TỔ THỨ BA PHÁI TRÚC LÂM
THIỀN SƯ HUYỀN QUANG
(1254 – 1334)
Sư tên Lý Đạo
Tái, sanh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ
là Huệ Tổ dòng dõi quan liêu, nhưng đến đời ông thì không thích công danh,
chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không
nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà Sư ở phía nam chùa
Ngọc Hoàng. Năm Sư sanh, một hôm thầy trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư
Huệ Nghĩa tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường
kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội
đông vầy, Kim cang Long thần chật nứt, Phật chỉ tôn giả A-nan bảo: “Ngươi
thác sanh làm pháp khí cõi đông.” Chợt có ông đạo gõ cửa, ông chợt tỉnh
giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa:
Âm: Nhân
chi vị đạo khởi tha tầm
Tâm tức Phật hề Phật tức tâm
Huệ địch kiết tường vi ảnh hưởng
Thử sanh tất kiến hảo tri âm.
Dịch: Người
mà vì đạo chớ tìm đâu,
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu.
Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng,
Đời này ắt gặp bạn tâm đầu.
Thuở nhỏ Sư
dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mến yêu dạy các học thuật. Sư học
một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ hai (1274), đời
vua Trần Thánh Tông, Sư thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy được hai
mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Sư, nhưng chưa cưới. Sau khi thi
đậu, nhà vua gả công chúa cho, Sư vẫn từ chối.
Sư được bổ làm
quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn
ngữ của Sư vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục.
Một hôm, Sư
theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư
Pháp Loa giảng kinh, Sư chợt tỉnh ngộ duyên trước, khen ngợi quí mến, tự
than: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân
gian là bậc tiên, cảnh giới tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quí
như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến?”
Sư mấy phen
dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua rất mến trọng
Phật giáo, nên sau cùng mới cho. Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba
(1305), Sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều
Ngự, được pháp hiệu là Huyền Quang.
Niên hiệu Hưng
Long thứ mười bảy (1309), Sư theo hầu Pháp Loa y theo lời phó chúc của
Điều Ngự. Sư vâng lệnh trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Sư đa văn
bác học, tinh thâm đạo lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham
vấn thường xuyên không dưới ngàn người.
Sư thường
phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư phẩm kinh, Công văn
v.v… Những khoa giáo trong nhà thiền mỗi mỗi đều phải qua tay Sư cả.
Ngày rằm tháng
giêng năm Quí Sửu (1313) Vua Anh Tông mời về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh
Lăng Nghiêm. Sau đó, Sư dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đây,
lập ngôi chùa phía tây nhà Sư để hiệu là chùa Đại Bi.
Sư trở về chùa
Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Sư nên cho Điểm
Bích là một cung nhân tìm cách gần Sư để lấy bằng chứng đem về dâng vua.
Điểm Bích dùng man kế gợi lòng từ bi của Sư, rồi về tâu dối với vua. Vì
thế, Sư bị tai tiếng không tốt. Nhưng sau cuộc lễ chẩn tế của Sư, thấy
những sự linh nghiệm lạ thường, nhà vua không còn nghi ngờ. Vua liền phạt
Điểm Bích làm kẻ nô bộc quét chùa trong cung Cảnh Linh ở nội điện.
Năm Đại Khánh
thứ tư (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Điều Ngự và tâm kệ.
Năm 1330, khi
Tổ Pháp Loa tịch, Thiền sư Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử, bấy giờ Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Tuy nhận trọng
trách lãnh đạo Giáo hội, song vì già yếu nên Ngài ủy thác mọi việc cho
Quốc sư An Tâm, trở về trụ trì ở Côn Sơn.
Sư trụ trì ở
Thanh Mai Sơn sáu năm. Kế sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày hai
mươi ba tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Sư viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám
mươi tuổi.
Vua Trần Minh
Tông phong thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền
Quang Tôn Giả.
Những tác phẩm
của Sư:
- Ngọc tiên
tập
- Chư phẩm
kinh
- Công văn tập
- Phổ Tuệ Ngữ
Lục
GIẢNG:
Trước nhất,
tôi có những nhận xét về tiểu sử của Tổ Huyền Quang, tìm trong sử sách
thấy rất là mơ hồ, chỉ có quyển Tổ Gia Thực Lục là đầy đủ, nhưng qua bản
này tôi có những ngờ vực:
1. Đọc bản Tổ
Gia Thực Lục chúng ta thấy cả một tấm màn thần bí che phủ đời của Tổ Huyền
Quang.
2. Theo nhận
xét riêng tôi, bản Tổ Gia Thực Lục có lẽ do người trong gia tộc biên soạn,
chớ không phải là một đệ tử kế thừa ghi lại Ngữ lục của thầy.
3. Nếu đệ tử
kế thừa viết Ngữ lục của thầy thì phải ghi đủ:
- Ngài xuất
gia lúc nào, với ai, lý do ngộ đạo và được truyền tâm ấn.
- Những lời
đối đáp với người học đạo hay Thiền khách và những lời dạy chúng của Ngài.
- Ngài đã
truyền tâm ấn cho ai khi Ngài già.
- Khi tịch
Ngài có để lại kệ tụng hay không và trạng thái lúc tịch như thế nào.
Như vậy bản
này mới đủ tư cách là một bản Ngữ lục ghi lại đời của một vị thầy, một vị
Thiền sư, hơn nữa là vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm. Nhưng bốn điều
kiện này không được ghi rõ trong bản Tổ Gia Thực Lục. Quyển này đáng được
tin cậy đối với người trong gia tộc vì những việc xảy ra trong gia tộc, dù
không quan trọng cũng được ghi lại đầy đủ, còn những điểm cần trong đạo
lại không có, nên không đủ tư cách để giải rõ cho người sau hiểu được tinh
thần truyền bá chánh pháp của Ngài.
Trong bài học
hôm nay, chúng tôi không hoàn toàn theo bản Tổ Gia Thực Lục mà gom góp
nhiều nơi để làm căn bản, nhưng vẫn có những phần như phần đầu bài này,
phải dùng đến bản Tổ Gia Thực Lục, nên không tránh khỏi những mâu thuẫn.
Đó là tổng quát về quyển Tổ Gia Thực Lục mà những vị viết tiểu sử Tổ Huyền
Quang đều y cứ vào đó.
Sư tên Lý Đạo
Tái, sanh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ
là Huệ Tổ dòng dõi quan liêu, nhưng đến đời ông thì không thích công danh,
chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, nhưng ông không
nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà Sư ở phía nam chùa
Ngọc Hoàng. Năm Sư sanh, một hôm thầy trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư
Huệ Nghĩa tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường
kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội
đông vầy, Kim cang Long thần chật nứt, Phật chỉ tôn giả A-nan bảo: “Ngươi
thác sanh làm pháp khí cõi đông.” Chợt có ông đạo gõ cửa, ông chợt tỉnh
giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa:
Âm: Nhân
chi vị đạo khởi tha tầm
Tâm tức Phật hề Phật tức tâm
Huệ địch kiết tường vi ảnh hưởng
Thử sanh tất kiến hảo tri âm.
Dịch: Người
mà vì đạo chớ tìm đâu,
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu.
Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng,
Đời này ắt gặp bạn tâm đầu.
Đoạn này nói
rõ khi Ngài sanh ra, thầy trụ trì chùa gần nhà mộng thấy sự việc trên.
Điều này thầm nói Ngài là hiện thân của ngài A-nan. Thời quá khứ ngài
A-nan tướng tốt không kém Phật nhưng Ngài lại không giống. Đó là một điểm.
Đồng thời câu chuyện này cho thấy Ngài là một vị nếu không phải là Bồ-tát,
cũng là A-la-hán tái sanh, nhưng A-la-hán thì không tái sanh, chỉ có
Bồ-tát mới tái sanh thôi. Thế nên khi đọc câu chuyện này chúng ta thấy có
phần khó hiểu, song vì người xưa ghi thì chúng tôi cũng thuật lại cho đầy
đủ.
Thuở nhỏ Sư
dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời. Chữ kỳ lạ có thể hiểu hai cách hoặc là đẹp
đẽ phi thường hoặc là không có sắc diện như người khác.
Cha mẹ mến yêu
dạy các học thuật. Sư học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu
Bảo Phù thứ hai (1274), đời vua Trần Thánh Tông, Sư thi đỗ Tiến sĩ (Trạng
nguyên), lúc ấy được hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Sư,
nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả công chúa cho, Sư vẫn từ
chối.
Chỗ này lại
thêm một nghi vấn, có chỗ nói rằng tuy có sự định hôn nhưng không được
người ưng thuận nên Ngài hơi buồn. Vì thế sau này khi thi đậu, được nhà
vua định gả công chúa cho, Ngài từ chối. Theo sử ghi Ngài có than:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên.
Qua hai câu
thơ này là việc định hôn hình như chưa được người ta ưng ý, nhưng đến khi
đỗ Trạng rồi, ai cũng giành gả con, nên Ngài từ chối tất cả. Từ đó chúng
ta mới hiểu qua việc dung nhan kỳ lạ. Nếu dung nhan đặc biệt đẹp đẽ thì
chuyện hôn nhân không phải khó, nếu khó tức nhiên có điều gì ẩn bên trong.
Sư được bổ làm
quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn
ngữ của Sư vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục. Những điều này là
đúng sự thật.
Một hôm Sư
theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư
Pháp Loa giảng kinh, Sư chợt tỉnh ngộ duyên trước, khen ngợi quí mến, tự
than: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân
gian là bậc tiên, cảnh giới tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quí
như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến?
Đoạn này tôi dịch theo quyển Tổ Gia Thực Lục.
Làm quan được
lên đảo Bồng. Bồng lai là cảnh tiên, tức là làm quan được sướng như tiên.
Đắc đạo thì
đến Phổ Đà, nói được đạo lên Phổ Đà Sơn thì tầm thường quá!
Đảo trên nhân
gian là bậc tiên, cảnh giới Tây thiên là cõi Phật. Như vậy lối nhìn đó
cũng chưa sáng sủa, chỉ có những câu sau là hay: Sự giàu sang phú quí như
lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến? Đó là cái nhìn chính
xác. Sở dĩ tôi nói những câu trên không hay vì tôi ngờ người học Nho trong
gia tộc ghi lại. Đoạn này có một nghi vấn. Quyển Việt Nam Phật giáo Sử
Luận của Nguyễn Lang ghi ngài Huyền Quang xuất gia sau ngài Pháp Loa một
năm. Nếu nói Ngài theo vua Anh Tông lên chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư
Pháp Loa giảng kinh, chợt tỉnh ngộ duyên trước, thì ngài Pháp Loa xuất gia
trước một năm, đâu có đi giảng kinh như vậy, e rằng người viết quyển Tổ
Gia Thực Lục phỏng mà viết, nên không đúng lẽ thật.
Sư mấy phen
dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua rất mến trọng
Phật giáo, nên sau cùng mới cho. Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba
(1305), Sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều
Ngự, được pháp hiệu là Huyền Quang.
Theo Việt Nam
Phật giáo Sử Luận của Nguyễn Lang thì năm 1305, ngài Huyền Quang năm mươi
mốt tuổi, xuất gia theo học với Thiền sư Bảo Phác ở núi Vũ Ninh chớ không
phải theo ngài Pháp Loa. Việc này hợp lý hơn, vì Thiền sư Bảo Phác là đệ
tử lớn của ngài Điều Ngự tức là Sơ tổ Trúc Lâm. Còn ngài Pháp Loa mới xuất
gia trước Ngài một năm, chưa đủ tư cách làm Giảng sư, huống là độ người
xuất gia. Thế nên quyển Tổ Gia Thực Lục có những điều không được sáng tỏ.
Sau khi xuất gia với Thiền sư Bảo Phác, Ngài theo Điều Ngự làm thị giả
được hai năm, được Điều Ngự ban hiệu là Huyền Quang và dặn dò sau này phải
theo trợ giúp Pháp Loa.
Niên hiệu Hưng
Long thứ mười bảy (1309), Sư theo hầu Pháp Loa y theo lời phó chúc của
Điều Ngự. Sau khi Điều Ngự tịch, Huyền Quang theo hầu Pháp Loa đúng theo
lời dặn bảo của Điều Ngự.
Sư vâng lệnh
trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Sư đa văn bác học, tinh thâm đạo
lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không
dưới ngàn người. Có lẽ lúc này Ngài vâng lệnh ngài Pháp Loa về trụ trì Vân
Yên vì Điều Ngự đã tịch.
Sư thường
phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm kinh, Công Văn
v.v… Những khoa giáo trong nhà thiền mỗi mỗi đều phải qua tay Sư cả.
Những kinh
sách Điều Ngự bảo soạn, Ngài đều ra công biên soạn và nhuận bút lại những
kinh sách khác nên những quyển này rất hay.
Ngày rằm tháng
giêng năm Quí Sửu (1313) vua Anh Tông mời về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh
Lăng Nghiêm. Sau đó, Sư dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đây,
lập ngôi chùa phía tây nhà Sư để hiệu là chùa Đại Bi.
Ngài xin phép
triều đình được về thăm cha mẹ, khi ấy Ngài sáu mươi tuổi, lúc xuất gia
Ngài năm mươi mốt tuổi. Đó là một điểm để Tăng Ni ý thức được người quyết
tu phải đặt đạo đức, chánh pháp và sự truyền bá lên trên, chớ không nên
đặt nặng tình cảm gia đình. Thế nên từ khi đi xuất gia đến chín năm sau
Ngài mới về thăm cha mẹ. Thấy cha mẹ già, muốn cho cha mẹ phát tâm hướng
về Phật pháp, Ngài lập một ngôi chùa để tên là Đại Bi. Hay tin này các nơi
đều hưởng ứng ủng hộ và Ngài ở lại đó gần một năm. Hôm đi Hà Nội chúng tôi
được mời đến đây, thấy tháp của Ngài còn tại chùa. Tại sao đặt tên chùa là
Đại Bi? Có hai nghĩa:
1. Cha mẹ đã
sanh ra Ngài và nuôi dưỡng dạy dỗ Ngài đến lớn khôn. Ngài thức tỉnh đi tu,
ngộ đạo, truyền bá chánh pháp, làm nhiều Phật sự. Công ơn ấy như là biển
cả, nên gọi là đại từ đại bi.
2. Ý Ngài
muốn nhắc nhở cha mẹ đã sanh được Ngài hiểu đạo tu hành thì cha mẹ cũng
nên phát lòng đại từ đại bi để tu hành giúp đỡ mọi người.
Khi đến chùa
Đại Bi, tôi nghe người địa phương kể lại là Tổ Huyền Quang đã được phong
làm Lưỡng quốc Trạng nguyên vì khi đi sứ Trung Hoa Ngài đối đáp lưu loát,
vua Trung Hoa nể phục nên phong Ngài chức Trạng Nguyên. Nhưng khi khảo lại
các quyển sử tôi không thấy Ngài đi sứ Trung Hoa lần nào, chỉ có tiếp sứ
thôi. Ngài Mạc Đĩnh Chi mới là Lưỡng quốc Trạng Nguyên. Vì thế những đồn
đại của địa phương thường tô đậm nét thêm cho uy tín của người trước,
nhưng tìm lại lịch sử thì không có.
Sau gần một năm, Ngài trở về núi.
Sư trở về chùa
Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Sư nên cho Điểm
Bích là một cung nhân tìm cách gần Sư để lấy bằng chứng đem về dâng vua.
Điểm Bích dùng man kế gợi lòng từ bi của Sư, rồi về tâu dối với vua. Vì
thế, Sư bị tai tiếng không tốt. Nhưng sau cuộc lễ chẩn tế của Sư, thấy
những sự linh nghiệm lạ thường, nhà vua không còn nghi ngờ. Vua liền phạt
Điểm Bích làm kẻ nô bộc quét chùa trong cung Cảnh Linh ở nội điện. Điều
này là tôi tóm lược, còn trong quyển Tổ Gia Thực Lục thì kể rất dài, tôi
thuật lại đủ cho quí vị biết.
Một hôm vua
Minh Tông nói với quan hầu cận, tăng quan và đạo sĩ: Người ta sanh ra
trong khoảng trời đất, cõng âm và ôm dương, thích ăn ngon ưa mặc đẹp, lòng
ham muốn ấy bọn chúng ta đều có. Còn như gác bỏ một bên lòng ham muốn, dốc
lòng phụng sự đạo là để lo một mặt mà thôi. Vì sao chỉ một mình thầy Huyền
Quang, từ khi sanh đến giờ, vẫn sắc sắc không không như nước không sóng,
như gương không bụi, phải chăng Sư đè nén lòng dục hay là không có lòng
dục? Bỗng có viên quan văn (Mạc Đĩnh Chi) ứng tiếng tâu: Vẽ cọp vẽ da được
chớ khó vẽ xương, biết người biết mặt chớ khó biết được lòng. Xin hãy thử
xem vì sao được như thế?
Vua nghe tâu
bèn lặng lẽ sắp đặt cơ mưu, không để tiết lộ, ngầm chọn người cung nữ tuổi
dưới hai mươi, nõn nà chẳng kém gì Phi Yến, khéo léo còn hơn cả Điêu
Thuyền. Đó là cung nhân Điểm Bích hiệu là Tam Nương. Mẹ nàng người Đường
An, nhà nghèo sống một mình, gặp năm hạn hán đi ăn xin đến huyện Đông
Triều chùa Quỳnh Lâm dừng chân một đêm tại đó. Đến canh ba, bầu trời quang
đãng sao sáng trăng trong, thấy một thanh niên không biết tên họ là gì,
cũng không trông rõ diện mạo đến chỗ bà xin cùng ân ái, xong rồi liền đi.
Nhân đó bà có thai, đủ tháng liền sanh ra một bé gái, bà bồng con về làng
cũ. Một phú ông trong làng mua đứa bé ấy một quan tiền làm con nuôi, những
bé gái cùng lớp thường trêu chọc, gọi nó là con gái chùa Quỳnh Lâm. Khi nó
lớn lên nhan sắc rất đẹp, lại có tính hiếu học, tam giáo cửu lưu không thứ
gì không thông hiểu. Khi có lệnh tuyển cung nữ, Điểm Bích vừa chín tuổi,
được tuyển vào làm cung nữ. Trường thiên ngũ ngôn hễ mở miệng là thành
chương, nhưng sở trường nhất là quốc ngữ, vua nói đó là đứa bé gái thần
đồng. Khi ấy vua gọi Điểm Bích vào nội điện, ban cho một thẻ bài cầm tay
và căn dặn: Vị tăng ấy vốn không ưa sắc dục, tánh tình rất cương trực,
giới hạnh lại cao nghiêm, ngươi có nhan sắc lại có tài ăn nói và thông
hiểu sử kinh, vậy hãy đến thử thầy. Nếu thầy còn động lòng quyến luyến
tình dục, ngươi hãy dụ lấy cho được kim tử làm bằng chứng, bằng gian trá
sẽ có tội, ngươi phải kính cẩn vâng lời.
Điểm Bích vâng
lệnh ra đi đem theo một đứa tỳ nữ đến chùa Vân Yên gặp một Tỳ-kheo-ni già,
tự khai quê quán của mình cầu xin xuất gia học đạo tu hành, nhờ bà tiến
dẫn với Quốc sư. Vị Tỳ-kheo-ni già thường sai Điểm Bích sớm chiều dâng
nước trà lên Sư, Sư thấy người ấy đi đứng có cử chỉ lẳng lơ đùa cợt, không
phải là người Phật tử chân chánh cầu đạo, bèn ra lịnh Tăng Ni khiển trách
vị Tỳ-kheo-ni già, bảo Điểm Bích trở về nhà lo việc lấy chồng, kiếm nghề
sinh sống, đợi đến tuổi già sẽ cho đến học đạo. Điểm Bích thấy Sư giới
hạnh tinh nghiêm, uy nghi lẫm liệt, khó dùng sắc đẹp cám dỗ, chợt nảy ra
một kế, ban đêm đến vị Tỳ-kheo-ni già khóc và nói: Thiếp vốn là con nhà
vọng tộc ở Đường An, gia đình nhiều đời đỗ đạt làm quan, từng truyền lại
cái học về thi lễ. Cha thiếp tập ấm theo thứ tự được làm chức Huyện thừa ở
huyện Cảm Hóa, đạo Ninh Sóc. Khi thu thuế ruộng hàng năm tính thành vàng
ròng được một trăm mười lăm dật, ông đem cất vào một cái túi, mang về kinh
để nạp vào kho của quan. Trên đường đi ông nghỉ tạm tại phường Toán Viên
Bắc phủ, bị bọn gian manh lập mưu cướp sạch, không lấy gì để ứng nạp. Ông
bèn làm đơn trình bày rõ với quan bộ Hộ, quan bộ Hộ thương tình cho hẹn
đến cuối năm sẽ mang đủ số vàng đến nạp. Nếu quá kỳ hạn, quan sẽ tâu mọi
việc lên triều đình và vợ con điền sản sẽ sung công tất cả. Do đó thiếp
mới phổ khuyến thập phương các châu lộ phủ huyện những nhà giàu có mong
giúp công đức, đồng thời bán gia tài điền sản để góp vào khoản vàng còn
thiếu. Nghe tôn sư đức trọng đạo cao, lòng sẵn từ bi thiếp mới hỏi chỗ ở,
lần bước đến đây, đợi lúc thung dung nhàn hạ thiếp mới bày tỏ sự tình,
trình thư phổ khuyến, mong được công đức trong muôn một. Nếu được may mắn
chẳng những riêng cha thiếp khỏi bị tội nặng, mà nam nữ toàn gia của thiếp
cũng được giải thoát. Đó là điều mà người xưa gọi là ân sanh tử cốt nhục
vậy.
Các Tăng Ni
môn đồ nghe thấy lời nói ấy xót thương cho tình cảnh nàng, không ai là
không rớm lệ, đồng thưa với Sư xin góp vàng bạc công đức để cứu tính mạng
của một gia đình. Sư trầm ngâm hồi lâu nói: Ngài xưa Hán Văn đế cảm thương
lời tâu của nàng Đề Oanh mà bỏ nhục hình, Đường Thái Tông xem bản đồ Minh
Đường mà dẹp cấm đài. Hai vua ấy đều thể theo đức hiếu sanh của Thượng Đế,
(câu Thượng Đế này chắc không phải Ngài nói) nên cho con cháu hưởng lộc
trời lâu dài đến ba bốn trăm năm, không có ân đức mà được như thế sao! Ta
phải vì ngươi về triều tâu rõ việc ấy, ngõ hầu quảng bá đức hiếu sanh của
Hoàng đế mà cũng là phương tiện cứu khổ tốt đẹp vậy. Có một tiểu tăng đứng
bên cạnh ứng tiếng bạch với Sư: Pháp luật là việc công của thiên hạ, ông
ta không giữ cẩn thận, pháp luật bắt tội là đúng theo luật công vậy. Chúng
ta có vàng bạc đem cho là sự giúp đỡ riêng. Nếu vì muốn giúp riêng mà bỏ
công pháp thì có hay hay không (tức là có nên hay không)? Sư bảo: Tiểu
tăng này nói đúng. Sư bèn lấy một dật vàng cho Điểm Bích để đem về chuộc
tội cho cha nàng, chư Tăng Ni cũng lấy tiền của ra cho.
Điểm Bích được
kim tử bèn từ biệt về nhà. Đến ngay triều đình vào trước vua quì tâu:
Thiếp phụng chỉ tới thử Thiền sư Huyền Quang, khi đến chùa Vân Yên nói dối
với một vị Tỳ-kheo-ni già rằng thiếp là con gái nhà thường dân đến xin làm
đệ tử học đạo với tôn sư. Vị Tỳ-kheo-ni già ấy thường sai thiếp dâng trà
nước lên Sư. Trải hơn một tháng, Sư chưa từng ngó thiếp hay hỏi han điều
gì. Một ngày kia vào lúc ban đêm Sư lên chùa tụng kinh, đến canh ba Sư và
Tăng Ni đều trở về liêu phòng an nghỉ, thiếp bèn lén đến cạnh tăng phòng
nghe động tịnh, thấy Sư ngâm kệ rằng:
Vằng vặc trăng mai ánh nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh,
Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ,
Mâu Thích-ca nào thử hữu tình.
Sư ngâm đi
ngâm lại đến ba lần, thiếp bèn vào phòng từ biệt Sư, xin trở về nhà thăm
cha mẹ, hẹn năm sau sẽ trở lên xin học đạo. Sư bèn lưu thiếp lại một đêm,
tặng thiếp một dật kim tử.
Vua nghe nói
lòng buồn không vui, than rằng: Việc này nếu có thật thì đó là cái kế
ngang qua cửa mà giăng lưới bắt chim của ta. Còn nếu không thì ông ta cũng
khó tránh mối ngờ ngồi xỏ giày nơi đám ruộng dưa. Vua bèn mở đại hội Vô
già ở phía tây kinh thành, khiến sứ giả đi mời Sư, bí mật bày trên bàn
cúng cà-sa y bát pháp khí lẫn lộn với cả đồi mồi vàng bạc châu ngọc.
Sư thấy sứ
thỉnh, liền về triều yết kiến. Sáng sớm hôm sau, Sư vào đàn tràng thấy bốn
bên bọc lụa vàng, trên bàn bày các tạp vật cùng hương đăng lục cúng, Sư
biết là do việc cung nữ thử mình ngày trước, liền ngửa mặt lên trời than
thầm, rồi lên đàn ba lần, xuống đàn ba lần, đứng ngay giữa đàn vọng bái
Thánh Hiền mười phương, tay trái cầm bình bạch ngọc, tay phải cầm nhánh
dương xanh mật niệm và tẩy tịnh trên dưới và trong ngoài đàn tràng. Bỗng
thấy một đám mây đen hiện lên từ hướng đông nam, bụi bay mù mịt ngất trời,
một lát liền dứt, các thứ tạp vật bị cuốn bay đi hết chỉ còn lại hương
đăng lục cúng. Các đạo tràng và những người xem hội ai nấy thất sắc kinh
hoàng. Vua thấy hạnh pháp của Sư thấu đến trời đất liền rời chỗ ngồi lạy
xuống để tạ lỗi rồi phạt Điểm Bích, bắt làm tỳ nữ quét tước một ngôi chùa
trong nội điện cung Cảnh Linh. Từ đó vua càng thêm tôn kính gọi Sư là Tự
Pháp.
Sự thể này tôi
gọi là một màn thần bí phủ kín đời của Ngài. Một việc rất giản đơn mà trở
thành huyền bí. Có bà ni già, có tăng chúng, nếu quả tang Điểm Bích đánh
lừa như vậy, nhà vua nghe cô về trình, chỉ cần cho người đến điều tra thì
rõ, đâu có gì huyền bí, tại sao không điều tra lại lập đàn chẩn tế cầu sự
linh ứng? Rốt cuộc Thiền sư thành một người ngồi đàn chẩn tế. Đó là một
điều làm cho trạng thái đạo đức đi xuống. Khi Ngài sanh ra cũng có những
điều huyền bí, khi có tai nạn cũng là huyền bí chớ không có một bằng chứng
cụ thể. Như vậy chúng ta thấy người viết tiểu sử nặng về hình thức rất
bình dân chớ không có tính cách thiền chút nào. Đó là một điều đáng buồn
khi đọc tới đoạn này. Một Giảng sư được cả ngàn người đến nghe, mà không
có một câu pháp ngữ, một Thiền sư lại đi tụng kinh. Chúng tụng kinh sám
hối, còn Thiền sư thì ở tại thất, hoặc tại tăng phòng. Một việc vô lý nữa
là sư Huyền Quang ngâm nga đến ba lần một bài kệ rất là tình tứ. Một Thiền
sư, một vị Tổ lại có tâm niệm như thế sao? Chỉ vì Điểm Bích giỏi văn nôm
nên mới xuất khẩu thành chương, nói bài kệ này rồi đổ cho ngài Huyền
Quang.
Lại nữa về
quyển Tổ Gia Thực Lục, có người nói rằng: Khi quan nhà Minh sang chiếm
Việt Nam, gom hết sách vở đem về Trung Hoa, trong đó có quyển Tổ Gia Thực
Lục. Viên quan đó để trong nhà ông thì thấy ngài Huyền Quang hiện lên bảo
đem trả lại cho Việt Nam, nhưng rồi ông chết. Sau này có một vị quan Việt
Nam sang triều cống Trung Hoa thì người cháu bốn đời của viên quan kia
hay, mới đem quyển này gởi trả. Như vậy quyển này ra đời cũng nằm trong sự
huyền bí.
Đây là những
điều làm cho chúng ta phải ngờ là người trong gia tộc phỏng ghi lại chớ
không có lẽ thật.
- Thứ nhất là
khi sanh ra cũng mang một màu sắc huyền bí, xem như là sự tái thế của ngài
A-nan.
- Thứ hai là
khi có tai nạn thì dùng sự thần biến cầu cúng.
- Thứ ba là
quyển này mất rồi được lại cũng mang màu sắc huyền bí không có gì thực tế
khoa học.
Nhưng hiện nay
tìm lại thì không có một bản nào nói rõ đời của Ngài ngoài bản này. Vì vậy
chúng ta thấy khó xử khi đọc những việc trên. Nếu trọn tin theo đây thì
không được, còn nếu không tin thì phải làm sao? Có những nhà nghiên cứu
không chấp nhận những điều đó, vì thế tôi không thể chỉ dùng một quyển này
mà phải thu nhặt nhiều nơi.
Năm Đại Khánh
thứ tư (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Điều Ngự và tâm kệ. Vì khi
bệnh, ngài Pháp Loa sợ mình tịch nên đem y và tâm kệ của Điều Ngự trao cho
Huyền Quang, nhưng sau đó Ngài dứt bệnh và tiếp tục làm Phật sự.
Năm 1330, khi
Tổ Pháp Loa tịch, Thiền sư Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử, bấy giờ Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Đến bảy mươi tuổi
Ngài mới thay Tổ Pháp Loa lãnh trách nhiệm gánh vác Giáo hội.
Tuy nhận trọng
trách lãnh đạo Giáo hội, song vì già yếu nên Ngài ủy thác mọi việc cho
Quốc sư An Tâm, trở về trụ trì ở Côn Sơn. Như vậy Ngài ở Côn Sơn trước.
Quốc sư An Tâm là đệ tử của Ngài.
Sư trụ trì ở
Thanh Mai Sơn sáu năm. Kế sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày hai
mươi ba tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Sư viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám
mươi tuổi (tuổi Việt là tám mươi mốt). Ngài tịch năm 1334 tại Côn Sơn nên
nay còn tháp hiện ở Côn Sơn.
Vua Trần Minh
Tông phong thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền
Quang Tôn Giả.
Những tác phẩm
của Sư:
- Ngọc Tiên
tập
- Chư phẩm
kinh
- Công văn tập
- Phổ Tuệ Ngữ
Lục (Ngữ lục của ngài Pháp Loa do Ngài ghi lại).
Như vậy thơ
của ngài Huyền Quang được ghi trong Ngọc Tiên tập nhưng hiện nay tìm lại
thấy rời rạc ở các nơi. Trong Ngọc Tiên tập hiện còn được hai mươi ba bài
thơ ghi lại trong Việt Âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển
v.v…
Tóm lại chúng
tôi nghĩ quyển Tổ Gia Thực Lục không phải do đệ tử được truyền pháp ghi mà
một nhà nho trong thân quyến viết lại, nên nó không đúng tinh thần của một
tập Ngữ lục. Ông Phạm Đình Hổ đời Lê khi xem quyển Tổ Gia Thực Lục có nói:
Chuyện Thiền sư Huyền Quang có ghi trong sách Trúc Lâm Truyền Đăng Lục,
nhưng quyển đó nay đã thất lạc, nếu còn quyển đó chúng ta sẽ được đầy đủ
tài liệu về Ngài.
Phần thi văn
còn sót lại có hai mươi ba bài thơ chữ Hán và một bài phú chữ Nôm tả cảnh
Hoa Yên. Chúng ta nương theo những bài này mà hiểu được tinh thần đạo lý
của Ngài chớ không thể y cứ trên phần sử của Tổ Gia Thực Lục.
] |