyện thuốc,
Linh đơn vốn thiệt tử châu sa.
Những người tu
tiên lấy tử châu sa để trong lò luyện thành linh đơn, như vậy linh đơn gốc
từ tử châu sa ra chớ không có gì lạ. Ngài đáp cho vị tăng hiểu thâm ý của
Ngài muốn dạy cho người học. Người tu thiền khi thấy tâm cảnh không hai
thì tất cả cảnh không ngoài tâm. Bầy cò đậu dưới ruộng hay chim hoàng oanh
đậu trên cành cây… những cảnh đó đều không ngoài tâm. Như vậy Ngài dẫn hai
câu thơ trên để nói ngoài cảnh không tâm, cũng như ngoài tâm không cảnh.
Chúng ta đừng tìm kiếm cái gì xa lạ kỳ đặc, nên Ngài nói người tu tiên
luyện linh đơn là thứ thuốc trường sanh bất tử, nhưng gốc từ tử châu sa mà
ra. Như vậy chỗ ngộ đạo, chỗ thấy được chân tánh không ngoài hình ảnh bầy
cò đậu dưới ruộng giống như ngàn điểm tuyết, chim hoàng oanh đậu trên cành
cây giống như một đóa hoa. Ngay trước mắt là cái chân thật mà tất cả người
tu thiền cần phải đạt đến, đừng bỏ cảnh này đi tìm cái gì xa lạ khác,
không có cái chân thật ngoài những cảnh hiện tiền.
Tăng hỏi: Thế
nào là thanh tịnh pháp thân?
Ngài đáp:Đục
vàng rơi trong phân sư tử,
Người đen đúa vác bó hương thơm.
Vị học tăng
không hiểu nói: Học nhân không hiểu.
Ngài bảo:Chớ
học thói hồ đồ trả giá,
Cười người chân thật dối lầm nhau.
Như vậy Ngài
trả lời câu: “thế nào là thanh tịnh pháp thân” chưa? Đục vàng rơi trong
phân sư tử. Cây đục là cái tầm thường nhưng vàng là quí. Phân là cái xấu
xa mà sư tử là quí. Câu này nói rằng cái quí cái tiện không có hai, không
rời nhau. Người đen đúa vác bó hương thơm là dịch câu: Thiết côn lôn*
thượng chá cô ban*. Người đen đúa là tiện, hương thơm là quí. Câu này nói
quí không rời tiện, quí tiện không hai.
Giải nghĩa*
Chá cô ban: tên một thứ hương. Trong quyển Danh Hương Phổ nói: “Hương chá
cô ban sản xuất ở Nhật Nam, giống như nhũ hương.” Thơ Hoàng Đình Kiên có
câu: “Loa giáp cát Côn lôn nhĩ, Hương tài tiếu chá cô ban.” (Từ Hải)
*Côn lôn:
1. Mạch núi
lớn nhất ở Trung Hoa, bắt đầu từ Thông Lãnh nơi cao nguyên Mạt mễ nhĩ chạy
qua địa phận biên giới Tây Tạng, Tân Cương vào nội địa Trung Hoa.
2. Một ngọn
núi ở đông bắc huyện Ung Ninh, Quảng Tây, trên đó có ải Côn Lôn, là nơi
Địch Thanh nhà Tống phá Nùng Trí Cao. Theo Việt Nam Địa Dư Đồ Thuyết thì
núi này chạy dài từ phía Nam Quảng Tây vào An Nam.
3. Tên một
chủng tộc xưa. Theo truyện Nam Loan, Cựu Đường Thư nói: “Từ Lâm Ấp về phía
Nam đều thân đen, tóc quăn, gọi chung là Côn Lôn.” Và ngày xưa cũng dùng
để dụ cho những người thân thể đen đúa. Truyện Lý Thái Hậu trong Tấn Thư
nói: “Hậu là cung nhân trong phường dệt, cao mà đen, cung nhân bảo là Côn
Lôn.” Và truyện Mộ Du-ng Ngạn Siêu trong Ngũ Đại Sử nói: “Ngạn Siêu sắc
đen, râu hồ, hiệu là Diêm Côn Lôn.” (Từ Hải)
Tóm lại hai
câu thơ diễn tả hình ảnh quí không rời tiện, tiện không ngoài quí. Pháp
thân thanh tịnh không tìm ngoài cái quí tiện. Tại sao? Nếu chúng ta còn
thấy quí khác tiện khác là thấy hai bên. Thấy hai bên, kẹt ở hai bên thì
không bao giờ thấy được pháp thân. Đó là ý nghĩa Ngài chỉ rõ ràng nhưng vị
tăng lại thưa: Học nhân không hiểu, nghĩa là câu Ngài trả lời con không
hiểu gì cả. Ngài bảo:
Chớ học thói hồ đồ trả giá,
Cười người chân thật dối lầm nhau.
Có phải Ngài
mắng vị tăng không? Hồ đồ trả giá, trả giá tức là có đắt rẻ, hơn thua. Nếu
còn thấy có đắt rẻ hơn thua thì không bao giờ thấy được pháp thân, nghĩa
là muốn nhận ra pháp thân, thì đừng so sánh, phân biệt. Như câu chuyện
ngài Hưng Hóa Tồn Tương khi vua Đường Trang Tông đi Hà Bắc, trở về Ngụy
phủ, dừng tại Hành cung, nghe đồn Ngài là một vị Thiền sư nổi tiếng, nhà
vua cho mời Ngài đến để hỏi đạo. Khi Ngài đến, nhà vua nói: Trẫm thâu
trung nguyên nhận được hòn ngọc quí, chưa từng có người trả giá. Sư nói:
Xin bệ hạ cho xem. Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân. Ngài Hưng Hóa
nói: Ngọc quí của đấng quân vương ai dám trả giá. Nghĩa là nhà vua đã
trình cái thanh tịnh pháp thân, mà thanh tịnh pháp thân là một hòn ngọc vô
giá, nhà vua hỏi thử Thiền sư xem người thấu rõ được hòn ngọc đó hay chưa,
nên nói: Mời Thiền sư đánh giá hòn ngọc. Ngài Hưng Hóa nói rõ rằng: Hòn
ngọc của đấng quân vương ai dám trả giá. Nếu trả giá thì thuộc về hạng hồ
đồ rồi. Hiểu như thế mới thấy được ý “chớ học thói hồ đồ trả giá”. Chúng
ta quen thói hồ đồ, nghĩa là gặp đâu đánh giá đó, trúng cũng đượïc, sai
cũng được. Nhưng đó là chỗ không trả giá tức là không so sánh, không thấy
có hơn thua v.v… và khi chúng ta trả giá chúng ta lại cười người nói thật
vì tưởng họ nói dối. Ngài nói thật, Ngài chỉ pháp thân, nhưng vị tăng
không hiểu tưởng như Ngài giấu giếm.
Vị tăng hỏi
thêm: Thế nào là viên mãn báo thân?
Thường trong
kinh nói Phật có ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Pháp thân là
thanh tịnh pháp thân cũng gọi là Tỳ-lô-xá-na. Báo thân là viên mãn báo
thân hay gọi là Lô-xá-na. Khi hỏi thế nào là viên mãn báo thân, Ngài đáp:
Cánh bằng bay bổng dừng cơn gió,
Ly
châu lắng lạnh biển trong ngần.
Vị tăng lễ
bái. Ngài bảo:
Nguyên lai đầy đủ nhiều công dụng,
Bởi chú quàng xiên chẳng được thành.
Tôi giải thích
lại ba thân để quí vị thấu suốt được câu hỏi này. Thanh tịnh pháp thân là
chỉ cho pháp thân hoàn toàn thanh tịnh, không tướng mạo, pháp thân đó
không sanh diệt, là thể của tất cả thân. Báo thân là thân do quả báo, như
thân người thế gian thì gọi là nghiệp báo, người tu gọi là phước báo. Đức
Phật có ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, đó là thân phước báu. Như
vậy hỏi thế nào là viên mãn báo thân, tức là thân phước báo của Phật. Thân
thứ ba là hóa thân, tức là tùy theo các loài chúng sanh cần gì thì hóa
hiện theo đó, nó không thật. Thí dụ như kinh Phổ Môn kể lại: Nếu người cần
được Tỳ-kheo độ thì Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân Tỳ-kheo độ, nều cần được
Tỳ-kheo-ni độ thì Ngài hiện thân Tỳ-kheo-ni, cần đồng nam độ thì hiện thân
đồng nam, cần đồng nữ thì hiện thân đồng nữ, cho đến tướng tể quan v.v…
tùy theo nhu cầu đương cơ mà hiện ra để hóa độ. Thân hóa độ đó gọi là hóa
thân chớ không phải là thân thật.
Ở đây khi hỏi
về báo thân, ngài Điều Ngự trả lời:
Cánh bằng bay bổng dừng cơn gió,
Ly
châu lắng lạnh biển trong ngần.
Nghĩa là cánh
chim đại bàng bay bổng lên không làm cho gió phải đứng lại, hạt châu ở
dưới cằm con rồng (ly châu) có giá trị lắng hết cặn bã ở dưới biển làm cho
nước biển được mát mẻ và trong ngần. Hai câu này nói gì về nghĩa báo thân?
Báo thân là thân do phước báo đầy đủ của chư Phật, thân đó có diệu dụng
không thể lường, giống như con chim đại bàng cất cánh bay lên cao làm cho
gió phải đứng lại, như hạt ly châu của con rồng khi ở sâu dưới đáy biển
làm cho nước biển mát và trong.
Vị tăng nghe
liền lễ bái, nhưng không biết hiểu hay chưa, nên Ngài nói thêm:
Nguyên lai đầy đủ nhiều công dụng,
Bởi chú quàng xiên chẳng được thành.
Ai cũng có báo
thân nhưng vì chúng ta không nhận ra, không sống được, không được thành,
nên nói là quàng xiên. Những tâm tưởng lăng xăng nhớ việc này tưởng việc
kia, chạy ngược chạy xuôi, tâm tưởng đó là quàng xiên. Chúng ta vẫn nuôi
dưỡng nó nên không thấy được báo thân đầy đủ công đức của chính mình.
Đến câu hỏi
thứ ba: Thế nào là thiên bách ức hóa thân? Nghĩa là thân ứng hóa trăm ngàn
thứ, trăm ngàn loại là thế nào? Thân đó không cố định, tùy theo duyên
chúng sanh mà hiện rất nhiều.
Ngài đáp:
Mây dồn sương phủ trời mù mịt,
Tấc nước như xưa trước đỉnh đầu.
Ba thứ mây,
sương, mù, mây che cả không gian, sương cũng rơi đầy, mù cũng khắp cả
vùng. Nhưng cả ba gốc từ cái gì? Gốc từ tấc nước ở đỉnh đầu mà ra. Đó là
để nói hóa thân hiện trăm ngàn muôn thứ, bao nhiêu diệu dụng, tùy duyên
hóa độ chúng sanh. Hóa thân đó không ngoài cái thể của pháp thân, nó không
có riêng cũng không phải tự thành, đều từ pháp thân mà ra, cũng như từ
nước biển thành mây, thành sương, thành mù che khắp trời đất, cả ba chẳng
qua là một tấc nước ở đỉnh đầu ông, chớ không có gì lạ.
Vị tăng nói:
Đúng thế, tức là đúng rồi, con biết rồi!
Ngài bảo:
Cười ngất kẻ gom mây dưới đảnh,
Bốn bề nuốt lấy hòn sắt tròn.
Nghĩa là có kẻ
ngu thấy mây phủ ở sườn núi, toan tính lên đó gom lại dồn vào bao đem về,
nên cười ngất kẻ gom mây dưới đảnh. Như vậy ông sẽ không khỏi bị nuốt hòn
sắt nóng ở địa ngục. Nói rằng đúng là xem như ông thấy, nhưng sự thật là
chưa thấy gì, ông là kẻ ngớ ngẩn chưa được cái gì. Tuy nghe chê, nhưng ông
tăng vẫn lễ bái lui ra.
Như thế Ngài
giải rõ ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, giải rất là rõ nhưng rất
là khó hiểu.
* |