TAM TỔ TRÚC LÂM GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

TỔ THỨ HAI PHÁI TRÚC LÂM

THIỀN SƯ PHÁP LOA

(1284 – 1330)

DỊCH

Sư tên thật là Đồng Kiên Cương, sanh năm Thiệu Bảo thứ sáu (1284) ngày mùng bảy tháng năm, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trước khi sanh Sư, thân mẫu nằm mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm, bà thích lắm nhận lấy. Từ đó, bà biết có thai. Vì trước kia bà sanh liền tám người con gái nên chán ngán, phen này bà cố tình uống thuốc phá thai, nhưng đều vô hiệu. Đến khi sanh ra Sư, bà mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Sư thiên tư dĩnh ngộ miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá.

Niên hiệu Hưng Long thứ hai (1304), Điều Ngự (Nhân Tông) dạo đi các nơi, phá dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng) và ban pháp dược, đến mạn sông Nam Sách. Sư đến lễ bái xin xuất gia, năm này Sư được hai mươi mốt tuổi. Điều Ngự trông thấy bằng lòng nói: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí, vui vẻ tự đến đây.” Ngài bèn cho hiệu là Thiện Lai, dẫn về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn cạo tóc và thọ gới Sa-di. Ngài dạy đến tham vấn với Hòa thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, Sư tìm đủ cách thưa hỏi mà không được khai ngộ. Sư tự đọc bộ kinh Hải Nhãn (có lẽ kinh Lăng Nghiêm) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ khách trần ở sau, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Sư có chỗ vào. Sư từ tạ Hòa thượng Tánh Giác, trở về tham yết với Điều Ngự.

Gặp lúc Điều Ngự thượng đường, Sư ra thưa hỏi liền được tỉnh. Điều Ngự nhận biết bèn cho Sư theo hầu hạ Ngài. Một hôm, Sư trình cả ba bài tụng, bị Điều Ngự chê cả. Sư thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham. Sư vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy bông đèn tàn rụng xuống. Sư chợt đại ngộ. Sư đem chỗ ngộ trình lên Điều Ngự. Ngài thầm nhận ấn khả. Từ đây, Sư thệ tu theo mười hai hạnh Đầu-đà (khổ hạnh).

Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Điều Ngự đem Sư lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát. Thấy chỗ tham học của Sư đã thành đạt, Điều Ngự cho hiệu là Pháp Loa.

Năm Hưng Long thứ mười lăm, Sư được hai mươi bốn tuổi, Điều Ngự trụ ở am Thiên Bảo Quan có bảy tám người thị giả mà Sư là đứng đầu. Điều Ngự vì Sư giảng Đại Huệ Ngữ Lục. Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bố-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự đuổi mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Sư dạy khéo gìn giữ.

Năm Hưng Long thứ mười sáu (1308) vào ngày mùng một tháng giêng, Sư vâng lệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp trụ trì tại nhà Cam Lồ chùa Siêu Loại. Khai lễ có vua Anh Tông và đình thần đến dự. Điều Ngự lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Sư giảng đạo. Lễ xong, Điều Ngự đặt Sư kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử, là đời thứ hai của phái Trúc Lâm. Điều Ngự còn trao cho Sư hơn hai trăm bộ kinh sử và bảo Anh Tông sung cúng vào chùa cả trăm khoảnh ruộng.

Tháng mười một năm ấy (1308), Điều Ngự tịch, Sư phụng mạng cung nghinh xá-lợi về kinh đô. Trở về núi, Sư soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.

Năm Hưng Long thứ mười chín (1311), Sư phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh. Sư giao Bảo Sát làm chủ việc này. Tháng tư, Sư giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó Huyền Quang trình kiến giải, Sư đều chấp nhận.

Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (1313) vào tháng chín, Sư phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang định chức cho tăng đồ. Chúng tăng từ đây mới có sổ bộ, chính Sư là người cầm sổ bộ ấy. Lúc đó, Sư độ hơn một ngàn vị tăng. Về sau cứ ba năm một lần độ tăng như thế.

Năm Đại Khánh thứ tư (1317) đời Trần Minh Tông, vào tháng hai, Sư bệnh nặng. Sư đem y của Điều Ngự và viết bài tâm kệ trao cho Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít hôm, bệnh Sư được lành.

Những hàng Thái hậu, Công chúa, Vương công, quí khanh đều thỉnh Sư truyền giới xuất gia hoặc giới Bồ-tát, cho đến vua Trần Anh Tông cũng xem như đệ tử. Họ đua nhau cúng đất, vàng, tiền để Sư lập chùa, đúc tượng Phật, in kinh quá nhiều, đến nỗi Sư phải tự xin giảm dần những số quyên cúng, thuyền của vua cấp cho Sư tiện việc đi lại và về kinh đô, Sư cũng từ chối không nhận.

Năm đầu Khai Hựu (1329), đời Trần Hiến Tông, Sư mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn, làm thành danh lam thắng cảnh. Sư có làm bài thơ đề là Luyến Thanh Sơn:

Âm:     Sơ sấu cùng thu thủy

            Sàm nham lạc chiếu trung

            Ngang đầu khán bất tận

            Lai lộ hựu trùng trùng.

Dịch:   Thưa gầy làn nước vút,

            Chót vót ánh soi trong.

            Ngẩng đầu coi chẳng hết,

            Đường tới lại trùng trùng.

                                    Trần Tuấn Khải

Gần mãn đời Sư, kiểm những công tác Phật sự: đúc tượng Phật kể cả lớn và nhỏ có hơn một ngàn ba trăm (1300) vị; tạo đại già-lam được hai ngôi; xây tháp được năm ngọn; lập tăng đường hơn hai trăm (200) sở; độ tăng và ni hơn một muôn năm ngàn (15.000) người; in được một bộ Đại Tạng Kinh; đệ tử đắc pháp hơn ba ngàn (3.000) người; thành Đại Pháp sư có sáu vị.

Năm Khai Hựu thứ hai (1330) ngày mùng năm tháng hai, Sư phát bệnh, trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc tàng viện. Đến ngày mười một thì bệnh rất nặng. Ban đêm Huyền Quang đứng hầu, thấy Sư ngủ mà nói ra tiếng: Hồng! Hồng!

Huyền Quang liền thưa:- Tôn giả nói mớ chăng?

Sư đáp:- Ngủ thì nói mớ, chẳng ngủ thì chẳng nói mớ.

 Huyền Quang:- Đâu thể ngủ với thức là một.

Sư bảo:- Ngủ với thức là một.

Huyền Quang:- Đâu thể bệnh cùng chẳng bệnh là một?

Sư bảo:- Bệnh cũng chẳng có can gì y, chẳng bệnh cũng chẳng can gì y.

Huyền Quang:- Tại sao lại có tiếng nói ra ngoài?

Sư bảo:- Nghe tiếng gió thổi cây thì thế nào?

Huyền Quang:- Tiếng gió thổi cây, người nghe chẳng lầm, trong khi ngủ mà nói mớ thì dễ lầm người.

Sư bảo:- Người ngu cũng vẫn lầm tiếng gió thổi cây.

Huyền Quang:- Chỉ một bệnh này đến chết cũng chẳng mạnh.

Sư bèn đạp. Huyền Quang lui ra.

Từ đây bệnh lại giảm xuống. Đến ngày mười ba, Sư trở về viện Quỳnh Lâm nơi phương trượng cũ mà nằm. Đệ tử các nơi dồn về thưa hỏi xin kệ. Sư vẫn đối đáp và tùy người cho kệ không biết mệt mỏi.

Đến ngày mùng một tháng ba, Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân đến thăm bệnh và gọi Thái y đến trị cho Sư.

Đến tối mùng ba bệnh Sư trở lại nặng.

Huyền Quang thưa:- Xưa nay đến chỗ ấy, buông đi là tốt hay nắm lại là tốt?

Sư bảo:- Thảy đều không can hệ.

Huyền Quang:- Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?

Sư bảo:- Tùy xứ tát-bà-ha.

Đệ tử đồng đến thỉnh:- Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ dạy đệ tử sao riêng Thầy không có?

Sư quở trách họ. Giây lâu bèn ngồi dậy bảo đem giấy viết lại. Sư viết một bài kệ:

Âm:     Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,

            Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.

            Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,

            Na biên phong nguyệt cánh man khoan.

Dịch:   Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn,

            Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng.

            Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,

            Bên kia trăng gió rộng thênh thang.

Viết xong, Sư ném bút, an nhiên thị tịch, thọ bốn mươi bảy tuổi. Đệ tử theo lời phó chúc của Sư, đem nhục thể lên nhập tháp tại Thanh Mai Sơn.

Đến ngày mười một tháng ba, Thái thượng hoàng ngự bút ban hiệu Sư là TỊNH TRÍ TÔN GIẢ, tháp tên VIÊN THÔNG, tặng mười lượng vàng để xây tháp và đề một bài thi vãn:

Âm:     Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên,

            Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền.

            Thanh Sơn mạn thảo quan tàng lý,

            Bích thọ thâm sương xác thuế thiền.

            Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt,

            Hiểu mê trượng thất hữu vô yên.

            Tương đầu châm giới ta phi tích,

            Trác tựu ai chương thế lệ huyền.

Dịch:   Đã hết duyên trần thõng tay đi,

            Giác Hoàng kim tuyến được truyền y.

            Thanh Sơn cỏ mọc che phần mộ,

            Cây biếc trong sương để xác ve.

            Đêm phủ giảng đường trăng kim cổ,

            Ngày ngày trượng thất khói mờ che.

            Thân mến biết bao, ôi! Luyến tiếc,

            Nhớ công giáo hóa lệ đầy mi.

Những tác phẩm của Sư còn lưu truyền lại có:

- Đoạn sách lục.

- Tham thiền chỉ yếu. (Thiền đạo yếu học?)

- Kim Cương đạo tràng đà-la-ni kinh.

- Tán Pháp Hoa kinh khoa số.

- Bát-nhã tâm kinh khoa.

- và một bài kệ thị tịch…

GIẢNG:

Sư tên thật là Đồng Kiên Cương, sanh năm Thiệu Bảo thứ sáu (1284) ngày mùng bảy tháng năm, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trước khi sanh Sư, thân mẫu nằm mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm, bà thích lắm nhận lấy. Từ đó, bà biết có thai. Vì trước kia bà sanh liền tám người con gái nên chán ngán, phen này bà cố tình uống thuốc phá thai, nhưng đều vô hiệu. Đến khi sanh ra Sư, bà mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Sư thiên tư dĩnh ngộ, miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá.

Qua đoạn tiểu sử này, chúng ta thấy ngài Pháp Loa đã có chủng tử lành nhiều đời, cho nên khi sanh ra có những đặc điểm khác hơn người thường, nhất là lúc còn bé không nói lời ác, không ăn thịt cá, tức là chay lạt.

Niên hiệu Hưng Long thứ mười hai (1304), Điều Ngự (Nhân Tông) dạo đi các nơi, phá dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng) và ban pháp dược, đến mạn sông Nam Sách. Sư đến lễ bái xin xuất gia, năm này Sư được hai mươi mốt tuổi. Điều Ngự trông thấy bằng lòng nói: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí, vui vẻ tự đến đây.” Ngài bèn cho hiệu là Thiện Lai, dẫn về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn cạo tóc và thọ giới Sa-di.

Điều Ngự cho hiệu là Thiện Lai giống như ngày xưa, khi vị nào có chủng tử lành đến xin Phật xuất gia, Phật liền gọi “Thiện lai Tỳ-kheo” tức thì râu tóc rụng hết. Còn ở đây Điều Ngự dẫn Thiện Lai về liêu cạo tóc và cho thọ giới Sa-di.

Ngài dạy đến tham vấn với Hòa thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây, Sư tìm đủ cách thưa hỏi mà không được khai ngộ. Sư tự đọc bộ kinh Hải Nhãn (có lẽ kinh Lăng Nghiêm) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ khách trần ở sau, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Sư có chỗ vào. Sư từ tạ Hòa thượng Tánh Giác, trở về tham yết với Điều Ngự.

Kinh Hải Nhãn nằm trong Đại tạng bên phần Mật tông, nhưng đối chiếu lại là kinh Thủ Lăng Nghiêm. Ngày xưa lúc chúng tôi ở chùa Phật Quang, khi học kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn bảy chỗ hỏi tâm và dụ khách trần, chúng tôi rơi nước mắt.

Trong đoạn bảy chỗ hỏi tâm, Phật hỏi A-nan:

- Ông lấy cái gì để thấy, lấy cái gì để hâm mộ?

A-nan thưa:- Con lấy mắt để thấy và dùng tâm hâm mộ.

Phật hỏi:- Mắt ở đâu?

A-nan trả lời dễ dàng:- Mắt ở trên mặt.

Phật hỏi:- Tâm ở đâu?

A-nan trả lời bảy phen mà Phật không thừa nhận, đó gọi là Thất xứ trưng tâm.

Đến đoạn sau đức Phật nói về dụ khách trần. Phật muốn chỉ nội tâm chúng ta có chia ra hai loại: chân tâm và vọng tâm. Chân tâm thì hằng hữu thường nhiên, không biến đổi, còn vọng tâm thì sanh diệt liên miên, chợt có chợt không. Song chúng ta không biết được chân tâm, chỉ bám vào vọng tâm cho đó là tâm mình thật. Thế nên đức Phật mới dùng thí dụ khách trần. Như có người chủ nhà cho khách nghỉ trọ qua đêm, sáng lại khách ra đi. Vậy khách có đến rồi ra đi, còn người chủ nhà thì luôn luôn ở tại chỗ. Cũng vậy, vọng tâm giống người khách đến rồi đi, còn chân tâm như người chủ thường ở, không vắng mặt bao giờ.

Thí dụ thứ hai là trần, tức là bụi. Buổi sáng mặt trời lên, qua kẽ hở trong nhà có làn ánh sáng chiếu vào, chúng ta nhìn kỹ trong khoảng hư không có ánh sáng thấy rất nhiều hạt bụi di động lăng xăng, đó là trần. Bụi di động lăng xăng nhưng khoảng hư không trong nhà không di động, không đổi dời. Bụi dụ cho vọng tâm, còn hư không trong nhà dụ cho chân tâm. Vậy chân tâm không đổi dời, còn vọng tâm luôn luôn dời đổi.

Từ hai ví dụ khách trần, phải hiểu rằng nơi chúng ta có cái chân thật bất sanh bất diệt mà chúng ta quên, lại nhận cái sanh diệt làm tâm mình, vì vậy chúng ta phải luân hồi sanh tử!

Ngài Pháp Loa đọc tới đoạn này nghiền ngẫm năm ba phen, bỗng nhiên có chỗ vào, tức là nhận được mình có cái chân thật và không còn bị kẹt trong tướng hư vọng nữa. Ngài từ tạ Hòa thượng Tánh Giác, trở về tham yết với Điều Ngự Giác Hoàng.

Gặp lúc Điều Ngự thượng đường, Sư ra thưa hỏi liền được tỉnh. Điều Ngự nhận biết bèn cho Sư theo hầu hạ Ngài. Một hôm, Sư trình cả ba bài tụng, bị Điều Ngự chê cả. Sư thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham. Sư vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy bông đèn tàn rụng xuống, Sư chợt đại ngộ. Sư đem chỗ ngộ trình lên Điều Ngự. Ngài thầm nhận ấn khả. Từ đây, Sư thệ tu theo mười hai hạnh đầu-đà (khổ hạnh).

Ngài tự tham cứu, đến quá nửa đêm, khi thấy bông đèn tàn rơi xuống, liền được tỉnh giác. Ngài trình chỗ ngộ, Điều Ngự ấn khả. Từ đó về sau Ngài nguyện trọn đời tu theo khổ hạnh (hạnh đầu-đà).

Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Điều Ngự đem Sư lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát. Thấy chỗ tham học của Sư đã thành đạt, Điều Ngự cho hiệu là Pháp Loa.

Thuở nhỏ ở gia đình Ngài tên là Kiên Cương, khi gặp Điều Ngự xin xuất gia, Điều Ngự gọi là Thiện Lai. Đến khi thấy Ngài ngộ đạo, đủ tư cách làm lợi ích cho chúng sanh, Điều Ngự cho hiệu là Pháp Loa. Chữ Loa có nghĩa là con ốc lớn, mỗi khi có tiệc lễ người ta dùng con ốc để thổi giống như cái tù và, để cho tất cả biết hiệu lịnh mà tụ đến. Như vậy Pháp Loa là cái loa thổi ra chánh pháp.

Năm Hưng Long thứ mười lăm (1307), Sư được hai mươi bốn tuổi, Điều Ngự trụ ở am Thiên Bảo Quan có bảy tám người thị giả mà Sư là đứng đầu. Điều Ngự vì Sư giảng Đại Huệ Ngữ Lục. Đến tháng năm, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày rằm làm lễ Bố-tát (sám hối tụng giới) xong, Điều Ngự đuổi mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Sư dạy khéo gìn giữ.

Năm hai mươi bốn tuổi Ngài được Điều Ngự truyền pháp và tâm kệ.

Năm Hưng Long thứ mười sáu (1308) vào ngày mùng một tháng giêng, Sư vâng lệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp trụ trì tại nhà Cam Lồ chùa Siêu Loại. Khai lễ có vua Anh Tông và đình thần đến dự. Điều Ngự lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Sư giảng đạo. Lễ xong, Điều Ngự đặt Sư kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử, là đời thứ hai của phái Trúc Lâm. Điều Ngự còn trao cho Sư hơn hai trăm bộ kinh sử và bảo Anh Tông sung cúng vào chùa cả trăm khoảnh ruộng.

Năm hai mươi lăm tuổi Ngài nối pháp trụ trì và điều khiển cả Giáo hội. Người xưa mới hai mươi mấy tuổi đã lãnh trọng trách. Còn chúng ta ngày nay trên ba mươi tuổi mà chưa dám nhận trách nhiệm, thật là quá nhút nhát.

Tháng mười một năm ấy (1308), Điều Ngự tịch, Sư phụng mạng cung nghinh xá-lợi về kinh đô. Trở về núi, Sư soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.

Những bài kệ tụng của Điều Ngự, Ngài kết tập lại thành bộ sách để tên là Thạch Thất Mị Ngữ, tức là những lời nói mớ trong thất đá. Thường chúng ta nghĩ lời Phật, lời các bậc Tôn túc là lời vàng ngọc. Nhưng đối với Thiền sư, những lời giảng dạy nói đông nói tây là phương tiện đánh thức người mê. Là lời nói thì không có thật, chỉ tùy duyên tùy cảnh, nên coi như nói mớ, không có giá trị thật.

Năm Hưng Long thứ mười chín (1311), Sư phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh. Sư giao Bảo Sát làm chủ việc này. Tháng tư, Sư giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó Huyền Quang trình kiến giải, Sư đều chấp nhận.

Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (1313) vào tháng chín, Sư phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang định chức cho tăng đồ. Chúng tăng từ đây mới có sổ bộ, chính Sư là người cầm sổ bộ ấy. Lúc đó Sư độ hơn một ngàn vị tăng. Về sau cứ ba năm một lần độ tăng như thế.

Mỗi ba năm Ngài độ tăng một lần: Làm sổ bộ, định chức tăng đồ, mỗi lần độ hơn ngàn vị tăng.

Năm Đại Khánh thứ tư (1317), đời Trần Minh Tông, vào tháng hai, Sư bệnh nặng. Sư đem y của Điều Ngự và viết bài tâm kệ trao cho Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phất tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít hôm, bệnh Sư được lành.

Ngài bệnh nặng tưởng sắp tịch, nên trao y và tâm kệ cho Huyền Quang và trao nhiều vật dụng khác cho các đệ tử. Nhưng sau đó Ngài lành bệnh.

Những hàng Thái hậu, Công chúa, Vương công, quí khanh đều thỉnh Sư truyền giới xuất gia hoặc giới Bồ-tát, cho đến vua Trần Anh Tông cũng xem như đệ tử. Họ đua nhau cúng đất, vàng, tiền để Sư lập chùa, đúc tượng Phật, in kinh quá nhiều, đến nỗi Sư phải tự xin giảm dần những số quyên cúng, thuyền của vua cấp cho Sư tiện việc đi lại và về kinh đô, Sư cũng từ chối không nhận.

Đây là tinh thần đầu-đà Ngài đã phát nguyện khi trước.

Năm đầu Khai Hựu (1329), đời Trần Hiến Tông, Sư mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn, làm thành danh lam thắng cảnh. Sư có làm bài thơ đề là Luyến Thanh Sơn:

Âm:     Sơ sấu cùng thu thủy,

            Sàm nham lạc chiếu trung.

            Ngang đầu khán bất tận,

            Lai lộ hựu trùng trùng.

Dịch:   Thưa gầy làn nước vút,

            Chót vót ánh soi trong.

            Ngẩng đầu coi chẳng hết,

            Đường tới lại trùng trùng.

                                    Trần Tuấn Khải

Có lên Thanh Mai Sơn, chúng ta thấy bài thơ này rất là thích hợp.

            Thưa gầy làn nước vút,

            Chót vót ánh soi trong.

Thanh Mai Sơn là nơi có nhiều cây cối, ánh trăng soi rọi trong những vòm cây.

            Ngẩng đầu coi chẳng hết,

            Đường tới lại trùng trùng.

Ngước đầu nhìn nó không cùng tận. Có nhiều lối để tiến lên trên đó rất là thích thú.

Gần mãn đời Sư, kiểm những công tác Phật sự: Đúc tượng Phật kể cả lớn và nhỏ có hơn một ngàn ba trăm (1.300) vị; tạo đại già-lam được hai ngôi; xây tháp được năm ngọn; lập tăng đường hơn hai trăm (200) sở; độ tăng và ni hơn một muôn năm ngàn (15.000) người; in được một bộ Đại Tạng Kinh; đệ tử đắc pháp hơn ba ngàn (3.000) người; thành Đại Pháp sư có sáu vị.

Người xưa thấu tột nguồn tâm, không mắc kẹt ở những đối đãi, những hư giả, nhưng Phật sự các ngài làm không chán mỏi. Chúng ta ngày nay có bệnh nghe nói tu thiền không còn dính mắc danh lợi thì không muốn làm gì cả, chỉ muốn ẩn trong non trong núi. Còn ai ra làm Phật sự thì nói là ham danh ham lợi. Đó là cái nhìn thiển cận. Ngài Qui Sơn có nói:

            Thật tế lý địa bất thọ nhất trần,

            Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.

Nghĩa là: Trên chỗ thật tế, không có dính một mảy bụi, vì chỗ đó không còn đối đãi. Nhưng trên cửa Phật sự, không bỏ một việc nào, đó là thấy tột. Nếu chấp một bên chỗ thật tế không làm gì cả, khi có ai làm việc gì cho là sự tướng, đó là chấp hình thức, là thấy nông cạn. Thế nên thấy người làm được việc chớ có cười chê, mà phải hiểu trên Phật sự việc nào làm được thì cứ làm, còn chỗ cứu kính thì không có hai.

Năm Khai Hựu thứ hai (1330) ngày mùng năm tháng hai, Sư phát bệnh, trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc tàng viện. Đến ngày mười một thì bệnh rất nặng. Ban đêm Huyền Quang đứng hầu, thấy Sư ngủ mà nói ra tiếng: Hồng! Hồng!

Huyền Quang liền thưa:- Tôn giả nói mớ chăng?

Sư đáp:- Ngủ thì nói mớ, chẳng ngủ thì chẳng nói mớ.

Huyền Quang:- Đâu thể ngủ với thức là một.

Sư bảo:- Ngủ với thức là một.

Huyền Quang:- Đâu thể bệnh cùng chẳng bệnh là một?

Sư bảo:- Bệnh cũng chẳng có can gì y, chẳng bệnh cũng chẳng can gì y.

Huyền Quang:- Tại sao lại có tiếng nói ra ngoài?

Sư bảo:- Nghe tiếng gió thổi cây thì thế nào?

Huyền Quang:- Tiếng gió thổi cây, người nghe chẳng lầm, trong khi ngủ mà nói mớ thì dễ lầm người.

Sư bảo:- Người ngu cũng vẫn lầm tiếng gió thổi cây.

Huyền Quang:- Chỉ một bệnh này đến chết cũng chẳng mạnh.

Sư bèn đạp. Huyền Quang lui ra.

Từ đây bệnh lại giảm xuống. Đến ngày mười ba Sư trở về viện Quỳnh Lâm nơi phương trượng cũ mà nằm. Đệ tử các nơi dồn về thưa hỏi xin kệ. Sư vẫn đối đáp và tùy người cho kệ không biết mệt mỏi.

Đọc đoạn này có một ít dịch giả cho rằng ngài Huyền Quang hay hơn ngài Pháp Loa. Ngài Pháp Loa bị Huyền Quang hỏi một hồi giận quá đạp một cái. Vậy ngài Pháp Loa không tới đâu, chỉ Huyền Quang là cao siêu. Hiểu như vậy thật là tội lỗi, thật quá lệch lạc.

Nay chúng tôi giải thích về sự đối đáp giữa hai thầy trò. Khi ngài Pháp Loa ngủ có thốt ra những tiếng: Hồng! Hồng!

Huyền Quang mới hỏi: Tôn giả nói mớ chăng?

Khi ngủ Ngài nói “Hồng, Hồng”, có phải là Ngài nói mớ chăng?

Pháp Loa đáp: Ngủ thì nói mớ, chẳng ngủ thì chẳng nói mớ. Ý nói nếu Ngài ngủ tức là mê thì có mớ, còn không mê thì đâu có mớ.

Huyền Quang hỏi: Đâu thể ngủ với thức là một.

Pháp Loa bảo: Ngủ với thức là một.

Khi chúng ta tu chưa đến nơi đến chốn thì ngủ khác, thức khác. Nếu tu đến nơi rồi thì ngủ thức không hai. Tại sao? Như người mới đi tu, khi còn ở thế gian ăn mặn tiệc tùng với thiên hạ, nhưng vì mới đi tu độ năm tháng bảy tháng nên khi thức thì nhớ giữ giới cữ mặn, cữ rượu, đến lúc ngủ lại thấy ăn mặn uống rượu như người thế gian. Như vậy ngủ và thức là hai đối với người mới tu. Nếu tiến lên chút nữa, tu được năm năm mười năm, coi như ăn chay thuần thục, khi ngủ mộng thấy người mời tiệc tùng dọn rượu và thức ăn mặn, thì lúc đó nói: Không, tôi ăn chay, không ăn mặn, không uống rượu. Vì mình đã thuần, cho nên lúc thức cũng như lúc ngủ đều không có khác. Đó là nói thuần thục về hình thức.

Nếu thuần thục đến chỗ cứu kính thì ngủ và thức không hai, nghĩa là khi thức ở trong tỉnh sáng, thì khi ngủ cũng ở trong tỉnh sáng. Như trong kinh thường nói, các vị A-la-hán không có ngủ, vì các ngài nằm nghỉ cũng tỉnh sáng như lúc các ngài thức. Còn chúng ta hiện giờ nằm thì mê ngay, mở mắt thì tỉnh, nằm xuống là mê, nên ngủ thức thành hai. Ngủ thức không hai là khi không còn mê nữa, chỉ nằm nghỉ an thần cho tỉnh sáng thôi.

Ở đây ngài Pháp Loa xác nhận: Ngủ với thức là một.

Ngài Huyền Quang nói: Đâu thể bệnh cùng chẳng bệnh là một?

Nếu ngủ với thức là một, thì bệnh và mạnh cũng là một sao? Như chúng ta hiện giờ khi mạnh thì vui cười, khi bệnh thì rên rỉ, làm sao là một được. Nhưng với người đạt đạo, khi đau liền biết có cái không đau, như vậy bệnh và mạnh cũng là một. Ngài không nói một mà nói: Bệnh cũng chẳng có can gì y, chẳng bệnh cũng chẳng can gì y. Câu trả lời rất hay. Bệnh là thân bệnh, tứ đại bệnh còn cái kia không bệnh, cho nên không can gì y. khi mạnh thì tới lui hoạt động, nhưng cái kia không bị dính mắc gì cả, cho nên chẳng bệnh cũng chẳng can gì y.

Huyền Quang hỏi: Tại sao lại có tiếng nói ra ngoài? Nếu không can gì y, tại sao lại nói mớ, tức là có tiếng nói ra ngoài?

Pháp Loa bảo: Nghe tiếng gió thổi cây thì thế nào? Cũng như gió thổi qua cây nghe có tiếng động, như chúng ta ở trên rừng thông, gió thổi lá thông reo. Người bệnh khi thở ra có tiếng động cũng giống như tiếng gió thổi ngoài cây, có gì khác đâu.

Huyền Quang nói: Tiếng gió thổi cây, người nghe chẳng lầm, trong khi ngủ mà nói mớ thì dễ lầm người. Nghe gió thổi cây, biết tiếng gió thổi cây, nhưng khi ngủ thốt ra những tiếng làm người lầm tưởng muốn nói cái gì.

Pháp Loa bảo: Người ngu cũng vẫn lầm tiếng gió thổi cây. Như khi chúng ta đang ở trong thất, gió thổi lá thông khua rào rào tưởng như mưa tới, cũng là lầm vậy.

Huyền Quang nói: Chỉ một bệnh này đến chết cũng chẳng mạnh. Tức là bệnh của thầy đến chết cũng chẳng mạnh.

Đây là lời khen hay chê? Đối với trong đạo, lời nói đó là khen, cho nên ngài Pháp Loa mới lấy chân đạp, ngài Huyền Quang lui ra, đó là một hình ảnh đẹp vô cùng. Nhưng người sau không hiểu tưởng ngài Huyền Quang chê ngài Pháp Loa: chỉ một bệnh này đến chết cũng chẳng mạnh, nên ngài Pháp Loa giận đạp một cái. Hiểu như vậy là sai lầm.

Nhớ lại ngày xưa khi đức Phật nhập Niết-bàn, ngài Ca-diếp đang ở xa, nên không có mặt khi nhục thân Phật được đặt vào kim quan chờ ngày trà-tỳ. Ngài Ca-diếp hay tin Phật niết-bàn mới dẫn đồ chúng đi về, nhiễu kim quan Phật ba vòng rồi đảnh lễ. Khi ấy hai bàn chân Phật duỗi ra khỏi kim quan, ngài Ca-diếp quì xuống nắm bàn chân Phật, đó là hình ảnh truyền tâm trong giờ phút cuối cùng.

Đến ngài Thanh Nguyên Hành Tư sai Hy Thiên đem thơ sang Thiền sư Hoài Nhượng:

- Ngươi đem thơ xong về nhanh, ta sẽ cho chiếc búa nhỏ để lên ở núi.

Hy Thiên đem thơ xong về, thưa:

- Hòa thượng hứa cho chiếc búa, con xin nhận búa để ở núi.

Ngài Thanh Nguyên liền duỗi chân ra, Hy Thiên đảnh lễ, về trụ ở núi. Duỗi chân ra là truyền cho một cái gì, chớ không phải là giận. Nghĩa là việc của người trò đã xong, thầy trao cho cái này để trò an ổn tu hành, trao bằng cách là duỗi chân. Người trò hiểu, liền đảnh lễ, như vậy là thầy trò thông cảm.

Còn ở đây qua câu nói của ngài Huyền Quang: Chỉ một bệnh này đến chết cũng chẳng mạnh. Bệnh này là bệnh gì? Tức là bệnh nói rõ sống chết không hai, hay là bệnh và không bệnh không hai, ngủ và thức không hai. Bệnh này tới chết cũng không mạnh, tức là không bao giờ quên. Đó là lời khen, lời tán thán vị thầy đã được một cái chưa bao giờ đổi thay, chưa bao giờ sanh diệt. Người học trò cảm thông được lời nói của thầy, cho nên thầy mới duỗi chân ra. Người học trò liền xá rồi lui. Đó là thầy trò thông cảm chớ đâu có giận. Thế mà nói thầy giận đạp cho một cái, thành ra rất là phàm tục, chỗ này chúng ta cần phải hiểu thật rõ để khỏi lầm lẫn.

Bệnh càng ngày càng trầm trọng, nhưng khi có ai xin kệ Ngài vẫn luôn luôn viết kệ cho không biết mệt mỏi.

Đến ngày mùng một tháng ba, Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân đến thăm bệnh và gọi Thái y đến trị cho Sư.

Đến tối mùng ba bệnh Sư trở lại nặng.

Huyền Quang thưa:- Xưa nay đến chỗ ấy, buông đi là tốt hay nắm lại là tốt?

Sư bảo:- Thảy đều không can hệ.

Huyền Quang:- Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?

Sư bảo:- Tùy xứ tát-bà-ha.

Buông là tốt hay nắm là tốt? Tức là muốn thử vị thầy coi lúc mệt mỏi như thế nào?

Ngài bảo: Thảy đều không can hệ.

Buông nắm là hai bên, không có dính dáng gì với cái chân thật. Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?

Ngài bảo: Tùy xứ tát-bà-ha. Câu đáp thật hay đáo để. Tùy nơi mà thênh thang, không có dính mắc chi cả.

Đệ tử đồng đến thỉnh:

- Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ dạy đệ tử, sao riêng Thầy không có?

Sư quở trách họ. Giây lâu bèn ngồi dậy bảo đem giấy viết lại. Sư viết một bài kệ:

            Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,

            Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.

            Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,

            Na biên phong nguyệt cánh man khoan.

Dịch:   Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn,

            Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng.

            Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,

            Bên kia trăng gió rộng thênh thang.

Đọc bài kệ này chúng ta cảm thấy vui lây với Ngài.

Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn. Cắt đứt được muôn duyên thật thảnh thơi vô cùng, có gì đâu mà lo sợ.

Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng. Hơn bốn mươi năm, vì Ngài thọ được bốn mươi bảy tuổi, chỉ là giấc mộng dài thôi.

Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi. Khuyên các ông đừng hỏi tôi chi nữa.

Bên kia trăng gió rộng thênh thang. Khi nhắm mắt rồi, cả một bầu trời trăng trong gió mát mênh mông, đâu có gì phải lo buồn, hỏi han chi cho bận. Ra đi như vậy thật thảnh thơi biết mấy.

Viết xong, Sư ném bút, an nhiên thị tịch, thọ bốn mươi bảy tuổi. Đệ tử theo lời phó chúc của Sư, đem nhục thể lên nhập tháp tại Thanh Mai Sơn.

Chúng tôi có lên Thanh Mai Sơn viếng tháp của Ngài, đó là chân tháp, vì trong tháp có nhục thể của Ngài.

Đến ngày mười một tháng ba, Thái thượng hoàng ngự bút ban hiệu Sư là Tịnh Trí Tôn Giả, tháp tên Viên Thông, tặng mười lượng vàng để xây tháp và đề một bài thi vãn:

            Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên,

            Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền.

            Thanh Sơn mạn thảo quan tàng lý,

            Bích thọ thâm sương xác thuế thiền.

            Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt,

            Hiểu mê trượng thất hữu vô yên.

            Tương đầu châm giới ta phi tích,

            Trác tựu ai chương thế lệ huyền.

Dịch:   Đã hết duyên trần thõng tay đi,

            Giác Hoàng kim tuyến được truyền y.

            Thanh Sơn cỏ mọc che phần mộ,

            Cây biếc trong sương để xác ve.

            Đêm phủ giảng đường trăng kim cổ,

            Ngày ngày trượng thất khói mờ che.

            Thân mến biết bao, ôi! Luyến tiếc,

            Nhớ công giáo hóa lệ đầy mi.

            Bài thi vãn của Thái thượng hoàng thật là hay.

            Đã hết duyên trần thõng tay đi.

            Duyên trần đã hết thì buông tay mà đi, không có gì bận bịu.

            Giác Hoàng kim tuyến được truyền y.

            Ngài được Điều Ngự Giác Hoàng truyền y kim tuyến.

            Thanh Sơn cỏ mọc che phần mộ.

            Tháp của Ngài ở Thanh Mai Sơn, cỏ mọc che lần lần.

            Cây biếc trong sương để xác ve.

            Trong sương mấy con ve sầu lột xác trên cây xanh.

            Đêm phủ giảng đường trăng kim cổ.

            Đêm đến ánh trăng phủ giảng đường nơi Ngài hằng thuyết pháp. 

            Ngày ngày trượng thất khói mờ che.

            Ban ngày khói mờ che khuất thất một trượng của Ngài.

            Thân mến biết bao, ôi! Luyến tiếc.

            Thương lắm, ôi luyến tiếc biết bao!

            Nhớ công giáo hóa lệ đầy mi.

            Nhớ công ơn giáo hóa của Ngài mà lệ tràn mi.

Đây là bài thơ của Thái thượng hoàng tán thán công ơn ngài Pháp Loa và tỏ lòng thương mến luyến tiếc Ngài.

Những tác phẩm của Sư còn lưu truyền lại có:

- Đoạn sách Lục.

- Tham Thiền Chỉ Yếu. (Thiền Đạo Yếu Học?)

- Kim Cương Đạo Tràng Đà-la-ni Kinh.

- Tán Pháp Hoa Kinh Khoa Số.

- Bát-nhã Tâm Kinh Khoa.

- Và một bài kệ thị tịch…

Học qua ngài Pháp Loa, chúng ta có thể toát yếu một vài điểm cho dễ nhớ.

So với các Thiền sư, ngài Pháp Loa tịch sớm nhất, lúc bốn mươi bảy tuổi, lý do là vì khi còn trong bào thai, mẹ uống thuốc phá thai. Đó là cớ để bào thai phải suy yếu, nên tuổi thọ của Ngài không dài. Tuy tuổi thọ ngắn nhưng việc làm của Ngài quá nhiều, người sống tám mươi tuổi chưa chắc bằng được.

Năm hai mươi bốn tuổi Ngài đã ngộ đạo, được truyền y bát và tâm kệ, đến hai mươi lăm tuổi lãnh đạo cả Giáo hội, làm chủ sơn môn Yên Tử, đời thứ hai của phái Trúc Lâm. Chỉ trong hai mươi năm, Ngài làm được không biết bao nhiêu công tác: Độ Tăng Ni tu hơn mười lăm ngàn người, độ Phật tử thì nhiều vô số khó mà đếm hết, khắc bản in Đại Tạng Kinh, cất chùa đắp tượng, làm những Phật sự rất nhiều. Nhưng điểm rất quí kính là Ngài ngộ được Tâm tông, tu theo thiền được yếu chỉ cao đẹp và siêu thoát. Tuy ngộ Tâm tông mà Ngài không quên làm những việc như giảng kinh, truyền giới, hình thức nào Ngài cũng không từ chối, thật đúng với câu: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.” Ngài không kẹt bên lý, về lý thì Ngài thấu triệt viên mãn, “bất thọ nhất trần”. Về sự thì Ngài làm đầy đủ “bất xả nhất pháp”. Lý sự viên dung là đặc điểm mà chúng ta phải quí kính ở Ngài.

Lại nữa tuy làm Phật sự rất nhiều mà Ngài vẫn giữ tư cách người tu khổ hạnh, không nhận thuyền rồng của nhà vua tặng để đi lại, số quyên cúng quá nhiều, Ngài cũng giảm bớt không dám nhận. Danh lợi có thừa mà Ngài không thích, đó là điều rất cao quí, chúng ta cần phải học. Khi ra đi, Ngài đi trong tỉnh sáng, không mê mờ kinh hoàng, qua bài kệ trước khi tịch chúng ta thấy rõ điều đó. Người chân tu thực học thì có kết quả tốt đẹp cho đời và đạo hết sức là cụ thể.

Trong đường lối của Ngài do Điều Ngự Giác Hoàng dạy, Ngài đã từng giảng kinh như kinh Hoa Nghiêm và giảng lục cho đồ đệ. Như vậy là đúng với tinh thần Thiền giáo đồng hành, không phải nghiêng bên thiền mà bỏ giáo, hay nghiêng bên giáo mà bỏ thiền. Thiền giáo hỗ tương là chủ trương chúng ta đang ứng dụng hiện nay. Vì thế nói đến Thiền tông đời Trần là nói đến Thiền giáo đồng hành, chớ không phải tu thiền là không cần học kinh.

Học các Thiền sư đời Trần, chúng ta thấy các ngài tuy đa đoan Phật sự mà vẫn tu. Còn chúng ta hiện giờ lãnh vài ba việc thì than nhiều quá tu không được! Như ngài Pháp Loa làm rất nhiều việc, có rảnh được chút nào đâu, nhưng chính trong cái đa đoan đó Ngài không quên mình không mất mình. Học các ngài, chúng ta nhớ những gương hay đẹp để ứng dụng, không phải học chỉ để biết suông mà thôi.

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM