TỔ THỨ HAI PHÁI TRÚC LÂM
KHUYÊN CHÚNG THƯỢNG THỪA TAM HỌC
(Thượng thừa
tam học khuyến chúng phổ thuyết)
DỊCH:
Là người học
Phật trước phải thấy tánh. Thấy tánh, không phải có tánh bị thấy. Nói
thấy, là thấy chỗ không thể thấy mà thấy vậy. Cho nên nói thấy, thấy không
phải thấy, thì chân tánh hiện. Tánh thấy là vô sanh, sanh thấy thì chẳng
phải có, chẳng có cái tánh thật, mà thấy thật không dời đổi. Thế nên gọi
là chân thật thấy tánh.
Sau khi thấy
tánh, phải gìn giữ giới cho thanh tịnh. Thế nào là giới thanh tịnh? Nghĩa
là trong mười hai giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không loạn. Vì tâm
không loạn động nên cảnh đến vẫn an nhàn. Mắt không vì cái sở duyên của
thức mà chạy ra, thức không vì cái sở duyên của cảnh mà chun vào. Ra, vào
không giao thiệp nên gọi là ngăn chận. Tuy nói ngăn chận mà không phải
ngăn chận. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Đó gọi là giới Đại thừa,
là giới vô thượng cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới này, dù Tiểu
tăng cho đến bậc Đại tăng đều phải gìn giữ.
Nhân giữ giới
vững chắc không động, kế đó mới tập thiền. Cái yếu chỉ của thiền định là
thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét: thân này từ đâu
mà đến? tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân? Thân
tâm đều không thì pháp từ đâu mà có? Pháp không thật có, vì không có cái
có, cái có có đó từ đâu mà có? Cái có có đó đã không thì không có pháp có.
Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Không có chỗ dựa
nương thì pháp không phải mỗi pháp. Pháp này không thật cũng chẳng phải
không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền.
Người tu tập
thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là
Thiền thượng thừa. Ngoài tham thoại đầu không cho gián đoạn, miên mật liên
tục không có kẽ hở, cũng không điên đảo, không trạo cử cũng không hôn
trầm. Phải trong sáng như viên ngọc lăn trên mâm, phải sáng suốt như gương
trên đài. Đến chỗ đất này, đi cũng được, đứng cũng được, ngồi cũng được,
nằm cũng được, nói hay nín đều cũng đuợc, có chỗ nào lại không được?
Đã được thế
rồi, về sau mới nêu lên những câu ngộ: Tam quan, tam huyền, tam yếu, ngũ
vị, tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng v.v… các cơ quan của Thiền Tổ.
Bảy phen soi tám phen dùi, nhồi đi ép lại, thấu triệt chân nguyên. Chừng
đó, mới hay mượn pháp tòa của Phật Đăng Vương [Phật Tu-di Đăng Vương ở thế
giới Tu-di Tướng phương đông (kinh Duy-ma-cật, quyển trung, phẩm Bất tư
nghì)], nắm sừng thỏ, nhổ lông rùa, tay hoa một phen chuyển, bốn chúng
thảy mịt mờ. Phát sanh vô thượng diệu tuệ, chiếu soi không cùng. Đối với
tứ vô lượng tâm, tứ niệm xứ, tứ vô úy, bát chánh đạo, thập lực của Phật,
mười tám pháp bất cộng, cho đến tám muôn bốn ngàn môn đà-la-ni, trần trần
sát sát, tất cả môn tam-muội đều từ nơi mình lưu xuất mỗi mỗi đều đầy đủ.
Tuệ đã đầy đủ,
ban cho chúng sanh, nguyện lực không cùng tận, tự giác giác tha, tứ sanh
và cửu loại, tất cả đều được thấm nhuần. Nếu tuệ mà không định gọi là càn
tuệ (tuệ khô), định mà không tuệ gọi là si thiền.
Thiền có chia
làm năm: 1. Phàm phu thiền, 2. Ngoại đạo thiền, 3. Tiểu thừa thiền, 4. Đại
thừa thiền, 5. Thượng thừa thiền. Đây nói thiền, chính là Thượng thừa
thiền vậy. Thiền này, từ đức Phật Tỳ-lô-giá-na trải qua số kiếp bất khả
thuyết bất khả thuyết đến đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Thích-ca truyền
xuống cho hai mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ và sáu vị Tổ ở Trung Hoa, rồi Tổ Tổ
trao tay cho nhau truyền bá khắp nơi, tính không thể hết được. Các vị đều
do giới này, định này, tuệ này mà được chứng ngộ, thật không có pháp nào
khác.
Các chú! Các
chú đã vào trong chùa làm ông đạo, làm học trò, chỉ cầu danh dự mà chẳng
chịu tham đến chỗ, cái gì là chỗ hạ thủ của Phật, Tổ? Cái gì là chỗ dụng
tâm của ngoại đạo, Tiểu thừa? Luống để cho ngày lại tháng qua, lăng xăng
tìm cầu bên ngoài. Một phen cái chết đến rồi phải làm sao? Đâu là nơi an
thân lập mạng? Vả lại, ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, chính mình không
có một mảy may. Một hôm nào đó, vua Diêm-la đến ắt không thể tha cho
ngươi. Ngươi sao chẳng chịu xét lại, chớ lấy các việc trong mộng, rồi bác
không nhân quả “mênh mang bát ngát chiêu ương họa”. Như thế chẳng những
làm đồi bại tông môn, mà cũng khiến suy tàn chánh pháp.
Ôi! Tôi còn biết nói gì hơn!
GIẢNG:
Bài này nhắc
nhở chúng ta bổn phận người tu, đúng ra là đi thẳng vào Thiền tông, quí vị
ráng chú tâm nghe thật kỹ.
Khuyên chúng
Thượng thừa tam học. Tam học là giới, định, tuệ. Đây nói về giới định tuệ
của Thượng thừa, không phải của Nhị thừa hay của Bồ-tát thừa.
Là người học
Phật trước phải thấy tánh. Thấy tánh, không phải có tánh bị thấy. Nói
thấy, là thấy chỗ không thể thấy mà thấy vậy. Cho nên nói thấy, thấy không
phải thấy, thì chân tánh hiện. Tánh thấy là vô sanh, sanh thấy thì chẳng
phải có, chẳng có cái tánh thật, mà thấy thật không dời đổi. Thế nên gọi
là chân thật thấy tánh.
Là
người học Phật trước phải thấy tánh.
Chúng tôi nhắc
thật kỹ, quí vị phải thầm hiểu, thầm nhận. Phàm người học Phật, nhất là
chuyên về Thượng thừa thiền, cốt phải thấy tánh tức là “Kiến tánh”, cũng
như Lục Tổ nói: Cốt phải kiến tánh.
Thấy tánh không phải có tánh bị thấy.
Chỗ này phải
hết sức chú ý vì chúng ta thường bị kẹt ở chữ thấy tánh. Thí dụ như chúng
ta nói: Tôi thấy cuốn sách, thì cuốn sách ở bên ngoài tôi, nó là cái bị
thấy, còn tôi là cái hay thấy. Như vậy cuốn sách và tôi là hai, phải
không?
Nếu nói thấy
tánh thì tánh đó là mình hay là của ai? Mà tánh của mình, làm sao mình
thấy? Đó là một vấn đề, nếu không khéo chúng ta dễ bị lầm lẫn.
Nghe nói thấy
tánh, chúng ta ngỡ rằng tu để mình thấy tánh của mình, mà tánh của mình là
cái gì ở ngoài mình để mình thấy? Như vậy mình muốn thấy tánh, thì tánh là
cái bị thấy, và mình là cái hay thấy. Vậy cái bị thấy là mình, hay cái hay
thấy là mình? Cái bị thấy không bao giờ là mình được. Còn nếu cái hay thấy
là mình, thì nói thấy tánh là thấy ai? Mình thấy mình được không? Tôi thấy
là thấy người thấy vật ở ngoài, chớ tôi không thấy con mắt tôi, có phải
thế không? Hay nói cách khác là tôi không thấy cái hay thấy của tôi. (Cũng
như con mắt không thấy được con mắt!) Vậy nói thấy tánh là thấy mình, có
được không?
Tôi cho ví dụ
nếu quí vị nào khéo sáng một chút thì nhận ra. Khi con mắt tôi bệnh thì
tôi không thấy được các vật bên ngoài, nếu con mắt tôi mạnh thì tôi nhìn
thấy tất cả sự vật.
Nếu có người
hỏi: Con mắt Thầy sáng hay tối?
Tôi trả lời:
Con mắt tôi sáng.
Hỏi: Tại sao
Thầy biết con mắt Thầy sáng?
Đáp: Vì tôi
thấy tất cả vật bên ngoài, cho nên tôi biết mắt tôi sáng.
Khi tôi khẳng
định con mắt tôi sáng, không chút nghi ngờ, cái khẳng định đó từ ngữ nhà
Phật gọi là “kiến”.
Bây giờ nếu
con mắt tôi mờ và có người nói: “Có bình hoa hồng đỏ đặt trên bàn”, vì mắt
mờ nên tôi chưa thấy rõ. Nếu có người hỏi: Thầy có thấy bình hoa hồng đỏ
đặt trên bàn không? Vì tôi chưa thấy rõ nên còn nghi ngờ, không biết phải
hay không? Trái lại nếu mắt tôi sáng, tôi thấy rõ thì tôi khẳng định là:
Phải, có bình hoa hồng đỏ đặt trên bàn. Tôi khẳng định đó là do mắt tôi
sáng nhìn thấy, còn mắt tôi mờ chưa thấy thì chưa dám khẳng định. Bây giờ
tôi khẳng định là tôi có con mắt sáng, tức là tôi thấy con mắt tôi sáng,
chớ không phải tôi thấy được con mắt sáng, mà tôi chỉ khẳng định con mắt
tôi sáng. Chữ “thấy” là khẳng định không ngờ vực gì cả.
Chữ “kiến
tánh” cũng vậy, có nghĩa là chúng ta nhận nơi mình có tánh tri giác bất
sanh bất diệt, nhận rõ không chút nghi ngờ. Đó gọi là kiến tánh, chớ không
phải kiến tánh là thấy được tánh mình. Nhiều người không hiểu cứ nghĩ kiến
tánh là thấy tánh mình, nếu tánh mình mà mình thấy thì vô lý. Nếu là tánh
mình thì người ngoài thấy chớ mình không thấy, còn mình thấy là thấy tánh
của người khác chớ không phải tánh mình.
Thế nên trong
bài Ngài nói rất rõ:
Thấy tánh,
không phải có tánh bị thấy. Nói thấy, là thấy chỗ không thể thấy mà thấy
vậy. Nếu ai khéo thì có thể nhận ra cái không thể thấy mà thấy.
Cho nên nói
thấy, thấy không phải thấy thì chân tánh hiện. Thấy mà không thể thấy, vì
nó không phải là hình tướng, là sự vật, cho nên không thể thấy. Nhưng nhận
được cái hiện hữu của nó không nghi ngờ, gọi đó là thấy.
Tánh thấy là
vô sanh, sanh thấy thì chẳng phải có. Tánh thấy không sanh không diệt, nếu
vừa khởi thấy nó thì cái đó không phải nó.
Chẳng có cái
tánh thật, mà thấy thật không dời đổi, nhưng nhận ra cái thật đó, cái thật
đó không có dời đổi, nó bất sanh bất diệt.
Thế nên gọi là
chân thật thấy tánh. Chân thật thấy tánh là như vậy.
Sau khi thấy
tánh, phải gìn giữ giới cho thanh tịnh. Khi nhận ra bản tánh rồi, mới nói
tu. Cho nên khi dạy tu là dạy chung, có người nhận được bản tánh, có người
chưa nhận được. Nhưng vì trong chúng làm việc gì cũng phải làm chung, lý
đáng thì sau khi thấy tánh phải giữ giới cho thanh tịnh.
Thế nào là
giới thanh tịnh? Nghĩa là trong mười hai giờ, ngoài dứt các duyên, trong
tâm không loạn. Khi nhận được bản tánh rồi thì bên ngoài dứt các duyên,
trong tâm không loạn động.
Vì tâm không
loạn động nên cảnh đến vẫn an nhàn. Cảnh đến là cảnh gì? Vì tâm không loạn
động, cho nên mắt thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng khen tiếng chê mà chúng ta
vẫn an nhàn. Tất cả những gì đến với mình, chúng ta đều không xao xuyến,
đó gọi là cảnh đến vẫn an nhàn.
Mắt không vì
cái sở duyên của thức mà chạy ra, thức không vì cái sở duyên của cảnh mà
chun vào. Nó không chạy ra cũng không bị chun vào. Tôi nói thí dụ: Như có
người mang chiếc đồng hồ quí đẹp đến khoe với chúng: “Tôi có chiếc đồng hồ
đẹp.” Khi mắt nhìn thấy chiếc đồng hồ, thì chiếc đồng hồ là cảnh. Thức
không vì mắt thấy đồng hồ mà chạy ra, đồng hồ không có chun vào con mắt,
cho nên ở trong không chạy ra, ở ngoài không chun vào. Vì thế nhìn chiếc
đồng hồ đẹp mà tâm vẫn an nhàn. Còn nếu có chạy ra chun vào thì tấm tắc
khen chiếc đồng hồ đẹp quá, quí quá, nên khi người ta đem đồng hồ đi rồi,
ngồi đây mà nhớ mãi chiếc đồng hồ, không biết mua nó bao nhiêu, giá trị nó
như thế nào, vì vậy tâm bị xao động bất an. Nếu như chiếc đồng hồ quí để
trước mắt, mà thức không theo con mắt để duyên với đồng hồ, đồng hồ cũng
không theo chỗ hở của con mắt mà chun vào, trong không ra, ngoài không vào
thì tâm an nhiên nhàn hạ. Bây giờ thử hỏi tất cả quí vị khi gặp cảnh đó,
có ra có vào hay không? Cho nên không có đeo đồng hồ là cái duyên để chúng
ta dễ tu. Đồng hồ đẹp đồng hồ xấu gì cũng mặc, chỉ thấy thôi, không có ra
không có vào. Còn nếu đeo đồng hồ thì so sánh đồng hồ này đẹp, đồng hồ kia
xấu, tức là có ra có vào. Vì thế không mang đồng hồ thì không dính kẹt
trong đồng hồ tốt xấu, giá trị đồng hồ cao thấp v.v… cho nên thức không vì
con mắt mà chạy ra, cái đồng hồ vì chúng ta không lưu tâm, nên cũng không
có chỗ chen vào. Ra vào không có, cho nên đồng hồ để trướùc mắt mà tâm vẫn
thản nhiên, không có gì dính dáng. Đó là kết quả của sự tu.
Ra vào không
giao thiệp nên gọi là ngăn chận. Tuy nói ngăn chận mà không phải ngăn
chận. Thật ra đâu có gì ngăn chận. Trước cảnh chỉ thản nhiên thôi, chớ có
ngăn chận chi đâu.
Tai, mũi,
lưỡi, thân, ý cũng như thế. Từ mắt rồi nghiệm qua tai, mũi, lưỡi, thân, ý
cũng như thế. Tức là sáu căn đối với sáu trần, không có chạy ra không có
chun vào…
Đó gọi là giới
Đại thừa, là giới vô thượng cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới này,
dù Tiểu tăng cho đến bậc Đại tăng đều phải gìn giữ.
Giới này Tiểu
tăng hay Đại tăng cũng đều phải giữ. Giới Đại thừa hay giới vô thượng tức
là giới không gì hơn, vô đẳng đẳng là không có gì sánh bằng, đây là chỉ
cho giới cao tột, giới tuyệt đỉnh. Trong tam học giới định tuệ, giới là
đầu. Đối với người tu thiền, giới là ở chỗ sáu căn đối với sáu trần không
cho chạy ra, không cho chun vào. Tức là giữ sáu căn không bị thức duyên
ra, cảnh chui vào, đó gọi là giới Đại thừa, giới vô thượng, giới vô đẳng
đẳng, không còn gì hơn, không có gì sánh bằng. Vậy người biết tu thì phải
giữ giới đó hằng ngày.
Nhân giữ giới
vững chắc không động, giới này là thượng thừa, là vô đẳng đẳng nhưng khó
giữ, cho nên mỗi tối chúng ta đều sám hối. Sám hối sáu căn cho thuần thục,
như mắt vừa thấy sắc đẹp liền nhớ sám hối về mắt, tai nghe lời gì hơi trái
hơi khó chịu thì nhớ sám hối về tai. Như thế sám hối cho đến thuần thục,
ngăn chận không cho trong chạy ra ngoài chạy vào, đó là giới thanh tịnh,
là giới của người tu Thượng thừa.
Kế đó mới tập
thiền. Cái yếu chỉ của thiền định là thân tâm đều xả. Yếu chỉ của thiền là
thân tâm đều xả. Xả tâm là vừa dấy niệm liền buông. Còn xả thân là sao?
Không phải là bỏ thân này, là hủy hoại cho nó chết, đừng hiểu lầm như vậy.
Xả thân có nghĩa là xả tất cả những nhu cầu mà thân đòi hỏi quá đáng, phải
xả những thụ hưởng đừng cho thân đắm trước. Phải thấy thân là tạm bợ, giả
dối, đừng có luyến ái mà cố giữ gìn cho được sống lâu, trái lại phải dùng
nó trong những điều lợi ích cho đạo, lợi ích cho chúng sanh, như vậy gọi
là xả thân.
Trước tập định
tâm, thường tự suy xét: thân này từ đâu mà đến? Tâm này từ đâu mà có? Muốn
định tâm, chúng ta phải tự đặt câu hỏi như vậy để phân tích tìm cho ra
manh mối về thân này và tâm này. Đến đây Ngài mới giải thích:
Tâm không thật
có, thì từ đâu có thân?
Khi chúng ta
đặt câu hỏi: Tâm này từ đâu mà có? Tâm đây là chỉ tâm vọng tưởng, chúng ta
tìm xem tâm vọng tưởng từ đâu mà có, tìm cho kỹ thì tâm vọng tưởng không
có. Nghĩa là tìm cho đến nơi đến chốn thì nó là không, nên nói Tâm không
thật có, thì từ đâu có thân? Vì con người sống là có thân và tâm, thân là
hình thức vật chất, tâm là phần tinh thần, phần hiểu biết. Phần tinh thần
hiểu biết tìm cho tận cùng thì nó không có hình thức, không có chỗ nơi,
tức là không thật có. Tâm đã không thật có, thì thân vật chất này thật có
được chăng? Nếu tìm cho kỹ thì thân vật chất này cũng không thật. Thế nên:
Thân tâm đều
không thì pháp từ đâu mà có.
Trước là quán
tâm cho kỹ thì biết tâm không thật, kế là quán thân cho tường tận thì thấy
thân không thật, đúng là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, ngũ uẩn là chỉ
cho thân và tâm, nếu thấy không thật thì sự vật bên ngoài tức là các pháp,
có thật hay không? Thân tâm không thật thì cái bàn này do thân tâm tạo nên
có thật không? Thân tâm không thật thì cái bàn cũng không thật. Hay nói
một cách gọn hơn, dễ hiểu hơn: Thân do duyên hợp, tâm do duyên hợp đều
không thật, thì sự vật bên ngoài do duyên hợp cũng đều không thật. Thường
thấy như vậy là có tu rồi! Sở dĩ ngày nay chúng ta tu khó nhọc, không có
kết quả, là vì thấy thân thật, tâm thật, cảnh thật. Cứ như thế mà khổ sở,
buồn khóc, sám hối, cũng vì những cái thấy thật đó. Nếu thấy thân, tâm,
cảnh đều không thật thì đâu còn gì phải bận bịu dính mắc!
Pháp không
thật có. vì không có cái có, thì cái có có đó từ đâu mà có? Pháp tức là sự
vật, không thật có. Thí dụ chúng ta nói cái bàn cái nhà không thật có, kể
cả núi sông cũng không thật có, như vậy tất cả những gì người ta nói có có
đó xét kỹ đều không thật có. Vì không thật có thì cái có có đó từ đâu mà
có? Đều là duyên hợp, đều không thật.
Cái có có đó
đã không, thì không có pháp có. Vì cái có mà mình thấy trước mắt đều không
thật, thì không có pháp có. Như vậy các pháp thế gian nói có đều là không
thật có, không có pháp nào là thật có cả.
Mỗi pháp chẳng
phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Mỗi pháp, mỗi vật đã không thật,
thì nương vào đâu mà gọi là có cái này, có cái kia?
Không có chỗ
dựa nương thì pháp không phải mỗi pháp. Vì không có chỗ nương thật, nên
mỗi sự vật đều là không thật, không có cái gì gọi là thật hết. Tỉ dụ đây
là quyển sách, kia là cái đồng hồ, mỗi pháp đều không có chỗ nương thì mỗi
pháp đều là không thật. Cho nên pháp không phải mỗi pháp nghĩa là tất cả
sự vật hiện thấy hiện biết đều không có cái gì thật.
Pháp này không
thật thì cũng chẳng phải không thật. Sự vật hiện hữu là không thật, nhưng
cũng chẳng phải không thật, tại sao? Đứng về giả tướng duyên hợp thì các
pháp là không thật, nhưng thật tánh hay tánh không của tất cả pháp đâu
phải là không? Thế nên:
Chứng được
thật pháp mới hay chứng nhập thiền. Tất cả pháp là không, không thật,
duyên hợp hư giả, tánh nó là không. Thấy được tánh không đó rồi, mới đi
tới chỗ chứng nhập thiền. Chúng tôi thường nhắc lại nhiều lần câu nói của
Thiền sư Duy Tín đời Tống, Ngài nói: “Ba mươi năm trước, khi chưa gặp
thiện tri thức, tôi thấy núi sông là núi sông”, tức là thấy núi là thật,
thấy sông là thật. “Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông
không phải là núi sông.” Đó là pháp không phải pháp, nghĩa là thấy các
pháp không thật có, duyên hợp hư giả, tự tánh là không, tức là đạt được
tánh không của tất cả pháp. “Nay ba mươi năm sau, tôi thấy núi sông là núi
sông.” Tức là tâm không còn so đo nghĩ tính, pháp này là có, pháp kia là
không, pháp này đẹp, pháp kia xấu, tâm hoàn toàn thanh tịnh, đó là nhập
thiền. Phải ba mươi năm tâm thuần thục rồi mới nhập thiền chớ không phải
năm tháng, bảy tháng, hay ba năm, năm năm là được.
Chúng ta tu
đến khi nhìn thấy các sự vật đều không có tự tánh, tánh nó là không, duyên
hợp hư giả, thì chúng ta không còn bận tâm với các pháp nữa. Thế nên phải
thâm nhập lý Bát-nhã rồi mới nhập được thiền, vì thiền là “đối cảnh vô
tâm”, tức là “không ra không vào”. Vì các sự vật duyên hợp hư dối, không
còn hấp dẫn mình được, nên mới “không ra không vào”. Giả sử hiện nay có
người đi xa mang về một món đồ thật quí như chiếc đồng hồ đẹp, khoe với
chúng, mọi người nhìn thấy cười thôi, không bàn tán gì cả, thì khả dĩ thấm
mùi thiền. Còn nếu thấy món đồ quí đẹp liền xúm lại xem, rồi bàn tán xôn
xao, đó là chưa nhập được thiền.
Người tu phải
cẩn thận, muốn bước vào cảnh giới thiền, trước phải thấu suốt lý Bát-nhã,
thấy rõ thân, tâm và cảnh cả ba đều không thật. Dù có ai chê mình đen xấu,
hay khen mình trắng đẹp cũng chỉ là giả tướng, đâu có gì quan trọng, thấy
rõ như vậy thì lời khen chê không làm động lòng mình. Đối với cảnh đẹp
cảnh xấu mình cũng không động, vì cảnh đâu có thật. Đến tâm chúng ta cũng
vậy. Nói người khôn kẻ dại cũng là thừa, vì khôn dại đều là vọng, không có
gì quan trọng. Khi biết thân, tâm và cảnh không thật thì không còn chấp,
không còn dính mắc, đó là thiền. Thật đúng với câu ngài Điều Ngự Giác
Hoàng nói: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” Đối cảnh không tâm dính mắc là
đã nhập thiền rồi, còn hỏi thiền chi nữa. Người tu nào đối cảnh vô tâm thì
được phép không ngồi thiền, còn chưa được thì phải tinh tấn tăng giờ.
Việc tu thật
đơn giản, làm sao cả ngày đối với thân mình, ai chê ai khen gì cũng không
dính, ai lý luận nói mình ngu dốt cũng không buồn bực, cái gì đẹp xấu đến
trước mắt mình cũng chẳng bận lòng. Được như vậy cả ngày tới lui tự do,
không cần ngồi thiền, không phải thỉnh nguyện gì nữa. Thật nhàn làm sao!
Thầy làm việc của thầy, trò làm việc của trò, không ai bận bịu đến ai,
thảnh thơi vô cùng. Đây là chủ trương của ngài Điều Ngự Giác Hoàng. Đối
cảnh không tâm, đó là nhập thiền rồi, đừng hỏi thiền chi nữa.
Người tu tập
thiền định không được chấp dụng công, dụng công mà không có chỗ dụng, gọi
là Thiền thượng thừa.
Người tu thiền
không được chấp dụng công. Nếu khi đi cứ một bề ngó xuống, không cho ai
đối diện với mình, thấy ai cũng tránh né, đó là chấp dụng công, chưa phải
là thật thiền. Thiền mà không thấy mình tu gì cả, chỉ thấy người, thấy
cảnh, thấy vật, tâm không dính mắc là được rồi. Nếu không muốn thấy là còn
sợ dính, phải không? Thí dụ như tay mình có keo có nhựa thì cầm cây viết
dính cây viết, cầm cục phấn dính cục phấn, cầm vật nào dính vật nấy, cho
nên mới sợ dính. Còn nếu tay mình không có keo nhựa thì tha hồ cầm các
vật, có dính gì đâu! Cho nên chấp dụng công là còn đang dính. Vì thế khi
Lục Tổ thấy ai ngồi thiền Ngài đến nắm lỗ tai Ngài thổi. Lẽ ra vị nào,
ngoài giờ ngồi thiền công cộng của chúng, còn ngồi thêm ở hành lang hay ở
gốc cây, phải được khen là tinh tấn. Còn Lục Tổ tại sao lại nắm lỗ tai
thổi không cho ngồi? Vì Ngài thấy nếu tâm của mình không dính với cảnh thì
cần gì phải ngồi chỗ này hay chỗ kia. Hiện nay trong chúng có nhiều người
ngoài giờ công tác hay tìm chỗ vắng tránh huynh đệ ngồi một mình cho tâm
thanh tịnh, cũng là hay. Thật ra nếu trước mặt trăm người mà mình không
dính thì ở trong chúng vẫn thanh tịnh. Còn nếu ngồi một mình dưới gốc cây
mà cứ nhớ huynh này huynh kia nói những câu gì đó, tức là có dính. Như vậy
trọng tâm của việc tu là đừng dính mắc, còn lựa chỗ để ngồi thiền chỉ là
phần phụ thôi. Điều quan trọng là phải nhớ gạn lọc cho nội tâm được trong
sáng.
Vậy thiền định
là không chấp dụng công, dụng công mà không có chỗ dụng gọi là Thiền
thượng thừa. Dụng công mà không chỗ dụng tức là không cho tâm dính mắc,
nhưng thấy vẫn thấy, nghe vẫn nghe mà không dính mắc, đó là Thiền thượng
thừa.
Ngoài tham
thoại đầu không cho gián đoạn, miên mật liên tục không có kẽ hở, cũng
không điên đảo, không trạo cử cũng không hôn trầm. Phải trong sáng như
viên ngọc lăn trên mâm, phải sáng suốt như gương trên đài. Đến chỗ đất
này, đi cũng được, đứng cũng được, ngồi cũng được, nằm cũng được, nói hay
nín đều cũng đuợc, có chỗ nào lại không được?
Theo cái nhìn
của ngài Pháp Loa, ngoài lối tu Thượng thừa thiền ở trên, muốn cho được
miên mật thì ứng dụng phương tiện phụ là tham thoại đầu, cốt làm sao cho
mình được luôn luôn trong sáng như viên ngọc lăn trên mâm, dù lăn mặt nào
cũng là sáng cả. Cũng như gương trên đài lúc nào cũng sáng. Đến chỗ đó thì
đi đứng nằm ngồi đều tự tại.
Chúng tôi xin
nhắc lại cho tất cả quí vị nhớ, nếu chúng ta nắm được trọng tâm tu thiền,
thì trên đường tu chúng ta không có gì nghi ngờ cả. Trong kinh Pháp Bảo
Đàn, phẩm Bát-nhã, Lục Tổ nói người tu thiền phải thông suốt lý Bát-nhã.
Nhờ trí tuệ Bát-nhã chúng ta phá được ba cái chấp: chấp tâm, chấp thân và
chấp cảnh. Tâm, thân và cảnh đều không chấp, thì tâm mới không chạy ra,
không dính mắc với ngoại cảnh. Nếu còn chấp một cái nào đều là dính hết.
Thế nên khi chúng ta phá được cái chấp đó rồi thì chúng ta ứng dụng tu
“đối cảnh vô tâm”, như vậy lúc nào cũng là thiền. Song hiện giờ chúng ta
chưa phá được chấp, nên phải ngồi, niệm dấy lên biết là hư dối, đó là phá
chấp tâm trước. Thấy tâm không thật thì mới thấy thân cũng hư dối không
thật. Thấy tâm thấy thân hư dối rồi tiếp tục thấy cảnh cũng hư dối. Nếu
chúng ta chưa có thể thực hiện một lượt ba phần thì đầu tiên chúng ta thực
hiện một phần, phần tâm là đi đầu. Ở đây Ngài cũng dạy quán tâm trước, kế
quán thân rồi quán cảnh. Quán thứ tự như vậy để quí vị thực hành cho có
kết quả từng bước chắc chắn, chớ không phải chỉ có bấy nhiêu đó thôi.
Phá chấp tâm
là gốc, nếu tâm dấy lên biết nó hư dối không theo, thì từ từ chúng ta
buông được những cái chấp khác dễ dàng. Nếu chúng ta quán thân giả dối mà
tâm cứ nghĩ là thật thì cũng còn chấp khá nặng. Vì vậy chúng ta đi từ bước
đầu thấy tâm không thật, cho nên chữ vọng tưởng có nghĩa vọng là hư dối,
tưởng là tưởng tượng, tất cả niệm tưởng đều hư dối, hư dối tức không thật,
không thật tức là không. Bước đầu quí vị tu cho thuần thục, rồi sẽ tới
những bước sau.
Đã được thế
rồi, về sau mới nêu lên những câu ngộ: Tam quan, tam huyền, tam yếu, ngũ
vị, tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng v.v… các cơ quan của Thiền Tổ.
Bảy phen soi, tám phen dùi, nhồi đi ép lại, thấu triệt chân nguyên. Chừng
đó, mới hay mượn pháp tòa của Phật Đăng Vương, nắm sừng thỏ, nhổ lông rùa,
tay hoa một phen chuyển, bốn chúng thảy mịt mờ. Phát sanh vô thượng diệu
tuệ, chiếu soi không cùng. Đối với tứ vô lượng tâm, tứ niệm xứ, tứ vô úy,
bát chánh đạo, thập lực của Phật, mười tám pháp bất cộng, cho đến tám muôn
bốn ngàn môn đà-la-ni, trần trần sát sát, tất cả môn tam-muội đều từ nơi
mình lưu xuất mỗi mỗi đều đầy đủ.
Đoạn trên Ngài
nói về Giới và Thiền định, đến đây là phần Tuệ. Nói về tuệ Ngài dẫn những
danh từ trong nhà thiền rất khó hiểu nào là tam quan, tam huyền, tam yếu,
ngũ vị, tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng v.v… các cơ quan của Thiền
Tổ. Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích cho quí vị rõ.
Tam quan là ba
cửa hay ba cổng mình phải qua khỏi. Tam quan có chỗ nói là: Tổ sư quan,
lao quan và trùng quan.
Tam quan cũng
có nghĩa khác, theo Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long, Ngài dùng tam quan hay
ba cổng để hỏi.
Quan thứ nhất:
Ai cũng có sanh duyên, vậy sanh duyên của Thượng tọa ở đâu?
Quan thứ hai:
Tay tôi sao giống tay Phật?
Quan thứ ba:
Chân tôi sao giống chân lừa?
Ba câu hỏi đó,
ai trả lời thế nào cũng mặc, Ngài không để ý, không nói đúng, không nói
sai. Có nhiều người thắc mắc hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài hỏi, chúng con đáp,
đúng hay sai Ngài dạy cho chúng con biết, vì sao Ngài lại làm thinh?”
Ngài trả lời
rằng: “Nếu anh muốn qua cổng, khi qua khỏi cổng rồi, anh có cần hỏi người
gác cổng không? Nếu còn hỏi người gác cổng, là anh chưa qua khỏi cổng. Vì
vậy nên ta làm thinh không trả lời.” Sau này người ta gọi là tam quan của
ngài Huệ Nam.
Còn Tam huyền
Tam yếu là của ngài Lâm Tế. Ngài thường nói: “Một câu nói phải đủ tam
huyền tam yếu”, nhưng Ngài không có giải thích thế nào là tam huyền tam
yếu. Nếu có giải thích chăng là do người sau, chớ Tổ Lâm Tế không có giải,
cho nên điều đó khó mà phân minh.
Rồi đến Ngũ
vị, trong tông Lâm Tế nói khác và tông Tào Động nói khác. Ngũ vị trong
tông Tào Động gồm có:
Vị
thứ nhất: Chánh trung thiên
Vị
thứ hai: Thiên trung chánh
Vị
thứ ba: Chánh trung lai
Vị
thứ tư: Thiên trung chí
Vị
thứ năm: Kiêm trung đáo
Ngũ vị được
giải thích rõ ở chương ngài Động Sơn Lương Giới, trong quyển Thiền sư
Trung Hoa tập II.
Đến phần Tứ
liệu giản (chọn lựa bốn điều) của tông Lâm Tế, gồm có:
Thứ nhất: Đoạt
nhân bất đoạt cảnh, nghĩa là dẹp người mà không dẹp cảnh. Người ở đây là
chỉ cho nội tâm, người tu chỉ một bề hướng về nội tâm mà dẹp. Thí dụ như
hiện giờ chúng ta tu vừa thấy vọng tưởng dấy lên liền buông xả, đó thuộc
về đoạt nhân bất đoạt cảnh, không cần dẹp ở bên ngoài.
Thứ hai: Đoạt
cảnh bất đoạt nhân, tức là dẹp cảnh mà không dẹp người, không có nhìn vào
trong mà nhìn các pháp ở bên ngoài. Thấy người, thấy vật đều biết nó là hư
dối không có thật, đó là đoạt cảnh. Nếu thấy cảnh không thật thì trong tâm
không chạy theo. Đây là đoạt cảnh mà không đoạt nhân.
Thứ ba: Nhân
cảnh câu đoạt, tức là ở trong thì dẹp tâm, ở ngoài thì dẹp cảnh, tâm cảnh
đều phá.
Thứ tư: Nhân
cảnh câu bất đoạt. Tất cả sự tu hành của mình đến đây coi như đã được an
nhiên tự tại, cảnh là cảnh, tâm là tâm, không còn dính kẹt nữa, cho nên cả
hai đều không đoạt.
Kế đó là Tứ
tân chủ, tông Lâm Tế và tông Tào Động đều có nói. Trong tông Lâm Tế, tân
là khách đến tham vấn, chủ là vị thầy, vị sư để cho người tham vấn. Tứ tân
chủ gồm có:
1.
Tân khán chủ là người khách xem xét thấy rõ ông chủ.
2.
Chủ khán tân là người chủ thấy tường tận được kẻ khách.
3.
Chủ khán chủ là người chủ nhìn lại thấu suốt nơi mình.
4.
Tân khán tân là người khách nhìn rõ ràng về họ.
Phần giải
thích, tôi có nói kỹ trong quyển Thiền sư Trung Hoa nên ở đây chỉ nói đơn
lược thôi.
Tứ chiếu dụng
cũng thuộc về tông Lâm Tế. Chữ chiếu là nói về người nhận thức, về chủ
thể, còn chữ dụng là cái áp dụng bên ngoài, thuộc về khách thể. Chủ thể,
khách thể soi chiếu cho nhau nên gọi là chiếu dụng. Trong chiếu dụng có
chia ra:
1.
Trước chiếu, sau dụng.
2.
Trước dụng, sau chiếu.
3.
Chiếu dụng đồng thời.
4.
Chiếu dụng bất đồng thời.
Nếu giải ra
thì rất dài, nên chúng tôi chỉ kể tên thôi, chớ không thể giải hết được.
Phần nhiều ở các nơi giải thích mỗi chỗ có sai biệt nhau chút ít, nên sau
này nếu có dịp tra khảo lại quí vị sẽ thấy rõ hơn.
Bảy phen soi,
tám phen dùi, nhồi đi ép lại, thấu triệt chân nguyên. Người tu thiền khi
nắm được những cơ quan Thiền Tổ thì phải chịu khó soi cho phủng, dùi cho
thấu và xét tới xét lui, đây gọi là nhồi đi ép lại để thấu triệt nguồn
chân.
Chừng đó mới
hay mượn pháp tòa của Phật Đăng Vương. Mượn pháp tòa của Phật Đăng Vương
xuất xứ từ kinh Duy-ma-cật, quyển trung, phẩm Bất Tư Nghì, trong đó có kể
ngài Duy-ma-cật ở trong thất nhỏ, có chư Bồ-tát, chư A-la-hán đến thăm rất
đông. Ngài mới đưa tay lên cõi Phật Tu-di Đăng Vương ở thế giới Tu-di
Tướng phương Đông mượn các tòa đem về cho chư vị Bồ-tát ngồi. Các tòa của
Phật Tu-di Đăng Vương để gần đầy cả bầu hư không, thế mà Ngài mượn các tòa
trên đó đem về trong thất nhỏ xíu để mời các vị Bồ-tát ngồi. Đó là để nói
lên ý nghĩa khi người tu đạt đến chỗ viên mãn cứu kính thì lớn nhỏ dung
hợp nhau, không có gì chướng ngại.
Nắm sừng thỏ,
nhổ lông rùa. Sừng thỏ, lông rùa, có hay không? Những cái không biến thành
có, những cái có biến thành không, có không đều không chướng ngại nhau.
Cho nên khi được diệu dụng rồi thì tất cả lớn nhỏ, có không đều không
chướng ngại.
Tay hoa một
phen chuyển, bốn chúng thảy mịt mờ. Tay của các ngài một phen xoay chuyển
thì tất cả mọi người trong bốn chúng đều không thể hiểu nổi, không thể
thấu được ý nghĩa thâm trầm của các ngài. Đó là để diễn tả người tu thiền
khi thấu suốt được các ý nghĩa cao siêu của chư Tổ thì sẽ có những diệu
dụng không thể lường được. Những diệu dụng đó từ một hành động, từ một lời
nói, đều chỉ ra chỗ chân thật mà mọi người ít ai hiểu, ít ai thấu suốt.
Cho nên nói:
Phát sanh vô
thượng diệu tuệ, chiếu soi không cùng. Lúc đó trí tuệ vô thượng sẽ phát
sanh, chiếu soi cùng khắp.
Đối với tứ vô
lượng tâm, tứ niệm xứ, tứ vô úy, bát chánh đạo, thập lực của Phật, mười
tám pháp bất cộng, cho đến tám muôn bốn ngàn môn Đà-la-ni, trần trần sát
sát, tất cả môn tam-muội đều từ nơi mình lưu xuất mỗi mỗi đều đầy đủ.
Người đạt đạo rồi thì tất cả pháp của Phật dạy đều có thể được viên mãn,
cho nên nói lời gì, làm việc gì đều không ngoài pháp của Phật, và tất cả
pháp của Phật dạy đều nằm trong cái thấy, cái biết, cái trình bày của
chính mình, không có ra ngoài. Thế nên cái gì Phật có là mình cũng sẽ có,
cái gì mình có tức là Phật đã có. Như vậy để nói pháp Phật và pháp của
người ngộ đạo nói ra không hai.
Về các từ ngữ
chúng tôi sẽ giải thích tên cho quí vị rõ. Tứ vô lượng tâm là: từ vô lượng
tâm, bi vô lượng tâm, hỉ vô lượng tâm, xả vô lượng tâm. Người tu chắc rằng
ai cũng có tâm từ bi hỉ xả, nhưng có tâm từ bi hỉ xả vô lượng thì không
phải dễ. Vì chúng ta mới tập tu hoặc là tập mà chưa có thuần, cho nên lòng
từ bi hỉ xả chỉ có trong giới hạn, chớ chưa có trong vô lượng. Khi nào tâm
từ bi hỉ xả được vô lượng thì được ngang với Bồ-tát, cho nên nói Tứ vô
lượng tâm là tâm của Bồ-tát.
Kế đến là Tứ
niệm xứ. Tại sao gọi là Tứ niệm xứ? Xứ là chỗ, niệm là chuyên nhớ, tức là
bốn chỗ mình phải nhớ. Về pháp quán, Nhị thừa luôn luôn lấy Tứ niệm xứ làm
đề tài thiền quán.
Thứ nhất là quán thân bất tịnh.
Tức là quán
thân này là nhơ nhớp bất tịnh. Người tu phải luôn luôn chuyên tâm nhớ thân
này là nhơ nhớp bất tịnh, đó là nhớ đúng lẽ thật. Vì chúng ta điên đảo
tưởng thân là tịnh, cho nên bắt buộc chúng ta phải nhớ cho đúng lẽ thật,
thân nhơ nhớp bất tịnh thì biết là thân nhơ nhớp bất tịnh. Nếu thân mình
bất tịnh thì thân người khác cũng bất tịnh. Hằng nhớ như vậy thì dứt được
bệnh luyến ái về thân, thân mình và thân người.
Thứ hai là quán thọ thị khổ.
Thọ tức là tất
cả cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình. Hằng quán tất cả
cảm giác đều là khổ. Nhưng trong kinh nói thọ chia ra ba thứ: khổ thọ, lạc
thọ, bất khổ bất lạc thọ, tức là cảm giác vui, cảm giác khổ, cảm giác
không vui không khổ.
Thí dụ cảm
giác của lưỡi, khi chúng ta để thức ăn ngon vào lưỡi thì có cảm giác vui,
còn để thức ăn quá đắng vào lưỡi thì có cảm giác khổ. Nếu bưng ly nước lã
uống thì cảm giác không khổ không vui, nước lã không thích, cũng không
không thích, trừ ra khi nào khát. Lẽ ra cảm giác có khi khổ khi vui, vì
sao ở đây chỉ dạy chúng ta phải quán thọ là khổ, cảm giác là khổ? Cảm giác
dù là vui, nhưng mọi cảm giác đều vô thường, qua rồi mất. Cái gì bị vô
thường chi phối đều là khổ. Tại sao vậy? Vì cảm giác vui thì mình muốn
giữ, mà nó qua mất cho nên khổ. Còn cảm giác khổ, muốn qua cho nhanh mà cứ
nhớ hoài. Tỉ dụ như uống một chén thuốc bắc vừa hôi vừa đắng, cảm giác khi
uống là khổ, cho nên muốn uống cho mau. Uống qua rồi mà vị đắng vẫn chưa
hết! Muốn qua mau, lại nhớ lâu, cho nên cũng khổ. Thọ vui rồi mất, thọ khổ
lại kéo dài, cho nên tất cả thọ dù khổ, dù vui hay không khổ không vui,
Phật đều kết luận là khổ. Nếu mọi cảm giác đều là khổ thì chúng ta có
thích cảm giác vui, chán cảm giác khổ hay không? Vì biết cảm giác nào cũng
là gốc khổ, nên chúng ta không tìm không thích. Đó gọi là quán thọ thị
khổ.
Thứ ba là quán tâm vô thường.
Tâm vô thường
là những tâm niệm của mình, giờ phút này nó nghĩ khác, giờ phút sau nó
nghĩ khác, luôn luôn chạy nhảy không dừng giống như khỉ vượn. Vì tâm là vô
thường, làm sao tin được nó. Thế mà có nhiều người nói tâm tôi tốt lắm, có
nên tin lời đó không? Khi gặp cảnh tốt thì nó tốt, gặp cảnh xấu chưa chắc
nó tốt. Thí dụ gặp ai khen mình, lúc đó chúng ta rất tốt, rất vui mừng.
Nếu gặp ai chửi mình, chúng ta còn tốt không? Lúc đó tâm sân hận nổi lên
ngay, làm sao tốt được!
Như vậy tâm
chúng ta không cố định là tốt hay xấu, luôn luôn nó chuyển biến theo cảnh
bên ngoài. Người đời không biết nên cứ nuôi dưỡng tâm vô thường cho nó là
hay là quí. Người tu biết nên dùng chữ vọng hay huyễn để chỉ nó, và không
theo nó. Trong kinh Phật có dạy: “Chừng nào chứng A-la-hán, các ông mới
nên tin tâm mình.” Còn chưa chứng A-la-hán, thì không tin nó được. Vậy mà
có nhiều người nói tâm tôi cứng cỏi không sợ. Cứng cỏi không sợ là vì
người ta yếu hơn mình, còn nếu người mạnh hơn thì mình thua ngay. Thế nên
ai tin tâm mình là giống như tin kẻ trộm cướp, thế nào cũng bị nó gạt. Vậy
phải luôn quán tâm là vô thường, không đáng tin.
Thứ tư là quán pháp vô ngã.
Tất cả pháp
chia làm hai loại: Một là pháp ở nội tâm, gọi là tâm sở pháp, hai là pháp
ở bên ngoài gọi là các pháp. Tất cả pháp dù ở nội tâm hay ở bên ngoài đều
là duyên hợp, không có thực thể, nên gọi là vô ngã.
Bốn pháp quán
này là pháp tu của Nhị thừa, gọi là quán Tứ niệm xứ.
Đến đây chúng
tôi nói về Bát chánh đạo, đây là pháp tu của Nhị thừa, là căn bản của Phật
pháp. Chư Tăng Ni đi thọ giới thường được hỏi về ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
trong đó Bát chánh đạo là gốc, gồm có:
1. Chánh kiến,
2. Chánh tư duy, 3. Chánh ngữ, 4. Chánh nghiệp, 5. Chánh mạng, 6. Chánh
tinh tấn, 7. Chánh niệm, 8. Chánh định.
Trong Bát
chánh đạo tuy không nói về tuệ, nhưng chánh kiến thuộc về tuệ rồi, còn
chánh niệm chánh định thuộc về định. Vậy Bát chánh đạo là nền tảng của
người tu Phật, chúng ta phải nắm cho thật vững, đó là con đường đi không
thể quên được.
Tứ vô úy cũng
gọi là Tứ vô sở úy, tức là bốn đức chẳng sợ, đây nói về bốn đức chẳng sợ
của Phật, gồm có:
1.
Có trí biết tất cả, nên chẳng sợ chi hết.
2.
Dứt hết các phiền não, nên chẳng sợ chi hết.
3.
Giải thuyết chỉ chỗ ngăn hại đạo, nên chẳng sợ chi hết.
4.
Giảng thuyết dạy dứt hết các khổ, nên chẳng sợ chi hết.
Bốn đức này
của Phật, người tu cần phải biết.
Thập lực của
Phật gồm có:
1. Biết rõ
nhân duyên quả báo trong mọi trường hợp.
2. Biết rõ
nghiệp nhân nghiệp quả của mọi chúng sanh quá khứ, hiện tại, vị lai.
3. Biết rõ tất
cả mọi cấp thiền định cạn sâu hướng đến giải thoát.
4. Biết rõ căn
tánh hơn kém và quả báo nặng nhẹ của mọi chúng sanh.
5. Biết rõ
những việc thiện ác và các dục vọng khác nhau của mọi chúng sanh.
6. Biết rõ
hoàn cảnh, tình huống khác nhau của mọi chúng sanh.
7. Biết rõ sự
vận hành các qui luật thiện ác.
8. Biết rõ các
đời sống quá khứ.
9. Biết rõ các
đời sống vị lai.
10. Biết rõ
các lậu hoặc đã dứt sạch.
Về mười tám
pháp bất cộng của Phật, trong Đại Phẩm Bát-nhã có nói:
1.
Thân không lầm lỗi.
2.
Miệng không lầm lỗi.
3.
Niệm không lầm lỗi.
Thân, miệng và
niệm của Phật không bao giờ lầm lỗi. Trái lại thân miệng và ý niệm của
chúng ta thường lầm lỗi, cho nên chúng ta phải tu thật lâu mới có thể sạch
được phần nào.
4.
Bình đẳng cứu độ tất cả chúng sanh.
5.
Tâm luôn luôn ở trong thiền định.
6.
Tâm luôn luôn vắng lặng, an tịnh trước mọi cảnh khổ vui.
7.
Tâm mong muốn cứu độ chúng sanh không nhàm chán.
8.
Luôn luôn tinh tấn trong mục đích độ sanh.
9.
Đầy đủ niệm lực.
10. Đầy đủ trí tuệ.
11. Đầy đủ giải thoát.
12. Đầy đủ giải thoát tri kiến.
13. Thân nghiệp luôn sống theo trí tuệ.
14. Khẩu nghiệp luôn sống theo trí tuệ.
15. Ý nghiệp luôn sống theo trí tuệ.
16. Biết rõ các đời sống quá khứ.
17. Biết rõ các đời sống vị lai.
18. Biết rõ hiện tại đã dứt sạch các lậu hoặc.
Mười tám pháp
này gọi là Thập bát bất cộng vì chỉ đức Phật biết, còn tất cả chúng ta
chưa ai biết được, cho nên không có cọng, không có chung.
Cho đến tám
muôn bốn ngàn môn Đà-la-ni, Đa-la-ni là thần chú, tức là tám muôn bốn ngàn
pháp thần chú. Tại sao Phật nói nhiều thần chú như vậy? Vì Phật đã ngộ đã
chứng nên những điều Phật nói hay Phật làm, đều là cứu khổ độ sanh, giống
như thần chú có diệu dụng làm cho người hết khổ, thế nên nói tám muôn bốn
ngàn môn thần chú Đà-la-ni.
Trần trần sát sát, trần là bụi, sát là cõi nước.
Tất cả môn
tam-muội đều từ nơi mình lưu xuất, mỗi mỗi đều đầy đủ. Tam-muội là chánh
định. Dù cho bao nhiêu hạt bụi, bao nhiêu cõi nước, tất cả môn tam-muội
đều từ chỗ giác ngộ của mình mà xuất hiện đầy đủ không có thiếu sót. Khi
chúng ta tu đầy đủ diệu dụng, thì tất cả diệu dụng của Phật, từ từ chúng
ta cũng sẽ có.
Tuệ đã đầy đủ,
ban cho chúng sanh, nguyện lực không cùng tận, tự giác giác tha, tứ sanh
và cửu loại, tất cả đều được thấm nhuần. Nếu tuệ mà không định gọi là càn
tuệ (tuệ khô), định mà không tuệ gọi là si thiền.
Ở đây Ngài dạy
cho chúng ta thấy rõ nếu chúng ta tu được định rồi phát tuệ thì định và
tuệ hỗ tương nhau, nên chúng ta mới làm được những việc lợi ích cho chúng
sanh, nào là ban cho chúng sanh những nguyện lực không cùng tận, nào là
chúng ta tự giác rồi giác ngộ cho người, tứ sanh và cửu loại tất cả đều
được thấm nhuần. Tứ sanh là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh.
Cửu loại tức là chín loài, gồm có:
1.
Loài sanh bằng trứng.
2.
Loài sanh bằng thai.
3.
Loài sanh từ nơi ẩm thấp.
4.
Loài sanh bằng biến hóa.
5.
Loài sanh có sắc.
6.
Loài sanh không có sắc.
7.
Loài sanh có tưởng.
8.
Loài sanh không có tưởng.
9.
Loài sanh không có tưởng, cũng không phải không có tưởng, tức là phi phi
tưởng.
Nếu tuệ mà
không định gọi là càn tuệ (tuệ khô), định mà không tuệ gọi là si thiền.
Nếu chúng ta
tu mà chỉ dùng trí tuệ quán chiếu, tâm không an định thì gọi là càn tuệ
tức tuệ khô. Còn nếu thiền định yên lặng mà không có trí tuệ gọi là si
thiền, tức là tu thiền mà không sáng suốt.
Thiền có chia
làm năm: 1. Phàm phu thiền, 2. Ngoại đạo thiền, 3. Tiểu thừa thiền, 4. Đại
thừa thiền, 5. Thượng thừa thiền.
Đây là nói
theo nhận định của ngài Tông Mật. Năm loại thiền này chúng tôi đã giảng
trong cuốn Nguồn Thiền, nay xin nhắc lại.
1. Phàm phu
thiền. Tu thiền định theo nhà Phật, tuy chứng được bốn thiền: sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, cũng gọi là phàm phu thiền, vì tu bốn
thiền này người tu chỉ sanh từ cõi trời Sắc giới trở xuống thế gian thôi,
chớ chưa giải thoát.
2. Ngoại đạo
thiền, cách tu thiền này có hai trường hợp: một là tu để cầu thần thông,
hai là tu không hướng về nội tâm, lại hướng bên ngoài để cầu trợ lực.
Torng nhà thiền định nghĩa ngoại đạo thiền một cách đơn giản là ngoài tâm
cầu đạo, tức là tu thiền mà không hướng vào nội tâm để an định, lại mong
cái gì bên ngoài trợ lực cho mình.
3. Tiểu thừa
thiền. Chúng ta đã biết qua rồi.
4. Đại thừa
thiền là cách tu thiền của ngài Huệ Tư dạy cho ngài Trí Giả Đại sư về pháp
quán Không Giả Trung.
5. Thượng thừa
thiền hay Tối thượng thừa thiền, tức là Thiền tông.
Đây nói thiền,
chính là Thượng thừa thiền vậy. Thiền này từ đức Phật Tỳ-lô-giá-na trải
qua số kiếp bất khả thuyết bất khả thuyết đến đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Đức Thích-ca truyền xuống cho hai mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ và sáu vị Tổ ở
Trung Hoa, rồi Tổ Tổ trao tay cho nhau truyền bá khắp nơi, tính không thể
hết được. Các vị đều do giới này, định này, tuệ này mà được chứng ngộ,
thật không có pháp nào khác.
Phật
Tỳ-lô-giá-na là chỉ Phật pháp thân, mà Phật pháp thân là Phật sẵn có của
tất cả chúng sanh, chớ không phải riêng một đức Phật nào.
Nói rằng: đức
Phật Tỳ-lô-giá-na trải qua số kiếp bất khả thuyết bất khả thuyết đến đức
Phật Thích-ca Mâu-ni, đó là một lối nói, thật ra Phật pháp thân đã có sẵn
từ vô số kiếp, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã phát hiện và Ngài đã sống được,
rồi chỉ dạy lại cho hai mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ, sáu vị Tổ ở Trung Hoa và
trao lần cho đến sau này. Tất cả người ngộ được, chứng được đều có đường
lối chung như vậy.
Đến đây Ngài
răn:
Này các chú!
Các chú đã vào trong chùa làm ông đạo, làm học trò.
Chúng tôi thêm
các cô vào cho đủ: Các chú, và các cô, quí vị đã vào trong chùa làm người
tu, làm học trò…
Chỉ cầu danh
dự mà chẳng chịu tham đến chỗ, cái gì là chỗ hạ thủ của Phật, Tổ?
Không chịu
tham cứu cho cùng tột, xem chỗ nào Phật đã ngộ Tổ đã ngộ, tìm cho tột chỗ
đó.
Cái gì là chỗ
dụng tâm của ngoại đạo, Tiểu thừa? Chúng ta phải biết rõ Tiểu thừa tu thế
nào, ngoại đạo tu ra sao.
Luống để cho
ngày lại tháng qua, lăng xăng tìm cầu bên ngoài. Một phen cái chết đến rồi
phải làm sao? Đâu là nơi an thân lập mạng? Vả lại, ba ngàn oai nghi tám
muôn tế hạnh, chính mình không có một mảy may. Một hôm nào đó, vua Diêm-la
đến, ắt không thể tha cho ngươi. Ngươi sao chẳng chịu xét lại, chớ lấy các
việc trong mộng, rồi bác không nhân quả “mênh mang bát ngát chiêu ương
họa”. Như thế chẳng những làm đồi bại tông môn, mà cũng khiến suy tàn
chánh pháp.
Ôi! Tôi còn biết nói gì hơn!
Đây là lời
khuyên nhắc của Ngài: Là người tu trong đạo, chúng ta phải tìm cho tận cội
nguồn, chỗ chư Tổ đã ngộ, chỗ đức Phật đã giác ngộ và giải thoát. Kế đến
phải thấy chỗ tu của ngoại đạo, chỗ thực hành của Tiểu thừa. Rồi chúng ta
cố gắng tu cho vững, làm sao nơi mình có đầy đủ ba ngàn oai nghi tám muôn
tế hạnh. Được như vậy chúng ta mới có thể thoát khỏi quỉ vô thường dẫn
xuống vua Diêm-la. Chớ bác không nhân quả để rồi phải tự chuốc lấy họa,
làm cho Phật pháp suy vi, đó là lỗi lớn ở chính mình.
Về ba ngàn oai
nghi tám muôn tế hạnh, chúng tôi kể cho quí vị nghe. Đó là căn cứ vào hai
trăm năm chục giới của Tỳ-kheo, phối hợp với bốn oai nghi đi, đứng, nằm,
ngồi, thì được một ngàn oai nghi. Lại kết hợp với ba đời quá khứ, hiện
tại, vị lai, thành ba ngàn oai nghi. Đồng thời phối hợp với bảy chi của
thân và khẩu là sát, đạo, dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ
thành ra hai mươi mốt ngàn, rồi phối hợp với bốn thứ phiền não tham, sân,
si, đẳng phần, như vậy thành tám muôn bốn ngàn tế hạnh. Đây chỉ là con số
tượng trưng, chớ không có lẽ thật.
Qua bài này Tổ
Pháp Loa muốn cho tất cả người tu chúng ta phải đủ ba môn: giới, định,
tuệ. Giới định tuệ viên mãn, chúng ta mới có thể thành công trên đường tu
giác ngộ và giải thoát. Nếu trong ba môn mà thiếu một, thì khó được giải
thoát. Trên đây dùng rất nhiều danh từ, chúng tôi chỉ nói đơn giản, chớ
không giải thích hết được.
] |