SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM
THI PHÚ HÁN NÔM (tt)
14. CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ (Phú Ở Cõi Trần Vui Đạo)
DỊCH
HỘI THỨ
NHẤT
Mình ngồi
thành thị;
Nết dùng sơn
lâm.
Muôn nghiệp
lặng an nhàn thể tánh;
Nửa ngày rồi
tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn
dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí;
Thị phi tiếng
lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước
biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý;
Biết đào hồng,
hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
Nguyệt bạc
vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng;
Liễu mềm hoa
tốt, ngất quần sanh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt,
ước phi thăng, đan thần mới phục;
Nhắm trường
sanh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đâm.
Sách dịch xem
chơi, yêu tánh sáng yêu hơn châu báu;
Kinh nhàn đọc
dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.
HỘI THỨ HAI
Biết vậy!
Miễn được lòng
rồi;
Chẳng còn phép
khác.
Gìn tánh sáng
tánh mới hầu an;
Nén niềm vọng,
niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân
ngã thì ra tướng thật kim cang;
Dừng hết tham
sân mới lảu lòng mầu viên giác.
Tịnh độ là
lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến tây phương;
Di-đà là tánh
sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.
Xét thân tâm,
rèn tánh thức, há rằng mong quả báo phô khoe;
Cầm giới hạnh,
địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.
Ăn rau ăn
trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay;
Vận giấy vận
sồi, thân căn có ngại chi đen bạc.
Nhược chỉn vui
bề đạo đức, nửa gian lều quí nữa thiên cung;
Dầu hay mến
thửa nhân nghì, ba phiến ngói u hơn lầu gác.
HỘI THỨ BA
Nếu mà cốc,
Tội ắt đã
không;
Phép học lại
thông.
Gìn tánh sáng,
mựa lạc tà đạo;
Sửa mình học,
cho phải chánh tông.
Chỉn Bụt là
lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ;
Vong tài đối
sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công.
Áng tư tài
tánh sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử;
Răn thanh sắc
niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông.
Trần tục mà
nên, phúc ấy càng yêu hết tấc;
Sơn lâm chẳng
cốc, họa kia thực cả đồ công.
Nguyền mong
thân cận minh sư, quả bồ-đề một đêm mà chín;
Phúc gặp tình
cờ tri thức, hoa ưu-đàm mấy kiếp đơm bông.
HỘI THỨ TƯ
Tin xem;
Miễn cốc một
lòng;
Thì rồi mọi
hoặc.
Chuyển tam độc
mới chứng tam thân;
Đoạn lục căn
nên trừ lục tặc.
Tìm đường hoán
cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan;
Hỏi phép chân
không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.
Biết chân như,
tin Bát-nhã, chớ còn tìm Phật Tổ Tây Đông;
Chứng thật
tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc.
Xem Tam tạng
giáo, ắt học đòi Thiền uyển thanh qui;
Đốt ngũ phần
hương, chẳng tốn đến chiên-đàn chiêm-bặc.
Tích nhân
nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích-ca;
Cầm giới hạnh,
đoạn ghen tham, chỉn thật ấy là Di-lặc.
HỘI THỨ NĂM
Vậy mới hay!
Bụt ở cong
nhà;
Chẳng phải tìm
xa.
Nhân khuây bản
nên ta tìm Bụt;
Đến cốc hay
chỉn Bụt là ta.
Thiền ngỏ năm
câu, nằm nhãng cong quê Hà hữu;
Kinh xem ba
bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La.
Trong đạo
nghĩa, khoảng cơ quan, đà lọt lẫn trường Kinh cửa Tổ;
Lánh thị phi,
ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa.
Đức Bụt từ bi,
mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Ơn Nghiêu
khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha.
Áo miễn chăn
đầm ấm qua mùa, hoặc chằm hoặc xể;
Cơm cùng cháo
đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa.
Ngăn bát thức,
nén bát phong, càng đè càng bội;
Lẫy tam huyền,
nong tam yếu, một cắt một ma.
Cầm vốn thiếu
huyền, xá đàn dấu xoang vô sanh khúc;
Địch chăng có
lỗ, cũng bấm chơi xướng thái bình ca.
Lẫy cội tìm
cành, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão;
Quay đầu chấp
bóng, ắt kham cười Diễn-nhã-đạt-đa.
Lọt quyện kim
cương, há mặt hầu thông nên nóng;
Nuốt bồng lật
cức, nào tay phải xước tượng da.
HỘI THỨ SÁU
Thật thế!
Hãy xá vô tâm;
Tự nhiên hợp
đạo.
Dừng tam
nghiệp mới lặng thân tâm;
Đạt một lòng
thì thông Tổ giáo.
Nhận văn giải
nghĩa, lạc lài nên Thiền khách bơ vơ;
Chứng lý tri
cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo.
Han hữu lậu,
han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, duộc thưng;
Hỏi Đại thừa,
hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ gáo.
Nhận biết làu
làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên;
Chùi cho vặc
vặc tánh gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo.
Vàng chưa hết
quặng , xá tua chín phen đúc chín phen rèn;
Lộc chẳng còn
tham, miễn được một thì chay một thì cháo.
Sạch giới
lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ-tát trang nghiêm;
Ngay thờ chúa,
thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
Tham thiền kén
bạn, nát thân mình mới khá hồi ân;
Học đạo thờ
thầy, dọt xương óc chưa thông của báo.
HỘI THỨ BẢY
Vậy mới hay;
Phép Bụt trọng
thay;
Rèn mới cốc
hay.
Vô minh hết
bồ-đề thêm sáng;
Phiền não rồi
đạo đức càng say.
Xem phỏng lòng
kinh, lời Bụt thốt dễ cho thấy dấu;
Học đòi cơ tổ,
sá thiền không khôn chút biết nay (nơi).
Cùng căn bản,
rủa trần duyên mựa để mấy hào ly đương mặt;
Ngã thắng
chàng, viên tri kiến, chớ cho còn họa trữ cong tay.
Buông lửa giác
ngộ, đốt hoại thảy rừng tà ngày trước;
Cầm kiếm trí
tuệ, quét cho không tánh thức thuở nay.
Vâng ơn thánh,
xót mẹ cha, thờ thầy học đạo;
Mến đức Cồ,
kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.
Cảm đức từ bi,
để nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Đội ơn cứu độ,
nát muôn thân thà chịu đắng cay.
Nghĩa hãy nhớ,
đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo;
Miệng rằng
tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay.
HỘI THỨ TÁM
Chưng ấy:
Chỉn xá tua
rèn;
Chớ nên tuyệt
học.
Lay ý thức chớ
chấp chằng chằng;
Nén niềm vọng
mựa còn xóc xóc.
Công danh mảng
đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ;
Phúc tuệ gồm
no, chỉn mới khá nên người thực cốc.
Dựng cầu đò,
giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;
Săn hỉ xả,
nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc.
Rèn lòng làm
Bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài;
Đãi cát kén
vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc.
Xem kinh đọc
lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay;
Trọng Bụt tu
thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc.
Cùng nơi ngôn
cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo;
Rất thửa cơ
quan, mựa còn để tám hơi lọt lọc.
HỘI THỨ
CHÍN
Vậy cho hay:
Cơ quan Tổ
giáo;
Tuy khác nhiều
đàng,
Chẳng cách mấy
gang.
Chỉn xá nói từ
sau Mã Tổ;
Ắt đã quên
thuở trước Tiêu hoàng.
Công đức toàn
vô, tánh chấp si càng thêm lỗi;
Khuếch nhiên
bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang.
Sanh Thiên
Trúc, chết Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ;
Thân bồ-đề,
lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang.
Vương lão chém
mèo, lạt trẩy lòng ngừa thủ tọa;
Thầy Hồ khua
chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng.
Chợ Lư Lăng
gạo mắc quá ư, chẳng cho mà cả;
Sở Thạch Đầu
đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang.
Phá Táo cất
cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu;
Câu Chi day
ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang.
Lưỡi gươm Lâm
Tế, nạng Bí Ma, trước nạp tăng no dầu tự tại;
Sư tử ông
Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang.
Đưa phiến tử,
cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn;
Xô hòn cầu,
cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang.
Thuyền tử rà
chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy;
Đạo Ngô múa
hốt, càn ma dường thấy quái quàng.
Rồng Yển lão
nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ;
Rắn ông Tồn
ngang thế giới người thấy ắt giang (giương).
Cây bách là
lòng, thác ra trước phải phương Thái bạch;
Bính đinh
thuộc hỏa, lại trở sau lỗi hướng Thiên cang.
Trà Triệu lão,
bánh Thiều Dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát;
Ruộng Tào Khê,
vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang.
Gieo bó củi,
nẩy bông đèn, nhân mang mới nát;
Lộc đào hoa,
nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.
HỘI THỨ
MƯỜI
Tượng chúng
ấy,
Cốc một chân
không;
Dùng đòi căn
khí.
Nhân lòng ta
vướng chấp khôn thông;
Há cơ tổ nay
còn thửa bí.
Chúng Tiểu
thừa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành;
Đấng Thượng sĩ
chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị.
Núi hoang rừng
quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao;
Chiền vắng am
thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí.
Ngựa cao tán
cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu
vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí.
Chuộng công
danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm ngu;
Say đạo đức,
dời thân tâm, định nên thánh trí.
Mày ngang mũi
dọc, tướng tuy lạ xem ắt bẵng nhau;
Mặt Thánh lòng
phàm, thật cách nhẫn vàn vàn thiên lý.
Kệ rằng:
Cư
trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ
tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch thơ:
Ở
trần vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Giảng:
Hôm nay chúng
ta học về văn nôm của ngài Trúc Lâm Đại đầu-đà. Bài “Cư Trần Lạc Đạo Phú”
tức là bài phú ở cõi trần vui với đạo. Xét theo mạch văn trong đây chúng
ta có thể biết Ngài sáng tác bài phú này trong thời gian sáu năm làm Thái
thượng hoàng, tức là còn cư sĩ ở ngôi Thái thượng để hướng dẫn cho con là
vua Anh Tông trị vì, nên nói Cư trần lạc đạo nghĩa là tuy ở ngôi vị vua
chúa là ở trong trần mà vẫn vui với đạo, không quên lãng hay bị chi phối
bởi việc đời. Do đó bài phú này rất có giá trị với người tu tại gia và
cũng để nhắc nhở cho người xuất gia.
* |