TAM TỔ TRÚC LÂM GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

TỔ THỨ HAI PHÁI TRÚC LÂM

NÓI CHỖ CỐT YẾU CỦA ĐẠI THỪA

(Đại thừa yếu thuyết)

DỊCH:

Nếu người học cần yếu phải từ cạn đến sâu. Tức là gồm ba môn tuệ học, Văn Tư Tu, ba môn này thảy đều là Bát-nhã (trí tuệ). Giải rằng: Trước cần nghe pháp sanh tri giải, gọi là Văn tuệ. Kế suy gẫm pháp đã nghe, nhận định yếu lý rõ ràng, do suy gẫm nhập tâm mình, gọi là Tư tuệ. Rốt sau, như chỗ đã nghe, đã suy gẫm, căn cứ vào đó tu hành không cho sai chạy, gọi là Tu tuệ. Hai tuệ trước thuộc về hữu lậu, một tuệ sau thuộc vô lậu. Trước thì cạn, sau thì sâu. Tuy cạn sâu có khác, đều gọi chung là tuệ.

Kinh Pháp Hoa nói: “Nếu người được nghe hiểu, suy gẫm tu hành, ắt biết người ấy được gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Anuttara-Samyak-Sambodhi). Lại nói Giáo Lý Hạnh Quả rằng: “Do suy tầm Giáo nên ngộ được Lý, nhân ngộ Lý khởi Hạnh, Hạnh thành thì chứng quả. Cho nên gọi là Giáo, Lý, Hạnh, Quả.

Nay lược nêu ít điều để chỉ bày cho người học, nếu khéo nhận rõ được chỗ này thì sẽ thông suốt chỗ kia. Cổ đức nói: “Học một quyển kinh được thông thì muôn quyển kinh đều hiểu.” Đây là chỗ tôi nhắc, người học phải thẩm tra tường tận.

GIẢNG:

Bài trước Ngài nói về Tam vô lậu học giới, định, tuệ, ở đây Ngài nói về Tam tuệ học văn, tư, tu. Chúng ta cần nắm vững trên đường tu cái nào quan trọng, phải biết cho thật rõ.

Nếu người học cần yếu phải từ cạn đến sâu. Tức là gồm ba môn tuệ học, Văn Tư Tu, ba môn này thảy đều là Bát-nhã (trí tuệ). Giải rằng: Trước cần nghe pháp sanh tri giải, gọi là Văn tuệ. Kế suy gẫm pháp đã nghe, nhận định yếu lý rõ ràng, do suy gẫm nhập tâm mình, gọi là Tư tuệ. Rốt sau, như chỗ đã nghe, đã suy gẫm, căn cứ vào đó tu hành không cho sai chạy, gọi là Tu tuệ. Hai tuệ trước thuộc về hữu lậu, một tuệ sau thuộc vô lậu. Trước thì cạn, sau thì sâu. Tuy cạn sâu có khác, đều gọi chung là tuệ.

Chúng tôi sẽ giải thích cho quí vị thấy Tam tuệ học này rất thiết yếu đối với người tu học. Trước là Văn tuệ, kế là Tư tuệ, sau là Tu tuệ. Nếu người nào học đạo mà thiếu ba môn này, đó là người không biết học đạo.

Trước hết tôi nói về Văn tuệ, văn là nghe. Ví dụ như nghe giảng về các pháp vô thường, quí vị hiểu được, đó là Văn tuệ.

Nếu chúng ta nghe hiểu rồi thôi, thì cái hiểu đó chỉ là cạn cợt ngoài da, không thấm vào tâm tư mình, nên phải có tư, nghĩa là chúng ta phải ngồi lại suy gẫm cho thấu đáo xem các pháp vô thường như thế nào. Căn cứ vào thân mình từ nhỏ đến lớn, rồi già và chết, vậy thân mình là vô thường. Cái nhà khi nào mới xây cất, nay cũ rồi hư hoại, căn nhà là vô thường. Đến cây cối chúng ta trồng, từ một mầm nhỏ, lớn thành cây rồi già, khô cành gãy nhánh và chết rụi. Suy gẫm từ con người đến sự vật chung quanh như cái nhà, cây cối v.v…, chúng ta thấy tất cả đều vô thường, suy gẫm như thế gọi là Tư tuệ.

Chúng tôi thường trách Tăng Ni chỉ nghe giảng kinh dạy sử, rồi về xếp lại không suy gẫm xem những lời Phật tổ chỉ dạy ý nghĩa như thế nào, rồi tìm từ sự vật chung quanh cho đến bản thân mình xem những lời Phật tổ dạy có đúng như thật hay không?

Suy gẫm kỹ, thấy tường tận gọi là tư, như vậy mới là trí tuệ của mình.

Nghe và hiểu được những lời Phật tổ dạy là hay, là đã có trí tuệ rồi, nhưng phải suy tư thật kỹ mới thấm. Khi thấm được, biết đó là chân lý, thì phải ứng dụng tu, đó là Tu tuệ.

Đa số người học đạo chỉ có văn mà không có tư, nên hiểu cạn ngoài da. Chỉ khi nào làm thầy dạy người mới có tư một chút, suy gẫm lời Phật dạy, phải hiểu thế nào để giải cho người hiểu, nhờ đó mới thấm. Thế nên người học nhiều kinh mà không dạy người khác thì không có Tư tuệ, nên dễ quên. Nhờ dạy mà chúng ta nhớ lâu, nhìn được tường tận.

Lúc xưa khi viết về ba môn tuệ này, chúng tôi nói: Phật dạy ba môn tuệ rất khoa học, thích hợp với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Ở thế gian bất cứ ai đi học, muốn giỏi và thành nghề, đều phải qua ba phần: Thứ nhất là lý thuyết, tức là văn. Thứ hai là thí nghiệm hay nghiền ngẫm, tức là tư. Thứ ba là thực hành, tức là tu. Trong đạo nói văn, tư, tu, ngoài đời gọi là lý thuyết, thí nghiệm và thực hành. Vậy người học Phật không phải nghe rồi tin, mà phải nghe rồi hiểu, hiểu rồi suy gẫm cho tường tận, đối chiếu từ cái này đến cái kia coi đúng như thật hay không. Chừng nào suy gẫm đúng, chừng đó mới ứng dụng tu.

Như vậy văn, tư, tu là ba môn rất thiết yếu trong nhà Phật. Trong đây chia ra hai cái trước là trí tuệ cạn, cái thứ ba mới là sâu. Tại sao? Vì thực hành rồi, mới là cái thật chứng của mình, còn chưa thực hành thì chưa thật chứng.

Kinh Pháp Hoa nói: “Nếu người được nghe hiểu, suy gẫm tu hành, ắt biết người ấy được gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Nếu người nào có đủ ba môn văn, tư, tu thì người đó gần với Phật, bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nói Giáo Lý Hạnh Quả rằng: “Do suy tầm Giáo nên ngộ được Lý, nhân ngộ Lý khởi Hạnh, Hạnh thành thì chứng quả.” Cho nên gọi là Giáo, Lý, Hạnh, Quả.

Trong kinh Phật luôn luôn đặt ra giáo, lý, hạnh, quả. Từ giáo chúng ta được lý, nếu khéo tu thì từ lý sẽ đi tới hành, mà hành tức nhiên đạt được quả. Chúng tôi dẫn một câu trong kinh Kim Cang Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, phàm cái gì có tướng đều là hư dối, biết rõ được lời Phật dạy như thế gọi là giáo. Khi nghe như vậy, chúng ta phải suy gẫm, do suy gẫm mà ngộ được lý: Tất cả pháp đều là hư vọng. Vậy nương nơi giáo suy gẫm mà đạt lý, là các pháp như huyễn, hư dối, không thật.

Đến câu “nhược kiến chư tướng phi tướng” là biết các pháp duyên hợp hư huyễn. Hiểu rõ như vậy, chúng ta nhìn pháp nào cũng biết là hư huyễn, nên các tướng của nó đều không phải tướng, tức là hư dối, huyễn hóa. Thấy tường tận như vậy gọi là hạnh. Thấy các pháp là huyễn hóa không thật, dù thiên hạ khen pháp đó là đẹp là quí, chúng ta cũng biết nó là huyễn, tức là “kiến chư tuớng phi tướng”, chừng đó liền được quả “tức kiến Như Lai”, nghĩa là thấy Phật.

Như vậy từ nơi giáo chúng ta ngộ lý, từ lý mà quán chiếu thực hành, do thực hành nên được kết quả. Chỉ trong một câu kinh của Phật gồm đủ cả giáo, lý, hạnh, quả. Nếu chúng ta khéo tu thì sẽ được kết quả tốt đẹp không nghi ngờ, còn không khéo tu thì khó biết được kết quả như thế nào!

Nay lược nêu ít điều để chỉ bày cho người học, nếu khéo nhận rõ chỗ này thì sẽ thông suốt chỗ kia. Nếu hiểu được chỗ này tường tận thì chỗ kia chúng ta cũng thấu suốt.

Cổ đức nói: “Học một quyển kinh được thông thì muôn quyển kinh đều hiểu.” Đây là chỗ tôi nhắc, người học phải thẩm tra tường tận.

Học một quyển kinh mà thông suốt, thâm nhập được thì đọc những quyển khác chúng ta đều hiểu. Còn đọc quyển nào cũng qua loa, dù đọc một ngàn quyển cũng không hiểu gì cả. Đó là ý nghĩa của đoạn này.

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM