TAM TỔ TRÚC LÂM GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM

THI PHÚ HÁN NÔM (tt)

7. NGUYỆT

Âm:    Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,

            Lộ trích thu đình dạ khí hư.

            Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,

            Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

Dịch: TRĂNG

            Đèn song chếch bóng, sách đầy giường,

            Đêm vắng sân thu lác đác sương.

            Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết,

            Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương.

                                    Đào Phương Bình

Giảng:

Bài này tả cảnh ban đêm có trăng, đêm vắng có sương mù lác đác rồi nghe có tiếng chày nện vải từ đâu đưa lại, nhìn ra thấy bóng trăng rọi sáng chung quanh. Như vậy bài này Ngài chỉ tả cảnh.

8. ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ

Âm:    Huân tận thiên đầu mãn tọa hương,

            Thủy lưu sơ khởi bất đa lương.

            Lão dung ảnh lý tăng quan bế,

            Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường.

Dịch: ĐỀ NHÀ THỦY TẠ, CHÙA PHỔ MINH

            Nghìn hương thắp hết ngát đầy tòa,

            Làn nước nhẹ nhàng gió lạnh qua.

            Dưới bóng đa già chùa cửa đóng,

            Ve ngâm dấy khởi tứ thu xa.

Giảng:

Khi ra Hà Nội chúng tôi có đến viếng chùa Phổ Minh. Ngày nay cảnh chùa còn nguyên vẹn kể cả tháp. Chùa nằm bên cạnh cánh đồng chớ không ở chỗ thị tứ. Đây Ngài diễn tả cảnh chùa ở phía trước có cây đa lớn và một cái hồ. Khi trong chùa đốt hương thì nghe mùi thơm tỏa ngát đầy tòa. Dưới mặt hồ gió thổi nhẹ nước gợn sóng rọi bóng cội đa già nằm cạnh bên tháp. Nghe tiếng ve ngâm, Ngài khởi ý thơ từ mùa thu ở xa đưa lại.

9. THIÊN TRƯỜNG PHỦ

Âm:    Lục ám hồng hi bội tịch liêu,

            Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu.

            Trai đường giảng hậu tăng qui viện,

            Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều.

            Tam thập tiên cung hoành dạ tháp,

            Bát thiên hương sát động xuân triều.

            Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc,

            Phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu.

Dịch: PHỦ THIÊN TRƯỜNG

            Lục rậm, hồng thưa cảnh quạnh hiu,

            Mây quang, mưa tạnh đất tan rêu.

            Phòng trai giảng đoạn, sư về viện,

            Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo.

            Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt,

            Tám nghìn bóng tháp, nước triều reo.

            Phổ Minh phong cảnh chùa như cũ,

            Trong giấc mơ màng Thuấn thấy Nghiêu.

                                                            Theo Ngô Tất Tố

Giảng:

Bài này Ngài tả cảnh phủ Thiên Trường. Phủ Thiên Trường là quê hương của nhà Trần, nơi đó các ngài làm hành cung. Chùa Phổ Minh cũng nằm trong vùng này. Bài này tôi y theo bản dịch của Ngô Tất Tố. Trong câu “Phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu” là lấy sự tích nói theo Hậu Hán Thư. Theo tục xưa vua Nghiêu mất, vua Thuấn để tang ba năm để tưởng nhớ, vì thế lúc ngồi thấy hình dáng vua Nghiêu trên tường, khi ăn thấy hình dáng vua Nghiêu trong bát canh. Ý nói khi về chùa Phổ Minh, Ngài luôn luôn nhớ đến các vị vua tiền triều Tổ phụ của Ngài thuở trước, các ngài thường về đây nghỉ ngơi. Vì vậy mỗi khi nhìn cảnh trí ngôi chùa gợi Ngài nhớ tưởng đến người xưa. Như vậy bài này Ngài chỉ tả cảnh.

10. THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG

Âm:    Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

            Bán vô bán hữu tịch dương biên.

            Mục đồng địch lý qui ngưu tận,

            Bạch lộ song song phi hạ điền.

Dịch: NGẮM CẢNH CHIỀU Ở THIÊN TRƯỜNG

            Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,

            Bóng chiều dường có lại dường không.

            Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,

            Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

                                                            Theo Ngô Tất Tố

Giảng:

Ở đây Ngài ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường, vì cảnh nằm bên cạnh cánh đồng. Ngồi ở trong nhìn ra thấy cánh đồng, thấy mục đồng cỡi trâu về chuồng, thấy cò trắng từng đôi bay xuống đồng. Nhìn cảnh đẹp nên thơ, Ngài diễn tả bằng lời thơ. Sở dĩ những bài tả cảnh này được chúng tôi đưa lên đây là để cho quí vị thấy tâm hồn thơ của Ngài rất đặc biệt, rất sống động. Như vậy Ngài là con người có tài về võ lẫn văn thơ.

11. TẢO MAI

Âm:    I.

            Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,

            San-hô trầm ảnh hải lân phù.

            Cá tam đông bạch chi tiền diện,

            Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.

            Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,

            Dạ quang như thủy khát cầm sầu.

            Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ,

            Quế lãnh thiềm hàn chỉ má hưu!

            II

            Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,

            Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn).

            Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,

            Hoa áp chi đầu noãn vị phân.

            Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,

            Họa long xuy thấp Ngọc quan vân.

            Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,

            Giác hậu bất kham trì tặng quân.

Dịch: HOA MAI SỚM

            I.

            Năm cánh hoa tròn, vàng nhị phô,

            Nổi nênh vảy cá, chìm san-hô.

            Đông ba tháng trải, cành khoe trắng,

            Xuân một làn thơm, nhánh nhẹ đưa.

            Đêm ngỡ nước trong, chim cháy cổ,

            Sương lừng hương ngát, bướm tan mơ.

            Hằng Nga như biết đây hoa đẹp,

            Quế lạnh cung Thiềm, há mến ưa?

            II

            Năm ngày ngại rét, lười ra cửa,

            Gốc lẻ nào ngờ đã gió xuân.

            Mặt nước băng tan, cây bóng ngả,

            Đầu cành hoa trĩu, ấm chưa phân.

            Trăng chìm xóm núi, lời ca bổng,

            Mây ướt quan hà, tiếng sáo ngân.

            Lạc tới chiêm bao, hoa một nhánh,

            Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần!

                                                            Trần Lê Văn

Giảng:

Bài thơ thứ nhất nói về hoa mai buổi sớm. Ở đây Ngài diễn tả hoa mai buổi sớm ở Việt Nam hay ở thế gian này vừa đẹp, vừa thơm. Nếu Hằng Nga ở trên cung trăng biết nơi đây có hoa mai đẹp đẽ như thế, chắc cũng bỏ cung quế để xuống thăm. Đó là lối diễn tả khéo của Ngài.

Bài thứ hai cũng diễn tả hoa mai, nhưng vì mùa đông rét mướt nên năm ngày Ngài không ra khỏi cửa, lúc bước ra thì thấy một gốc mai đã có gió xuân đưa đến. Khi nước băng tan, trên cành có những cánh mai nở tròn đầy, kế là những tiếng ca trong xóm núi, những tiếng sáo ngâm, những bước đi quan hà. Rồi trong mộng thấy một cành hoa mai đẹp, muốn đem tặng bạn nhưng không sao tặng được.

12. LẠNG CHÂU VÃN CẢNH

Âm:    Cổ tự thê lương thu ái ngoại,

            Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.

            Thủy minh, sơn tĩnh bạch âu quá,

            Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ.

Dịch: CẢNH CHIỀU Ở LẠNG CHÂU

            Chùa xưa lạnh lẽo khói thu mờ,

            Chiều quạnh thuyền câu, chuông vẳng đưa.

            Núi lặng, nước quang, âu trắng lượn,

            Tạnh mây, im gió, đỏ cây thưa.

                                                            Trần Lê Văn

Giảng:

Lạng Châu là một tỉnh ngày xưa. Bài này tôi cũng theo bản dịch của ông Trần Lê Văn. Đây Ngài tả cảnh chiều ở Lạng Châu. Bài thơ chỉ tả cảnh nên tôi không thể giải thích theo đạo lý được.

13. VŨ LÂM THU VÃN

Âm:    Họa kiều đảo ảnh trám khê hoành,

            Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh.

            Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc,

            Thấp vân như mộng viễn chung thanh.

Dịch: CHIỀU THU Ở VŨ LÂM

            Lòng khe in ngược bóng cầu hoa,

            Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà.

            Lặng lẽ nghìn non, rơi lá đỏ,

            Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa.      

                                                            Băng Thanh

Giảng:

Bài này Ngài tả cảnh chiều thu ở Vũ Lâm, cũng không có ý nghĩa đạo lý nên tôi không giảng giải rộng thêm.

Tóm lại buổi giảng hôm nay tôi có ít lời nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử qua hai bài “Sơn Phòng Mạn Hứng”. Hai bài này Tăng Ni cần phải học thuộc lòng, bởi vì trong đó có hai đặc điểm mà tôi muốn nhắc cho quí vị nhớ.

Đặc điểm thứ nhất, trong bài đầu Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ trọng tâm giải thoát nằm ở chỗ nào?

Đặc điểm thứ hai, chỉ cho chúng ta thấy rõ tu cầu thành Phật, thành Thánh là cầu nơi mình hay cầu nơi ai khác?

Đó là hai đặc điểm mà Phật tử chúng ta hiện nay hay sai lầm.

Muốn được giải thoát sanh tử thì tâm sanh tử chúng ta phải dừng. Vậy tâm sanh tử là tâm nào quí vị có biết  không? - Tâm là cái biết, cái giác, mà cái biết cái giác nào dấy động là nhân sanh diệt, còn cái giác biết không dấy động thì không sanh diệt. Khi chúng ta khởi nghĩ thương, ghét, buồn, giận v.v.. đó là những cái nghĩ động nên nó là nhân sanh tử. Như vậy chúng ta muốn giải thoát sanh tử hay không sanh tử thì phải dừng cái nhân sanh tử. Nhân sanh tử dừng lặng thì quả không sanh tử sẽ đến, không phải cầu, không phải tìm kiếm. Bởi giáo lý nhà Phật rất thâm sâu nên nhiều người học Phật không hiểu thấu đáo dễ bị mắc kẹt hoặc hiểu lầm, đi kiếm tìm, cầu xin ai khác (bên ngoài) cứu độ cho mình được giải thoát, đó là việc làm không hợp với Phật pháp. Muốn giải thoát là tự mình phải dừng những ý niệm dấy động tạo nghiệp, ý niệm dấy động tạo nghiệp dừng thì nghiệp quả đâu còn, vì không có nghiệp nhân làm gì có nghiệp quả, mà không có nghiệp cái gì lôi mình đi trong luân hồi sanh tử nữa, tức là tự mình đã giải thoát rồi. Thế nên bao nhiêu phương tiện tu hành của Phật Tổ dạy chúng ta đều cốt dừng tâm sanh tử, mà muốn dừng tâm sanh tử thì phải chịu khó ngày đêm ngồi thiền mấy thời, tận lực hạn chế không cho dấy động tạo nghiệp. Khi tâm đã dừng lặng thì mầm sanh tử không còn, do đó nhân không tạo thì quả không có. Đây là gốc của sự tu hành, chớ không phải tu là cầu xin, mà đa số chúng ta hiện nay nặng về cầu xin. Giả sử trong gia đình có chuyện gì sầu muộn buồn khổ, lại cầu Phật thương con, gia hộ cho con qua khỏi nghiệp chướng để được giải thoát sanh tử. Như vậy tất cả mọi việc đều trông cậy vào chư Phật, chư Tổ cứu giúp cho, nhưng nếu chúng ta không dừng ý nghiệp thì có ai giúp cho chúng ta được không? Chẳng hạn như tôi hiện nay, có vị tăng hay ni nào khởi tâm nghĩ rằng cha mẹ mình già, để cha mẹ ở nhà buồn, mình nên về nuôi dưỡng cho tròn bổn phận con hiếu. Khi khởi nghĩ như thế rồi cứ để tăng trưởng mãi trong lòng và có ý muốn rời khỏi Thiền viện. Vị tăng ấy đến thưa với tôi hết sự tình và nhờ tôi gia hộ cho chú ở lại Thiền viện tu hành. Trong trường hợp này tôi phải làm sao? Nếu tôi không cho thì vị tăng cũng lén trốn đi thôi. Cho nên việc này chỉ tự vị tăng dừng cái tâm nghĩ tưởng của mình, chớ không có cách nào khác. Tôi đơn cử ví dụ trên để cho quí vị thấy liên hệ đến bao nhiêu việc khác cũng như vậy. Nếu chúng ta lặng sạch hết những tâm danh lợi, thị phi thì không muốn giải thoát, giải thoát cũng đến. Ngượïc lại, tâm danh lợi thị phi còn thì chúng ta muốn giải thoát bằng cách cầu xin Phật, Tổ, thiện hữu tri thức cứu giúp mình cũng không làm sao giải thoát được. Việc tu hành rõ ràng như vậy.

Thêm một điều nữa, chúng ta không nên tự khi mình nghiệp nặng, tu hành không thể thành Phật được. Hiện nay, đa số Tăng, Ni, Phật tử thường mặc cảm mình thấp kém, tội lỗi… làm sao thành Phật nổi. Chúng ta không nên nghĩ như vậy. Vì sao? Vì tất cả những thứ này là cái bên ngoài. Tham sân si v.v… đều là những niệm bên ngoài, chớ không phải cái gốc. Cái gốc của chúng ta rất trong sạch. Như hình ảnh trong đây đã nói: “hoa rụng, mưa tạnh”. Hoa thì có nở có rụng, mưa thì có tuôn có tạnh. Nhưng tất cả đều tạm có, đều ở bên ngoài, nó sẽ hết, sẽ qua đi. Còn núi vẫn nguyên vẹn như xưa không đổi thay.

Tham sân si của chúng ta theo duyên dấy khởi, chợt đến chợt đi, không thật có. Riêng tính biết bình tĩnh sáng suốt an nhiên lúc nào cũng hiện tiền. Tại sao chúng ta quên, lại bỏ qua? Vì vậy, Tổ Lâm Tế có dạy: “Các ông muốn được biết Phật Tổ chăng? Chính trước mặt các ông hiện nghe pháp ấy vậy!” Tổ muốn chỉ cho chúng ta nhận ra cái chân thật nó đang hiện tiền không cần tìm cầu nơi khác. Thế nên, nếu chúng ta theo tham sân si, lệ thuộc vào nó thì chúng ta là phàm. Ngược lại, chúng ta thắng nó, không theo nó thì chúng ta là Thánh. Cái thánh đã sẵn ngay nơi mình, chỉ tại chúng ta tự chối bỏ, tự quên mất mà thôi. Vì vậy, hình ảnh “hoa rụng, mưa tạnh” hiển bày một ngọn núi xanh thật đẹp vô cùng. Chớ bảo rằng ngọn núi chỉ là một hiện hữu vô tình mà ở đó còn có tiếng chim hót, lá reo… làm cho tất cả đều thức tỉnh. Việc tu hành theo đó cũng thật hay, thật quí báu nếu chúng ta rõ biết đâu là gốc, đâu là ngọn.

*

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM