SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM
THI PHÚ HÁN NÔM (tt)
GIẢNG (tt)
15. ĐẮC THÚ LÂM TUYỀN THÀNH ĐẠO CA
(bài ca Được
Thú Lâm Tuyền Thành Đạo)
Sanh có nhân thân,
Ấy
là họa cả;
Ai
hay cốc được,
Mới ốc là đã.
Tuần này mà ngẫm,
Ta
lại xá ta;
Đắc ý cong lòng,
Cười riêng ha hả.
Công danh chẳng trọng,
Phú quí chẳng màng;
Tần Hán xưa kia,
Xem đà nhèn hạ.
Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân;
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn mừng hủ hỉ,
Làm bạn cùng ta;
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỉ xả.
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
Thờ phụng Bụt trời,
Đêm ngày hương hỏa.
Tụng kinh niệm Bụt,
Chúc thánh khẩn cầu;
Tam hữu tứ ân,
Ta
nguyền được bả.
Niềm lòng vằng vặc,
Giác tánh quang quang;
Chẳng còn bỉ thử,
Tranh nhân chấp ngã.
Trần duyên rũ hết,
Thị phi chẳng hề;
Rèn một tấm lòng,
Đêm ngày đon đả.
Ngồi cong trần thế,
Chẳng quản sự thay;
Vắng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.
Học đòi chư Phật,
Cho được viên thành;
Xướng khúc vô sanh,
An
thiền tiêu sá (sái).
Ai
ai xá cốc,
Bằng huyễn chiêm bao;
Xẩy tỉnh giấc hòe,
Châu rơi lã chã.
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân;
Vạn sự giai không,
Tựa dường bọt bể.
Đem mình náu tới,
Cảnh vắng ngàn kia;
Dốc chí tu hành,
Giấy sồi vó vá.
Lành người chăng chớ,
Dữ
người chăng hay;
Ngậm miệng đắp tai,
Hề
chi họa cả.
An
thân lập mệnh,
Thời tiết nhân duyên;
Cắt thịt phân cho,
Dầu là chim cá.
Thân này chẳng quản,
Bữa đói bữa no;
Địa thủy hỏa phong,
Dầu là biến hóa.
Pháp thân thường trụ,
Phổ mãn thái hư;
Hiển hách mục tiền,
Viên dung lõa lõa.
Thiền tông chỉ thị,
Mục kích đạo tồn;
Không cốc truyền thanh,
Âm
hưởng ứng dã.
Phô người học đạo,
Vô
số nhiều thay;
Trúc hóa nên rồng,
Một hai là họa.
Bởi lòng vờ vịt,
Trỏ Bắc làm Nam;
Nhất chỉ đầu thiền,
Sát-na hết cả.
Kệ rằng:
Cảnh tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm.
Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển,
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm (kim).
Dịch:
Sống yên giữa cảnh lặng lòng không,
Gió mát hiu hiu lọt bóng thông.
Dưới gốc, giường thiền, kinh một quyển,
Thanh nhàn hai chữ; đáng muôn đồng.
HUỆ CHI
Giảng:
Đây là bài ca
Được Thú Lâm Tuyền Thành Đạo.
Bài “Cư Trần
Lạc Đạo Phú” (bài Phú Ở Trong Cõi Trần Mà Vui Với Đạo) là bài phú vua Trần
Nhân Tông làm khi đang ở địa vị Thái thượng hoàng, còn bài “Đắc Thú Lâm
Tuyền Thành Đạo Ca” là khi Ngài xuất gia, lên ở trên núi rừng, Ngài được
niềm vui ngộ đạo nên làm bài ca này. Chỉ đọc tựa đề chúng ta cũng thấy
được tâm trạng Ngài đối với sự tu hành. Thú là đến, lâm là rừng, tuyền là
suối, tức là lên được trên núi rừng suối tu rồi thành đạo nên làm bài ca
này.
Sanh có nhân thân,
Ấy
là họa cả;
Ai
hay cốc được,
Mới ốc là đã.
Phàm người
sanh ra, có thân này ấy là họa lớn. Có thân là họa dù là thân một ông vua
cũng là họa như thường. Tại sao? Vì có thân thì có bệnh, già, chết, đó là
họa! Thế mà con người lại quên họa đó, cứ nghĩ thân này là quí trọng, nhất
là khi được địa vị cao sang làm vua, làm quan lại càng quí trọng thân hơn
nữa. Nhưng với cái nhìn của Ngài thì có thân là họa. Ai hay cốc được là ai
hay biết được như vậy. Mới ốc là đã. Ốc là gọi, đã là thấu suốt, là thông
hiểu. Người nào biết rõ được thân này là họa, đó mới gọi là người thấu
suốt, hiểu thông được nghĩa đạo. Như vậy qua bốn câu này Ngài nói với
chúng ta: Ai sanh ra có thân đều là phải khổ sanh già bệnh chết nên nó là
họa chớ không phải là điều sung sướng, hạnh phúc. Nếu ai thấu hiểu được lẽ
này mới gọi là người thông hiểu lý đạo.
Tuần này mà ngẫm,
Ta
lại xá ta;
Đắc ý cong lòng,
Cười riêng ha hả.
Tuần này mà
ngẫm là trong thời gian được lên ở núi rừng này mà suy gẫm. Ta lại xá ta,
xá là kính là quí. Nghĩa là ở trong hoàn cảnh sang cả, hưởng đủ hạnh phúc
thế gian mà không màng, bỏ cả ngai vàng, bỏ hết sang giàu phú quí, đi lên
rừng núi tu, gẫm lại ta cũng phục ta. Ngài thì đáng phục chớ chúng ta thì
không phục mình được phải không? Đắc ý cong lòng, cười riêng ha hả. Cong
là trong. Ngẫm như thế rồi, trong lòng đắc ý nên ngồi cười ha hả. Như vậy
chúng ta thấy một vị vua đang ở triều đình, ngồi trên ngai vàng đủ cả
quyền uy mà gan dạ bỏ lên rừng núi ngồi yên tu, rồi gẫm lại Ngài phục Ngài
quá nên ngồi cười ha hả. Trái lại chúng ta lên rừng núi rồi, nhiều khi
cũng còn tiếc thành thị. Thành thị của ai mà tiếc? Còn chính Ngài là người
làm chủ, trong địa vị vua chúa mà bỏ được lên rừng núi ngồi ngẫm lại thì
cười thích. Tâm niệm đó thật là ít có!
Công danh chẳng trọng,
Phú quí chẳng màng;
Tần Hán xưa kia,
Xem đà nhèn hạ.
Ngài xét thấy
đối với công danh Ngài không trọng, đối với phú quí Ngài cũng chẳng màng.
Tại sao? Vì như thuở xưa đời Tần đời Hán bên Trung Hoa, rốt cuộc rồi cũng
là nhèn hạ. Nhèn là hèn. Rốt cuộc rồi cũng đều là kẻ hèn hạ chớ có được gì
cao siêu đâu. Như vậy ở Trung Hoa đời Tần đời Hán là hai đời nổi tiếng
thời cổ mà cuối cùng cũng không ra gì. Xét như vậy Ngài thấy công danh phú
quí không đáng cho mình phải bận tâm.
Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân;
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Thế nên Ngài
mới yên bề phận khó, khó là nghèo. Nghĩa là yên bề làm kẻ nghèo hèn. Kiếm
chốn dưỡng thân là tìm lên núi rừng ở tu. Khuất tịch non cao là ở trên non
cao vắng vẻ. Náu mình sơn dã là ẩn mình nơi núi rừng.
Vượn mừng hủ hỉ,
Làm bạn cùng ta;
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỉ xả.
Nay ở trên
rừng núi vui với khỉ vượn, vượn mừng hủ hỉ. Khỉ vượn làm bạn thân hủ hỉ
qua ngày chớ không còn ai khác. Vắng vẻ ngàn kia, thân lòng hỉ xả. Ngàn là
rừng, nhờ ở trong cảnh yên vắng nơi rừng núi mà thân và tâm vui vẻ buông
bỏ hết không còn bận bịu điều gì. Quí vị nghĩ một ông vua ở trong triều,
những cảnh đẹp những thú vui đầy tràn trước mắt nhưng không thích hưởng,
lại lên trên rừng núi ở, vui với khỉ vượn, lòng thanh thản nhẹ nhàng buông
bỏ tất cả. Kiểm lại người hiện nay tu hành ra sao? Nhiều khi lên được chỗ
núi rừng tu nhưng lâu lâu ngồi cũng nhớ thành thị, nhớ đủ việc, còn Ngài
trong cảnh hết sức sang trọng mà khi lên rừng núi lại vui thích.
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
Thờ phụng Bụt trời,
Đêm ngày hương hỏa.
Ngài lên trên
núi làm gì? Làm kẻ thanh nhàn vô sự không phải bận bịu lo nghĩ điều gì.
Việc làm của Ngài ở trên núi như thế nào? Quét tước đài hoa là quét chỗ
đài sen thờ Phật. Thờ phụng Bụt trời. Bụt là Phật, nghĩa là thờ phụng Phật
trời. Đêm ngày hương hỏa là ngày đêm thắp hương, đốt đèn cúng Phật.
Tụng kinh niệm Bụt,
Chúc thánh khẩn cầu;
Tam hữu tứ ân,
Ta
nguyền được bả.
Tam hữu là ba
cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Tứ ân là bốn ơn: Ơn Phật, ơn thầy
Tổ, ơn cha mẹ, ơn quốc gia hay là ơn Phật, ơn cha mẹ, ơn đàn-na thí chủ,
ơn quốc gia. Chữ bả là trả. Nghĩa là ngày đêm tụng kinh niệm Phật nguyền
trả được bốn ân ba cõi, đó là sở nguyện của Ngài.
Đến nội tâm:
Niềm lòng vằng vặc,
Giác tánh quang quang;
Chẳng còn bỉ thử,
Tranh nhân chấp ngã.
Niềm lòng vằng
vặc, niềm là niệm, vằng vặc là sáng. Nghĩa là những niệm khởi trong lòng
đều lặng lẽ, không còn lăng xăng che lấp nữa. Giác tánh quang quang tức là
tánh giác sáng rỡ rỡ. Chẳng còn bỉ thử là chẳng còn kia đây. Tranh nhân
chấp ngã là không còn sự tranh chấp qua lại là ta là người nữa. Như vậy
qua bốn câu này chúng ta thấy được nội tâm của Ngài khi tu trên núi, lòng
Ngài lặng lẽ trong sáng, tánh giác hiện tiền sáng rỡ, dứt sạch tâm bỉ thử,
nhân ngã, chấp mình khinh người.
Trần duyên rũ hết,
Thị phi chẳng hề;
Rèn một tấm lòng,
Đêm ngày đon đả.
Trần duyên rũ
hết là những duyên trần rũ sạch, không còn đeo mang nữa. Thị phi chẳng hề
là chuyện phải quấy cũng không nghĩ bàn, không bận lòng. Như vậy khi tu
thì rũ hết trần duyên, không còn nghĩ về thị phi. Đối với quí vị hai câu
này dễ làm không? Trần duyên đã rũ sạch chưa? Chỉ rũ độ phân nửa nên cũng
còn bận bịu một chút. Thế nên quí vị thấy việc tu cũng đơn giản, nhưng vì
chúng ta không chịu đơn giản, vẫn còn muốn phiền hà nên rồi đeo mang.
Rèn một tấm
lòng, đêm ngày đon đả. Đon đả là săn đón, là sốt sắng. Nghĩa là đêm ngày
luôn luôn sốt sắng rèn tấm lòng mình được trong sạch.
Ngồi cong trần thế,
Chẳng quản sự thay;
Văng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.
Cong là trong.
Ngồi cong trần thế, chẳng quản sự thay là ngồi trong cõi đời mà chẳng quản
nệ gì sự đời thay đổi, mặc nó hay, mặc nó dở, không màng tới. Văng vẳng
ngàn kia, dầu lòng dong thả. Dong là thong. Ở miền rừng núi lặng lẽ mặc
tình lòng mình được thong thả. Như vậy tuy vẫn còn sống trên cõi đời nhưng
những gì thay đổi của cuộc đời, mình không bận tâm đến, nơi núi rừng vắng
vẻ lòng mình mặc tình thong thả an vui.
Học đòi chư Phật,
Cho được viên thành;
Xướng khúc vô sanh,
An
thiền tiêu sá (sái).
Nay Ngài học
theo ai? Học đòi chư Phật, cho được viên thành. Học theo chư Phật để làm
sao cho mình cũng được viên thành Phật quả. Khi ấy xướng khúc vô sanh,
nghĩa là thổi bản nhạc vô sanh. An thiền là cảnh thiền được an, tiêu sá là
tiêu sái tức là tự do tự tại. An thiền tiêu sá là nơi cảnh thiền được an
tĩnh thảnh thơi tự tại.
Ai
ai xá cốc,
Bằng huyễn chiêm bao;
Xẩy tỉnh giấc hòe,
Châu rơi lã chã.
Ai ai xá cốc
là mỗi người phải nên biết. Bằng huyễn chiêm bao, cuộc sống trên thế gian
này giống như giấc mộng, như huyễn thuật, không có gì thật. Xẩy tỉnh giấc
hòe là chợt tỉnh giấc mộng. Giấc hòe là chuyện một người ngủ mê dưới gốc
hòe, mộng thấy thi đỗ, được vua chọn làm phò mã, được làm quan… Nhưng khi
thức tỉnh rồi thì châu rơi lã chã, nghĩa là nước mắt rơi lã chã, thấy cuộc
đời là chiêm bao, là ảo mộng, có gì thật đâu mà thế gian lại mê say!
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân;
Vạn sự giai không,
Tựa dường bọt bể.
Cốc hay thân
huyễn là biết hay thân này như huyễn như hóa, chẳng khác phù vân, chẳng
khác mây nổi, chợt thấy đó rồi tan đó, không có gì lâu dài. Vạn sự giai
không là muôn việc đều trở thành không. Tựa dường bọt bể, giống như bọt
ngoài biển cả, thấy một chùm, một khối rồi một cơn sóng vỗ nó tan nát,
không có gì thật.
Đem mình náu tới,
Cảnh vắng ngàn kia;
Dốc chí tu hành,
Giấy sồi vó vá.
Vó vá là may
vá hay chắp vá. Nghĩa là đem mình ẩn nơi cảnh rừng núi vắng vẻ yên tĩnh
dốc chí tu hành, có khi lấy giấy dán có khi dùng chỉ gai thô kết lại để
mặc chớ không dùng y phục tốt đẹp.
Lành người chăng chớ,
Dữ
người chăng hay;
Ngậm miệng đắp tai,
Hề
chi họa cả.
Những câu này
chúng ta phải thuộc. Lành người chăng chớ, chăng chớ là chẳng có để ý đến.
Người được điều gì hay tốt mình không bận nhớ nghĩ. Dữ người chăng hay là
người dữ mình cũng không cần biết. Tóm lại cái hay của người cũng không
màng, cái dữ của người cũng không cần biết. Ngậm miệng đắp tai, ngậm miệng
là im lìm không nói, đắp tai là không thèm nghe. Hề chi họa cả, có cái gì
là họa đâu. Chúng ta hiện nay thế nào? Vì lành người thì chớ, dữ người thì
hay nên rồi miệng mở tai nghe, do đó họa cả đến liên tục. Nếu chúng ta
được như Ngài dạy thì họa không đến với mình.
An
thân lập mệnh,
Thời tiết nhân duyên;
Cắt thịt phân cho,
Dầu là chim cá.
Người tu tìm
được nơi non cao yên ẩn tu hành, đó là an thân lập mệnh. Tùy theo thời
tiết nhân duyên cố gắng tu rồi có ngày được sáng. Khi ấy đối với chúng
sanh chung quanh cắt thịt phân cho, sẵn sàng bố thí cả thân mạng, dù là
chim cá mình cũng sẵn lòng. Khi đã quyết tâm ẩn tu nơi rừng núi thì không
còn quí tiếc thân nữa.
Thân này chẳng quản,
Bữa đói bữa no;
Địa thủy hỏa phong,
Dầu là biến hóa.
Những câu này
quí vị phải ráng thuộc. Thân này chẳng quản nghĩa là không màng tới, nó
muốn bệnh, muốn đau gì mặc nó không có gì quan trọng. Bữa đói bữa no cũng
được, đừng nói bữa nay sao tri khố cho ăn dở quá! Địa thủy hỏa phong, dầu
là biến hóa. Nhớ thân này do bốn đại đất nước gió lửa hợp lại, mặc tình nó
muốn đổi thay, còn cũng tốt, tan rã cũng xong, không bận bịu lo buồn. Đó
là chỗ chân thành của người tu. Chúng ta có được như thế chưa, hay tứ đại
vừa rung rinh là đã khổ sở?
Pháp thân thường trụ,
Phổ mãn thái hư;
Hiển hách mục tiền,
Viên dung lõa lõa.
Như vậy thân
tứ đại này tùy nó còn mất không có gì quan trọng, việc quan trọng của
chúng ta là phải nhận ra pháp thân thường trụ. Pháp thân thường trụ đó đầy
dẫy khắp cả thái hư, rõ ràng trước mắt, viên dung lõa lõa. Lõa lõa là xán
lạn. Pháp thân đó viên dung xán lạn.
Tóm lại Ngài
nói đối với thân tứ đại, dù nó đói no bệnh hoạn gì cũng không quan trọng,
mà điều quan trọng là chúng ta phải nhận thấy được pháp thân thường trụ để
rồi ứng dụng sống, thấy nó hiện tiền rõ ràng xán lạn.
Thiền tông chỉ thị,
Mục kích đạo tồn;
Không cốc truyền thanh,
Âm
hưởng ứng dã.
Nói về Thiền
tông chỉ dạy, Ngài bảo như thế nào? Mục kích đạo tồn là mắt thấy đạo hiện
tiền, tức là đạo ở ngay trước mắt chớ không phải ở đâu xa. Không cốc
truyền thanh, âm hưởng ứng dã, nghĩa là hang trống dội tiếng, chỉ là âm
hưởng. Chúng ta học thiền chủ yếu là phải nhận ra ngay cái thực tế cụ thể
hiện trước mắt, chớ không phải chỉ theo âm thanh hay tiếng tăm. Âm thanh
tiếng tăm là cái hư dối không thật, chúng ta phải nhận ra cái thật ngay
nơi mình.
Phô người học đạo,
Vô
số nhiều thay;
Trúc hóa nên rồng,
Một hai là họa.
Phô là so. Vô
số nhiều thay là nhiều vô số. Nghĩa là người học đạo, người đi tu tính ra
thì rất là nhiều. Trúc hóa nên rồng, một hai là họa. Nhưng người được như
cây trúc mà hóa nên rồng tức người đạt đạo thì chỉ có một hoặc hai người
thôi. Như vậy người đi tu thì đông vô số nhưng người đạt đạo thì họa là có
một hoặc hai. Những câu này cho chúng ta thấy rõ người tu không phải ai
cũng đến được chỗ cứu kính, đến được chỉ có một hai người. Tại sao?
Bởi lòng vờ vịt,
Trỏ bắc làm nam;
Nhất chỉ đầu thiền,
Sát-na hết cả.
Bởi lòng vờ
vịt. Vờ vịt tức là nghi ngờ. Bởi lòng mình nghi ngờ, không nhận thấy,
không thấu suốt, cứ quờ quạng, tức là mờ mờ tối tối không biết rõ ràng.
Trỏ bắc làm nam, người chỉ phương bắc mình nói là phương nam, hoàn toàn
sai lầm. Như vậy chúng ta tu nhưng không được thành công vì trong lòng
chúng ta còn mờ mịt, sai lầm. Thế nên Nhất chỉ đầu thiền, sát-na hết cả.
Chỉ là ngón tay. Chỉ cần một ngón tay thiền trong khoảng sát-na thì hết
sạch, không có gì cả. Ngón tay thiền là sao? Đây là dẫn chuyện ngài Câu
Chi. Hỏi thế nào là Phật, Ngài đưa một ngón tay. Hỏi thế nào là đạo, Ngài
cũng đưa một ngón tay thôi. Một ngón tay là gì? Là chân kinh nhất tự. Chỉ
cần nhận ra thiền một ngón tay thì mọi nghi ngờ đều tan hết. Hiểu như thế
mới thấy tại sao ai hỏi gì cũng đưa một ngón tay. Đó là chân kinh nhất tự,
đừng nghĩ là trò đùa.
Tóm lại, ý
Ngài muốn nói người tu được đến nơi đến chốn thì rất ít, còn tu loạng
choạng ở giữa đường thì quá nhiều. Sở dĩ quá nhiều là vì đối với đạo chúng
ta còn mờ mịt lầm lẫn chưa nhận rõ. Nếu một phen nhận rõ được nhất tự rồi
thì trong sát-na tan hết những nghi ngờ lo tính.
Ngài kết thúc
bằng bốn câu kệ chữ Hán:
Cảnh tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm.
Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển,
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm (kim).
Có hai bản
dịch:
Bản dịch của
Hoàng Xuân Hãn.
Cảnh vắng nằm yên thoải mái lòng,
Gió hiu thổi lọt bóng rừng thông.
Giường thiền bên cỗi kinh một quyển,
Hai chữ thanh nhàn vàng chẳng đồng.
Bản dịch của
Huệ Chi.
Sống yên giữa cảnh lặng lòng không,
Gió mát hiu hiu lọt bóng thông.
Dưới gốc, giường thiền, kinh một quyển,
Thanh nhàn hai chữ đáng muôn đồng.
Chữ muôn đồng
tức là muôn đồng tiền. Vàng chẳng đồng tức là vàng còn thua. Như vậy bản
Hoàng Xuân Hãn dịch câu “lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm” là “hai chữ
thanh nhàn vàng chẳng đồng” sát nghĩa, dễ hiểu hơn.
Tôi giải thích
toàn bài. Cảnh tịch an cư tự tại tâm, yên ở trong cảnh lặng lẽ, tâm rất là
tự tại. Lương phong xuy đệ nhập tùng âm. Lương phong là gió mát, xuy đệ là
thổi qua, nhập tùng âm là vào bóng của cây tùng. Nghĩa là khi chúng ta ở
trong cảnh an tịnh, tâm tự tại rồi thì nghe gió mát thổi vào bóng cây
tùng. Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển, nghĩa là giường thiền ở dưới cây
thông và một quyển kinh. Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm, hai chữ thanh
nhàn còn hơn muôn lượng vàng. Muôn lượng vàng không đổi được hai chữ thanh
nhàn! Chúng ta thấy tinh thần của ngài Điều Ngự Giác Hoàng là tinh thần
Thiền Giáo đồng hành, cụ thể qua câu thứ ba “Thiền sàng thụ hạ nhất kinh
quyển”, nghĩa là dưới cội cây một giường thiền, một quyển kinh. Ngài tu
thiền mà vẫn đọc kinh. Cảnh thanh nhàn đó quí hơn tất cả vàng bạc châu báu
của thế gian.
Đọc qua tiểu
sử và những tư liệu ngài Trúc Lâm Đại Đầu-đà viết còn sót lại, chúng ta
thấy Ngài là một Thiền sư rất đáng cho chúng ta tôn sùng, đồng thời cũng
đáng cho chúng ta hãnh diện. Tại sao đáng cho chúng ta tôn sùng? Vì một
con người vương giả đã bỏ tất cả công danh phú quí để vào tu chốn rừng
sâu. Nếu quí vị có ra Bắc, lên đến núi Yên Tử sẽ thấy đó là một cảnh rừng
sâu, Ngài ở tu trên đó không còn bận bịu việc đời. Một lần đi là một lần
dứt khoát, không có thái độ lưng chừng. Thế nên Ngài đã nói tất cả chuyện
hay chuyện dở của đời Ngài không màng tới, tất cả những thị phi Ngài cũng
không để ý. Ngài chỉ dồn hết tâm lực trong sự tu. Bởi dồn hết tâm lực
trong việc tu nên trong thời gian ngắn Ngài đạt được đạo. Đó là một điều
quí báu đáng cho chúng ta noi theo. Thế nên tôi nói phải có thái độ dứt
khoát. Là một ông vua, nếu còn bận bịu việc triều chính, bận bịu việc lợi
ích cho dòng họ thì chắc rằng Ngài không dứt khoát được. Thế mà Ngài quyết
tâm tu, dứt khoát buông bỏ hết, chủ yếu là đạt đạo thôi. Do đó Ngài đạt
được sở nguyện nên nói Ngài thành đạo. Khi đạt đạo rồi Ngài tùy duyên làm
lợi ích cho chúng sanh, ra đi giáo hóa khắp cả trong nước, khuyên dân tu
hành, đồng thời hướng dẫn chư Tăng tu hạnh xuất gia và một số chư Tăng, cư
sĩ tu hạnh Bồ-tát. Đó là nói về chỗ cao quí của đời Ngài.
Đến niềm hãnh
diện là: Thuở xưa, mở đầu cho Phật giáo trên thế gian này là một vị Thái
tử đã bỏ cung điện đi tu được giác ngộ thành Phật. Gần đây ở Việt Nam
chúng ta có một ông vua đi tu, cũng ngộ đạo và cũng truyền bá Phật pháp.
Như vậy một vị Thái tử đi tu và một ông vua đi tu thì hai việc đó không
hơn không kém bao nhiêu, hai vị đều ở trong hoàn cảnh sang cả mà bỏ hết để
đi tìm đạo. Như vậy đạo của Thái tử Tất-đạt-đa đi tìm phải là cao quí,
phải là siêu thoát hơn tất cả những gì cao quí của thế gian. Do đó khi
được đạo rồi Ngài đem truyền bá, ai cũng kính mến, ai cũng phục một người
bỏ hết những niềm vui, hạnh phúc của trần tục để tìm một cái gì cao quí
nhất mà trên thế gian này không gì bì được. Đến một ông vua đời Trần đi
tu, có nói lên được ý đó không? Cũng như vậy, tất cả danh vọng sang quí
của thế gian Ngài thấy không quan trọng, nó như trò chơi, như ảo mộng, chỉ
có đạo giác ngộ là trên hết, vì thế Ngài từ bỏ tất cả để đi tìm sự giác
ngộ. Một ông vua đi tu làm được việc đó có phải là niềm hãnh diện cho một
dân tộc nói chung, cho người học Phật nói riêng rằng chúng ta có một vị Tổ
xứng đáng?
Mở đầu là một
vị Thái tử đi tu thành Phật và đây là một ông vua đi tu được giác ngộ làm
Tổ, như vậy là một niềm hãnh diện của dân tộc Việt Nam, của người học Phật
Việt Nam. Thế mà từ trước đến nay chúng ta thờ ơ, không nhìn tường tận lẽ
đó, nên chủ trương của tôi là làm sống dậy Phật giáo Việt Nam, mà Phật
giáo Việt Nam tức là Phật giáo đời Trần. Tại sao? Vì Phật giáo đời Trần là
một đạo Phật cao siêu vượt ngoài tất cả cái tầm thường của thế gian. Nếu
nó tầm thường thì ông vua không đi tu. Người thế gian ai cũng mơ ước được
làm vua, vì người ta nghĩ ông vua là tột bực rồi, ở trên chỗ tột bực đó mà
không màng lại đi tìm cái khác, thì cái khác phải cao quí hơn. Vua đời
Trần, Trần Thái Tông bỏ ngôi đi tu, đến Trần Thánh Tông tuy ngồi trên ngôi
nhưng cũng vẫn tu, đến Trần Nhân Tông thì bỏ ngôi đi tu, đạt được đạo.
Phật giáo đời Trần nói lên tinh thần cao siêu của đạo Phật vượt trên tất
cả những gì trần tục. Không phải như sau này những ông quan, những ông đồ
thi rớt hay ở đời có gì trắc trở buồn chán vô chùa tu, việc đó tầm thường
quá. Còn ngay trong cảnh đầy đủ tất cả, sang quí hơn hết mà vẫn từ bỏ đi
tu, đó là đi tìm cái gì phi thường chớ không phải tầm thường. Làm sống dậy
tinh thần đó để thấy Phật giáo là một cái siêu thoát phi thường chớ không
phải tầm thường như người ta hay gán cho những người thất thời thất thế
vào chùa ẩn dương nương Phật qua ngày. Đó là chỗ mà tôi chú tâm, tôi mong
mỏi những người tu sau này phải có tinh thần cao thượng, nhìn thấy cái quí
của người trước để học hỏi theo. Nếu không thì bước vào chùa từ một con
người bỏ hết cha mẹ, gia đình, bỏ hết việc xã hội rồi lâu ngày thành một
ông thầy cúng, thật là bỏ nghề này qua nghề khác chớ không có gì cao siêu
cả. Vậy còn gì gọi là giá trị của Phật pháp. Thế nên chúng ta phải thấy
được điểm đó để nêu ra cho mọi người biết rằng Phật pháp ở Việt Nam thật
cao quí, chớ không phải tầm thường như hiện nay chúng ta thấy. Đó là điều
tôi muốn nhắc cho tất cả quí vị biết.
] |